THÁNH HUẤN DẠY VỀ ĐẠO TRÀNG
Ngày 18 Tháng 4 Annam 1939 (10g. sáng) [ĐCL.36/68]
Nầy các con Nam, Nữ có mặt học Đạo Tràng tại đây, hỡi nghe Thầy cho một bài Đạo đây, nghe rồi ráng xét, nghe các con.
Đ Ạ O :
1.- Đạo Trời mở cao thâm huyền bí
Cậy người thay cứu thế độ Đời
Các con đừng tưởng trò chơi
Quen theo thế tục, dễ ngươi thì lầm
2.- Khuyên cả thảy để Tâm về Đạo
Đặng lo tròn thuận thão hòa nam
Nhớ câu: Phúng huyết khẫu hàm
Cách xa lùa bợ, Đạo nhằm không xa
3.- Mấy kiếp tội nay đà gặp gỡ
Gỡ là lo, là sợ siêng làm
Đạo Mầu dạy cả Nữ Nam
Nữ Nam vì Đạo, rán ham tập lần
4.- Còn một kiếp xây vần thay đổi
Đổi thay là Phước nối, tội trừng
Rõ ràng khỏi chối oan ưng
Biết tin về Đạo, sợ mừng là đây
5.- Trong chỗ đó, từ nay ráng nhớ
Nhớ lời nầy, trả nợ nhờ Tu
Đạo Cha nào có quến rù
Tùng theo lẽ thiệt, phá mù tục mê
6.- Mỗi điều có thưởng, có chê
Mỗi con nghe đặng mình che cho mình
Mậu Dần Đạo chuyển diệu Linh
Năm nay Kỷ Mảo, có nhìn được chưa ?
7.- Khoan lo Cửu phẩm Thượng thừa
Ráng lo dòm lại, mình chưa thiệt mình
Muốn ròng rặt giống thì tin
Tin về Chơn Lý, làm inh như lời
8.- Đèn lờ khó rọi khắp nơi
Dầu hao, tim lụn tại đời dạt phai
Phải bền lòng một đừng sai
Giúp trong sự thiếu, nhiều tay khổ nghèo
9.- Nhắc cho lớn, nhỏ đủ điều
Đạo Cha là dạy, tránh điều họa tai
Mỗi con nương náu lâu dài
Trước sau vì Đạo, sợ Thầy đừng than
10.- Cõi trần giành giựt giàu sang
Quyết tu thì tránh, mình an phận mình
Nhà cũng có kẻ giữ gìn
Mỗi con biết vậy, xử mình trọn vui
11.- Tháng, ngày Tòa Thánh tới lui
Trong no, ngoài ấm; miệng bùi sớt chia
Đạo thường cấm sự đảng phe
Con nào rõ Đạo, đừng nghe lời tà
12.- Sum vầy Đạo Lý một Cha
Cha là Lý Một, chỉ ra chơn truyền
Gái, trai nghe đặng làm Hiền
Hiền nương lấy Đạo, phĩ nguyền từ đây
13.- Giúp nhau là tại thương Thầy
Thầy thương con dại, một bầy nên than
Đứa hòa, đứa dọc, đứa ngan
Bỏ thì không nỡ, còn mang nhọc lòng
14.- Giáng đàn dạy dỗ cho xong
Vì câu Từ Phụ, hết lòng là đây
Nếu con nào biết thương Thầy
Tội kia, án nọ; đó vầy, đây sao
15.- Chạnh lòng nhớ đó quặn đau
Ngày nay chịu đọa, ngày nào làm nên!!
Đạo Tràng dùng đạo dạy khuyên
Dùng con biết đạo, Đạo chuyên sửa người
Có căn nghe đó rõ Trời
Vô duyên dầu đọc, mấy đời cũng xa./.
CA, in ra gởi cho các Chủ Thánh thất hoặc là phát cho Đạo học đặng xét mình là đó. -THĂNG-
—————————d&c—————————
Thuận Mỹ,
Ngày 05 Tháng 3 Annam 1939 (02 giờ trưa) [ĐCL.36/71]
ĐƯỢC, con phải sửa bài cảm tạ Đạo Tràng của THÂN đi, đặng trả lại cho nó học. Con sửa đi có Thầy dạy cho.
THI BÀI :
1.- Đạo tràng mở từ đây rộng rãi
Ơn Từ Bi quãng đại vô cùng
Khó, giàu đều cũng con chung
Vì thương nên dạy, cho thông khỏi lầm
2.- Đạo khai trọn mấy năm rồi cũng
Cũng chưa tường Thể Dụng Hòa Sanh
Đến nay Tam Tiểu hiệp thành
Phát minh Chơn Lý, chỉ rành nhặc, thưa
3.- Thái Đầu Sư, lòng ưa mến Đạo
Vưng lịnh Thầy dạy bảo Đạo tràng
Phối Sư và cả lưỡng ban
Từ nay chung hiệp, sửa sang vui vầy
4.- Phần giảng sơ tại đây khó nhọc
Việc tốn hao lăn lóc, lo lần
Anh em thấy vậy đều mừng
Mừng cho mối Đạo, mở lần lớn ra
5.- Em khi trước là Ban Chỉnh Đạo
Rõ tin Thầy thuận thão đồng vui
Đặng chung đạo lý trau giồi
Từ nay Em nguyện, một lời nầy đây
6.- Đây là Lý, có Thầy dạy dỗ
Dạy dỗ chung tật đố khuyên chừa
Rõ điều tội, phước nhặc, thưa
Nghe theo lời Đạo, đặng ngừa phàm tâm
7.- Trong chỗ học là tầm Chơn Lý
Lý một là không vị, không từ
Chỉ rành các lẽ thiệt, hư
Biết nghe phải sợ, sửa Ngu ra Hiền
8.- Ban phúc mọn Chơn truyền Tam giáo
Dẫn lần theo cơ Đạo tuần huờn
Tỏ điều Ưu Dõng Trí Nhơn
Đặng tuân theo đó, tránh cơn hiểm nghèo
9.- Trong việc học, ít nhiều phải xét
Xét trọn bài thì biết dữ, lành
Định Thần Tâm Huệ mới sanh
Lảng xao giờ khắc, mối manh đâu tường
10.- Tuy là biết Thầy thương nên dạy
Song mình lo sửa cãi lấy mình
Sợ Thầy, dạy phải, phải tin
Tin là lo sửa, lo gìn đặng an
11.- Đừng ham muốn cãi bàn chi lắm
Việc cao xa, Thầy cấm phải chừa
Các điều quốc sự đừng mơ
Việc tu là sửa, bợn nhơ nơi lòng
12.- Tuy Thầy nói Đại Đồng kiếp số
Lòng quyết tu sự khổ xa lần
Ấy là nhờ chút huệ ân
Vô trung thành tựu, tự tân an nhàn
13.- Khuyên chừa sớm thở đừng than
Trước mình có lỗi, nay toan sửa mình
Phận ai thì nấy giữ gìn
Gìn câu đạo lý ,tỷ mình luận ta
14.- Đạo Tràng nay đã bày ra
Tốn hao thì ít, thuận hòa thì đông
Phải rành kẻ của, người công
Giúp nhau lo Đạo, đừng lòng trắng, đen
15.- Tu hành còn đợi ai khen
Pháp tài tế độ, tội riêng giảm trừ
Ở đời kẻ thiếu, người dư
Thương nhau vì Đạo, khác hơn tục đời
16.- Mỗi khi nào nói giúp người
Người lo cho Đạo, đạo Người là đây
Học chung trong có một Thầy
Phải noi gương tốt, chỉ bày chuyện nên
17.- Nương nhau nối gót cho bền
Mở mang thuần hậu, rán kềm thúc nhau
Đừng lòng tự đắc, tự cao
Biết nhau là đạo, thấp cao dạy lần
18.- Trên nhờ Từ Phụ ban ân
Dưới xin Anh, Chị; xét phân mấy lời
Phận hèn vì đạo tới nơi
Là nơi trường đạo, tỏ lời tạc ơn
19.- Sau là phân lẽ thiệt, hơn
Cũng trong Lý Thiệt, lòng nhơn nên bày
Mặc dầu chê dỡ, nói hay
Biết sao làm vậy, nhờ Thầy dạy thêm./.
–THĂNG-
—————————d&c—————————
Ngày 20 Tháng 4 Annam 1939 (7 giờ sáng) [ĐCL.36/74]
Tam Kỳ vừa gặp Hội nầy
Tan sương, vén ngút rẻ mây trong Trời
(kinh Lạy Thầy)
VĨ, Con nghe Thầy dạy :
1.- Con muốn rõ Tam Kỳ vừa gặp
Hội LONG HOA nầy lập cứu đời
Tan là sương sạch ngút rời
Rẻ mây nhờ học, Đạo Trời dạy trong
2.- Tam Kỳ ngộ, dày công suy xét
Xét Sám Kinh mới biết sự mừng
Nghe sơ dường thể chỉ chừng
Chừng coi lại kỹ, bước đường gần đây
3.- DI ĐÀ định mười hai năm Hội
Mỗi một kỳ Đại Hội một lần
Mười hai năm định Mậu Dần
Hội trao lãnh thưởng, khuyên trừng tại đây
4.- Trong Ngôi Chủ một Thầy gầy dựng
Ngoài nhờ con thão thuận vui vầy
Định Tường có Hội từ đây
Khải thông Đạo chánh vạy, ngay phân rành
5.- Con gặp Hội Dữ, Lành đều rõ
Rõ rồi coi lấy đó xét mình
Chuyện nhằm chuyện phải, phải tin
Là tin Lý Thiệt, gọi mình là Tu
6.- Tan sương vén ngút mù là đó
Thầy khuyên chung chịu khó theo Thầy
Theo Thầy, Thầy ngự tại đây
Nếu chê không đến, lầm sai tại mình
7.- Dạy cho con biết giữ gìn
Gìn trong lời dạy, đặng nhìn đường ngay
Mỗi nơi đều mượn tiếng Thầy
Song đều gạn lóng, khó tày kịp đây
8.- Chỉ cho con rõ đó Thầy
Đặng con khỏi lạc, sau bày dạy chung
Xưa nay thường nói cuối cùng
Ngày nay tái lập, lấy cùng làm thông
Từ nay khuyên rán hết lòng
Tới lui Tòa Thánh, đặng phòng học thêm.
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA, đặng nó in ra dạy đạo. Còn một bổn thì trả lại cho Vĩ./.
—————————d&c—————————
Ngày 7 Tháng 3 Annam 1939 ( 9 giờ tối) [ĐCL.36/76]
ĐƯỢC, Con nghe Thầy dặn : Giờ Tý nầy có Tây Vương Thánh Mẫu giáng đàn. Vậy con phải chấp bút đặng nghe theo mà viết ra một bài gọi là KHUYẾN ĐẠO.
- Bạch, con vưng theo lời Thầy.
1.- Nầy hai phái rán ghi lời Mẹ
Trước có công, sau sẽ đặng nhờ
Đã đành khó hiểu Thiên Cơ
Song Thầy có tại hiện giờ cứu nguy
2.- Cuộc Tam Tiểu là kỳ Tân Khổ
Nếu không Thầy ai độ cho an
Tại chưng các trẻ mơ màng
Việc tu chưa biết, còn gàn cản trong
3.- Mẹ nhìn thấy đau lòng cho đó
Đã có công chịu khó, không tròn
Mẹ vì thương hết các con
Cho nên Mẹ giáng nỉ non phân trần
4.- Đứa thì nói biết Thần, biết Thánh
Đứa thì xưng biết Chánh, biết Tà
Kiếm điều cãi lẩy gần xa
Mà quên trong đó Người Ta chưa rành
5.- Tại quên vậy, khó nhìn Thầy Mẹ
Thầy dạy con, còn Mẹ lo lường
Dạy cho lớn, nhỏ rõ đường
Lo cho các trẻ, có thường ấm, no
6.- Biết Thầy dạy dặn dò từ nét
Biết Mẹ lo đem Thiệt sửa lầm
Con nào còn nhớ vào Tâm
Đó là tin trọn, tưởng thầm phần riêng
7.- Chư Thần sẵn chép biên rành rẻ
Công mỗi con còn để sẵn sàng
Thánh Tòa công vụ vững an
Thì trong mỗi đứa mở mang hơn nhiều
8.- Mẹ chỉ rõ các điều hư, thiệt
Trong các con nào biết thì nhờ
Đứa nào lòng ngáo, dạ ngơ
Vì tin chưa trọn, đợi chờ mòn hao
9.- Sẵn lòng Thầy cũng dạy trao
Là trao Chơn Lý khó, giàu đồng vui
Cạn lời dặn tỏ khúc nôi
Là nôi thảm thiết, buồn vui không thường
10.- Tại đi không thẳng một đường
Đứa tuân bước tới, đứa cường cãi lui
Đó là chỗ thảm con ôi !
Đó là chỗ thích, tưởng vui lầm buồn
11.- Cuộc trần nhiều nỗi hố truông
Dầu cho con tránh, tại tuông đi càng
Trước nhìn đứa thở, đứa than
Mình sao chẳng sợ, lại toan theo cùng
12.- Ích gì liều mạng khổ chung
Khổ mà vô ích, khổ không nên tài
Cũng vì ham mặt, cứu tai
Mà không rõ cứu, rõ tai là gì
13.- Cứu là Thầy chỉ chỗ nguy
Biết nghe rồi tránh, thì nguy khỏi mình
Tai là gây sự bất bình
Là tai nạn lớn, tự mình bày ra
14.- Từ trai, chí gái trẻ già
Thấy tai trước mặt tưởng là đồ chơi
Tai nghe, tiếng kĩnh, lời mời
Trốn trong xác thịt, Phật Trời nào kiêng
15.- Phật khuyên bỏ dữ, theo hiền
Trời răn quở phạt, dạ phiền không vui
Lũi lầm theo chỗ kéo lôi
Đến cơn đày đọa, biết rồi nào xa
16.- Giờ nầy Mẹ giáng Phổ Đà
Cả Nam, cùng Nữ tựu hòa nghe chung
Nghe rồi thì xét cho thông
Cũng không ngàn dặm, cũng trong lúc nầy
17,- Đứa nào biết Mẹ, biết Thầy
Thì theo cái biết, biết nầy là an
Biết nầy rõ đặng kiếp căn
Vì căn kiếp phải, ngộ an theo thời
18.- Có công thờ Phật, thờ Trời
Phât thương nên cứu, lập đời từ đây
Trời ra sửa trị, xưng Thầy
Mẹ nuơng lời điễn chẳng hoài công lao
19.- Từ nầy, sắp tới, kế sau
Mỗi con đều phải nhớ nhau cho thường
Nhớ chung nhau chỗ Định Tường
Nhớ rồi thì rõ, các đường vạy, ngay
Trước đàn mừng cả gái, trai
Có Tâm vào Đạo, đừng sai dặn dò.
CA, đọc trước khi hành lễ thời Tý đây. Rồi sau sẽ in ra gởi truyền cho các chỗ.
—————————d&c—————————
Ngày 27 Tháng 3 Annam 1939 ( 3 giờ chiều ) [ĐCL.36/79]
“Các con chuộng Cao Đài danh hiệu
Mà không lo thấu hiểu Đạo Mầu
Ngàn khuyên, muôn dạy bấy lâu
Lòng con bôi lọ, một câu chưa rành
Nói năng dường sãi niệm kinh
Gạn lòng lại thử, ngọn nhành u ơ”
(C.Mê số 10, vé 264)
TỰ, nghe Mẹ dạy :
1.- Các con chuộng CAO ĐÀI danh để
Để hiệu khoe, kiếm thế, cậy thần
Chuộng mà chẳng xét, chẳng phân
Không rành chỗ chuộng có cần ích chi
2.- Có công nghiệp thị phi không xét
Danh hiệu Thầy là thiệt tốt cao
Cao xanh Đài vọi làu làu
Một Ngôi Độc Nhứt, gồm bao dưới trần
3.- Mà tại trẻ, không cần sự Học
Khó thấu điều Thận Độc Chơn Thân
Đạo Cao mầu nhiệm muôn phần
Học đâu hiểu đó, đặng lần bước theo
4.- Đạo Mầu dạy rãi gieo Chơn Lý
Biết Ta, người biết Lý tồn vong
Tuồng đời ấm, lạnh phải thông
Trở day tấn thối, nhờ thông Đạo Mầu
5.- Ngàn năm dạy khuyên đâu, bỏ đó
Dạy cho nhiều, sợ khó rồi thôi
Tại vầy chìm đắm nổi trôi
Lòng con mỗi đứa, lọ bôi thêm nhiều
6.- Một câu nói dệt thêu, thêu dệt
Trong chưa rành, lợt đậm mỏng dày
Nói nhiều vậy tưởng là hay
Giống in bọn sãi, khoe tài niệm kinh
7.- Gạn lòng hỏi lại chữ Tin
Thử xem mỗi đứa, làm thinh như tờ
Ngọn nhành không rõ ngáo ngơ
Ngoài ra kiếm chuyện u ơ cho rồi
8.- Mẹ nhìn thấy rõ khúc nôi
Phần đông tại đó, mà thôi tu hành
Cũng vì mình chẳng xét mình
Dốt không chịu học, thì đành chịu hư
9.- Tội kia, lỗi nọ ai trừ
Chuộng danh làm dối, đổ thừa được sao
Dạy rành con rõ thấp cao
Muốn nên người Đạo, thì mau học hành
ĐƯỢC, bài nầy con giao lại cho CA đặng in ra dạy đạo. Còn một bổn thì trả lại Hương Tự (ở Sa Đéc).
—————————d&c—————————
Ngày 11 Tháng 1 Annam 1939 (01 giờ trưa) [ĐCL.36/81]
ĐƯỢC, con phải sửa bài học của Sáu lại đi, trả lại cho nó học. Con sửa đi, trong đó có Thầy dạy cho.
Đầu bài học của Thầy cho như vầy :
“Tu phải biết Tam Kỳ mở Đạo
Vì các con ngơ ngáo Thiện Duyên
Mê mang giấc mộng nhãn tiền
Luân trầm khổ hải , liên miên chẳng rời
Khoe mình, cậy thế, gạt người
Nghiệp chướng rối đời, Trời thảm, Đất than’’
(Chuyển Mê số 10 – vé 268 )
Sửa Bài Giải Nghĩa :
1.- Tu hành phải biết Tam Kỳ
Tại sao mở Đạo, tại vì đời suy
Vì chưng khi trước Nhứt kỳ
Di Đà, Thái Thượng, Phục Hy ra đời
2.- Tam Tông Thiên Mạng thay Trời
Giác Mê Cảm Ứng định thời Âm, Dương
Văn minh đạo lý tỏ tường
Lâu lâu biến đổi, bước đường Đạo xa
3.- Nhị kỳ phỗ độ Thích Ca
Di Đà tái thế, diễn ra cơ mầu
Thái Thượng kiếp Lão Đam sau
Đem lời đạo đức, thấp cao dạy truyền
4.- Khổng Tử là Phục Hy nguyên
Tố vương, Tổ thuật mối giềng nhơn luân
Tây chơn, đạo mở nhiều lần
Qủi vương phá hoại, muôn dân khổ nàn
5.- Ngọc Tòa Thượng Đế truyền ban
Chúa sai Con Một, rõ ràng Y Sao
Máu hồng chuộc tội xiết bao
Gọi là Tứ Thánh, công cao đức dày
6.- Lưu truyền từ đó, tới nay
Đời suy thói tệ, tục thay đổi lần
Tại vầy đồ thán sanh dân
Chuyển Tam Kỳ Đạo, Bính Dần tại Nam
7.- Trước sai Tam Trấn lâm phàm
Đổi tên Tam Giáo, đặt làm Đạo Cao
Đài Linh vuông tấc mở đầu
Tiên Ông Bồ Tát, nhiệm mầu vô song
8.- Có ba kỳ tiểu ẩn trong
Chuyển sang tới kiếp Đại Đồng lại qui
Đó kêu là Đạo Tam Kỳ
Phát minh Tà, Chánh; thau chì biện phân
9.- Nếu ai ngơ ngáo không cần
Thì không hưởng đặng, trọn phần phước duyên
Thiện căn dầu có lưu truyền
Mà không noi giữ, chuyện hiền hóa hung
10.- Vì mê giấc mộng vô cùng
Sánh so trước mắt lạ lùng cuộc vui
Tuần huờn khổ hải nổi trôi
Kẻ sau, người trước kéo lôi theo nhiều
11.- Chẳng rời ra khỏi tại kiêu
Vì khoe mình mạnh, hiu hiu cậy tài
Thế thần mưu chước biếm bày
Gạt cho người phải, chịu tai với mình
12.- Nghiệp oan chướng ức vô hình
Rồi đời thân xác, khó nhìn đường tu
Buổi đầu Đạo mở dạy tu
Vì nghe chưa rõ, tưởng đâu hại đời
13.- Không dè mối Đạo của Trời
Thảm thương Nhơn loại, dựng đời bình an
Đất bằng, gió thuận, nước an
Là nghe theo Đạo, đặng toan làm Lành
14.- Nếu ai chưa rõ phận mình
Người trong Trời Đất nỡ đành hại nhau
Đó là gây tội về sau
Trời than, Đất thở rún nhao đoạn lìa
15.- Giải sơ Lý Đạo Tam Kỳ
Người tu thì phải, nhớ ghi vào lòng
Đạo Đời hai lẽ phải thông
Vì Cơ Tạo Hóa dạy chung một lời
16.- Cách nhau tại chỗ Ta, Người
Cái khôn, cái dại, cãi Trời cự đương
Phải chi chung hiệp một trường
Chia nhau hành đạo, tránh đường họa tai
Thờ Trời tu niệm ít ai
Mượn danh phá Đạo, bẻ bai thì nhiều./.
( LS. SÁU - ở Lương Hòa Lạc )
—————————d&c—————————
Ngày 5 Tháng 3 Annam 1939 ( 3 giờ chiều ) [ĐCL.36/84]
Bài nầy Thầy sửa về hai chữ Tứ Ân.
THÂN, con nghe Thầy dạy :
1.- Con luận giải Tứ Ân thì phải
Thầy khuyên con sửa lại như vầy :
Ơn Trời, Ơn Đất với Thầy
Mẹ Cha là bốn, cao dày nặng sâu
2.- Bốn ơn đó người âu lo trả
Trả cho rồi, thong thả phận người
Trước là kĩnh sợ Luật Trời
Đã che cả thảy, trong đời ở chung
3.- Bao võ trụ, nhờ Không mà sống
Đổi thay truyền trong mối huyền vi
Ơn cao, Luật cả khó bì
Thưởng ban răn trị, Đạo tùy chỗ Không
4.- Còn Đất rộng minh mông thế giái
Đồng chở chung chũng loại thú cầm
Kìa như biển rộng thậm thâm
Vật nơi đáy biển, Đất nằm đỡ chưn
5.- Núi cao vọi ngàn từng chớn chở
Nếu chưn không Đất đỡ sao bền
Côn trùng, thảo mộc gầy nên
Ấy là sơn thủy tuổi tên lâu dài
6.- Cha cùng Mẹ, ai ai Phụ Mẫu
Sanh ngã hề hai chữ Cù lao
Nặng nề cay đắng xiết bao
Lúc sanh, lúc trưởng gồm bao lo lường
7.- Ơn Sư Mạng mở đường giáo huấn
Dạy lễ nghi Tinh vững Thần bền
Đạo người nhờ đó mà nên
Có danh, có phận; tuổi tên yêu vì
8.- Trong các việc Trí Tri Cách Vật
Nếu không Người tỏ thiệt biết đâu
Muốn thông lấy Học làm đầu
Là Chơn Sư Mạng, chẳng cầu lợi riêng
9.- Trãi xem các Bậc Thánh Hiền
Tứ Ân thường giữ trọn nguyền thỉ chung
Khít khao yêu mến một lòng
Tiền lưu hậu cố, chữ đồng Đạo sanh
10.- Trọn Nhơn, trọn Nghĩa, trọn Thành
Tứ Ân là trước, phải rành phải ghi
Mỗi điều phải xét, phải suy
Trả ơn là tại, nhớ y chuyện lành
11.- Ơn Vua bảo bọc thái bình
Trị an đạo tặc, thứ tình dân quê
Thuế xâu lo đủ mọi bề
Trên thương, dưới sợ, mựa hề dễ ngươi
12.- Mỹ phong thuần tục trong đời
Nếu quên, nếu nghịch, thì Người hại Ta
Bốn ơn phải trọng vậy là
Là nương Chơn Lý, đặng hòa hiệp nhau
13.- Phải rành hai chỗ thấp cao
Phải thông trật tự, hạng nào tới đâu
Trước Thầy có chỉ biển sâu
Biển sâu nhờ nước; núi cao nhờ Trời
14.- Có thân, có vóc gọi người
Không ai răn dạy, tiếng Người còn chi
Đó là Thầy chỉ phải ghi
Rành thông Lý thiệt, trọn nghì đền ơn
15.- Đã đành việc phải, phải tuân
Ngặt không đạo lý, khó phân cho rành
Thầy vì thấy cả chúng sanh
Tứ Ân biết đọc, mình đành chịu nguy
16.- Ngày nay Luật chuyển Tam Kỳ
Tới đâu dạy đó, thị phi không lầm
Nghe theo làm đặng thì nhằm
Cãi canh thì hại, vì Tâm không bình
17.- Trước ban Sắc Tứ Ngọc Đình
Luật ra trị đứa, chống kình dọc, ngang
Đạo Mầu rộng mở Nam Bang
Là cơ tạo thế, vững an nhơn quần
18.- An là biết sợ, biết tuân
Tùy theo cơ Đạo, là vưng Mạng Trời
Thương con Thầy chỉ cạn lời
Ráng nghe cho trọn, độ Người, cứu Ta./. (L.S THÂN - Thuận Mỹ)
—————————d&c—————————
VÔ VI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngày 5 tháng 3 annam 1939 ( 7 giờ tối) [ĐCL.36/87]
“Nối Nhơn Hoàng đổi thay Thánh Ý
Mến hồng trần quên nghĩ Ngọc Kinh
Tánh phàm chen lộn vào mình
Thất tình, lục dục biến thành Quỉ vương
Cữa nhà nấu nướng điểm trang
Trau giồi xác thịt, quên đàng Thiêng Liêng”
(Chuyển Mê số 9, vé 210)
THÂN, Con nghe Thầy dạy :
1.- Trong nghĩa nối Nhơn Hoàng con rõ
Là đổi thay tại chỗ cái Người
Thánh, phàm phân biệt khác nơi
Ý riêng so sánh, Ta Người liền chia
2.- Người bị cái sớm khuya yêu mến
Cõi hồng trần quyến luyến vào ra
Lâu ngày truyền nhiểm cái Ta
Người ta bị Cái, lần xa tu hành
3.- Quên nghĩ đến cội lành căn phước
Ngọc trắng trong ngày trước lu lờ
Kinh truyền, sách dạy ngáo ngơ
Tánh phàm chen lấn, dật dờ nào hay
4.- Lộn vào đó, sửa ngay, ra vạy
Mình không hay mới hại cho mình
Bảy tình ràng buộc thất minh
Lục căn giục quấy, lòng tin không nhằm
5.- Lâu ngày họa kết cơ thâm
Thành ra chứa quỉ, âm thầm hại nhau
Mãn đua chen chốn sang giàu
Cữa cao nhà rộng, điểm màu trong hoa
6.- Tuổi xanh cho đến lúc già
Giồi trau xác thịt, gọi là dưỡng thân
Vì quên hao tổn Tinh Thần
Ngoài tươi, trong héo; tổn phần Thiêng Liêng
7.- Vì chưng tại thất Chơn truyền
Đời suy, Đạo bế; dữ hiền không thông
Chẳng thương, chẳng tưởng giống dòng
Mạnh hơn, yếu hoại vô cùng trái oan
8.- Biết đâu Địa ngục, Thiên Đàng
Túi tham không đáy, bạo tàn không kiêng
Kể chi Phước Địa, Tâm Điền
Không Nhơn là ác, không Hiền là Ngu
9.- Nhơn tình đạo lý ghét nhau
Đạo Đời nghịch lẫn, Trời cao dạ sầu
Nếu ai sớm biết hồi đầu
Nghe lời dạy dỗ, Đạo Mầu lần theo
10.- Thầy thương dạy trẻ ít, nhiều
Khuyên con lo học, độ điều trần sa
Hiệp vầy đặng dắt nhau qua
Khỏi nơi ràng buộc, đọa sa Luân Hồi
11.- Dập diều kẻ nổi, người trôi
Con coi lại kỹ, ngán thôi vô cùng
Bài nầy chỉ dạy khuyên chung
Rõ nơi lầm lạc, phải tùng đường ngay
12.- Nhơn Tâm rắc rối hằng ngày
Buộc trong hoàn cảnh, nhớ hoài sự Tham
Cõi trần cả Nữ, cùng Nam
Đắm mê vào đó, đành cam lụy mình
13.- Tại vì không xét Nhục, Vinh
Mê theo lời bợ, dẫn mình vào hang
Cuối cùng thấy sự gian nan
Hết trông cầu khẩn, thở than đặng nào
14.- Chỉ rành con rõ trước, sau
Ấy là Nhơn Dục, giết nhau ra vầy
Mỗi khi có việc cầu Thầy
Thì con nhớ lại, đoạn nầy nghe con !!
(L.S THÂN - ở Thuận Mỹ)
—————————d&c—————————
Ngày 7 Tháng 3 Annam 1939 ( 2 giờ trưa) [ĐCL.36/90]
ĐẠT, Nghe Thầy dạy :
1.- Kềm Tâm, Tánh đó là dõng mãnh
Đặng ngăn ngừa söûa hạnh cho Khiêm
Đó là Qui Cũ Hốt Chiêm
Hễ nghe biết sợ, dễ kềm nhờ đây
2.- Qui Chánh Giáo đừng bày chuyện lạ
Khữ tà tâm, bản ngã phải chừa
Qui điều, qui luật lưới thưa
Tà tâm chưa dứt, đỏng đưa mắc vào
3.- Chữ Kiêu Thái Tự Cao là đó
Phận tu hành vướng nó thì hư
Xa là chẳng tiếc của dư
Đua chen lảng phí, từ xưa nay nhiều
4.- Thầy tha lỗi các điều phải bớt
Bớt lầm thội, phải chắc lo chừa
Ăn năn lời nói cho vừa
Mà Tâm không quyết, tội trừ đặng đâu
5.- Công bằng Luật cả đã lâu
Tự kiêu không kể, đáo đầu rồi than
Tìm theo Chơn Lý một đàng
Xét xem cho kỹ, rõ vàng bạc thau
6.- Cuồng ngông có ích chi nào
Khuyên con rán nhớ, hơn cầu khẩn riêng
Phận con, con biêt Dữ, Hiền
Dữ xa, Hiền tới; thuận yên trăm bề
7.- Sáo kèn rù quến thảm thê
Đáng khen cho đứa quá mê nên lầm
Tập rèn nhờ chỗ Định Tâm
Định cho quyết đoán, khỏi lầm, khỏi sai
8.- Thầy thương dạy trẻ một bài
ĐẠT thông quyền lý, đạt tài tự con
Đạt thông thì chắc vuông tròn
Đạt tài thì phải hao mòn mỏi thân
9.- Nửa lo, nửa sợ, nửa mừng
Là trong chữ Đạt, có phần khác nhau
Dạy rành con rõ thấp cao
Từ nay khuyên nhớ, lảng xao hư nhiều
10.- Bền lòng chữ dạ tịch, trỉêu
Tư tư cần hỏi, mình yêu mến mình
Hỏi cho rõ Lý giữ gìn
Một câu Thầy dạy sửa mình, đặng nên,
Khó không, bền với không bền
Đó là chỗ thúc, chỗ kềm điều nguy./.
-THĂNG-
(ĐẠT - ở Sa Đéc.)
—————————d&c—————————
Ngày 3 Tháng 5 Annam 1939 ( 9 giờ sáng) [ĐCL.36/92]
Nầy các con nghe Thầy hỏi :
1.- Mỗi con đọc PHỤ TỪ TỬ HIẾU
Nghĩa Phụ Từ Tử Hiếu ra sao ?
Mãng đua chen lấn nghèo giàu
Mà quên đạo nghĩa, cùng nhau bất hòa
2.- Cha chẳng rõ đạo Cha cho đúng
Con không rành nhao rún là đâu
Dại khôn, khôn dại làm đầu
Khó răn, khó dạy; tại giàu, tại lanh
3.- Trong gia đạo chưa rành trật tự
Lại ham lo kình cự tranh tài
Tại vầy mà lạc, mà sai
Tưởng ăn, tưởng mặc, qua ngày là Vinh
4.- Chữ Tử Hiếu khó gìn cho thuận
Cha hiền lành, giữ phận thương con
Khuyên răn, dạy dỗ mất còn
Nghĩa phương đạo lý, cho tròn đừng quên
5.- Dạy con biết điều nên, lẽ quấy
Mình buộc mình, trước thấy, sau chừa
Dứt rồi đừng để dây dưa
Cho con coi đó, đặng ngừa giữ thân
6.- Gặp việc phải, phải cần làm phải
Quấy thì răn, sửa lại cho Hòa
Đó là bổn phận làm Cha
Từ Nghiêm Ái Dụ, trị gia chi quyền
7.- Còn chữ HIẾU, Thầy khuyên rán nhớ
Đạo làm con phải sợ tội Trời
Cha sanh, Mẹ dưỡng nên người
Đó là tỷ cặp, như Trời, Đất riêng
8.- Dầu Cha, Mẹ chẳng hiền đi nữa
Cũng phải lo bào chửa cho tròn
Cạn lời can giáng là con
Chẳng nên ngỗ nghịch, ỷ khôn không màng
9.- Trọn chữ Hiếu, đừng toan tranh đấu
Bề anh em một máu, thịt đồng
Giàu nghèo đều cũng thương chung
Hễ con hòa thuận, đẹp lòng Mẹ, Cha
10.- Rủi nghèo khó đó là tại số
Giữ phận nghèo, đừng cố giận riêng
So nhau vì bởi bạc tiền
Vì quên căn mạng, đổi hiền làm ngu
11.- Dầu sang trọng, rún nhao đừng bỏ
Chỗ tới lui cho có trọn niềm
Đã rằng cốt nhục anh em
Đừng so sang trọng, quên niềm sơ sanh
12.- Giữ cho trọn tình Anh, nghĩa Chị
Biết phận em chung thỉ cho Hòa
Ngó nhìn đều một Mẹ, Cha
Giàu sang, nghèo khó đó là tạm đây
13.- Biết của tạm, kẻ vay, người trả
Thì đừng chia nhỉ ngã sanh rầy
Hãy nhìn trong một sợi dây
Khúc lơi, khúc nhặc; tại tay thợ làm
14.- Trước Thầy hỏi cả Nữ, Nam
Mỗi con nào xét Hiếu Tâm phận mình
Tu hành quí tại Đức Tin
Lời Thầy có dạy, có gìn hay không ?
15.- Có nghe thì có dặn lòng
Chớ nên xao lảng, uổng công tu hành
Phụ Từ Tử Hiếu lưu danh
Dầu trai, dầu gái phải rành là hay
16.- Con chung học có một Thầy
Làm ra chẳng hạp, tội nầy tại ai.
Tam Tôn Thầy chỉ một bài
Con nào biết sợ, từ nầy mở mang
17.- Đạo nên, Đời bớt bạo tàn
Là trong biết sợ, ngoài can giáng lần
Đã nhìn Quân Phụ Sư ân
Thì lo sửa tập cho gần trọn ba
Ước ao con dại cho Hòa
Đừng ham canh trạnh, đó là Đạo Chơn./.
–THĂNG-
—————————d&c—————————
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |