A dục vưƠng (asoka) cuộC ĐỜi và SỰ nghiệP



tải về 1.22 Mb.
trang14/19
Chuyển đổi dữ liệu26.07.2016
Kích1.22 Mb.
#6622
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   19
Về phương diện xây dựng đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội, Asoka kế thừa đầy đủ tư tưởng đạo đức Phật giáo. Ông đề cao nếp sống không sát sanh, hiếu kính cha mẹ, tôn trọng thầy cô giáo, giúp đỡ bà con bạn bè, đối xử nhân hậu với người ăn kẻ ở, cung kính cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn, những việc làm mà kinh Phật gọi là căn bản và cần thiết để chiến thắng hai đời, đời này và đời sau.[101] Ông nhấn mạnh tính chân thực, trong sạch, thánh thiện, bố thí, tín tâm, bất hại, từ hòa, tự chế, yêu mến sự thật, tiết kiệm, những đức tính mà đạo Phật đã xem là có khả năng mang lại hạnh phúc (sukha) hay vận may tối thượng (mahàmangala) cho những ai khéo nuôi dưỡng.[102]Asoka quan niệm một đời sống hạnh phúc phải là một đời sống đạo đức được thể hiện bởi mỗi cá nhân trong tất cả các mối quan hệ vói tự nhiên, gia đình và xã hội. Trước đây chúng ta đã đề cập một số bản kinh Phật nhấn mạnh nếp sống đạo đức và hạnh phúc của người cư sĩ và đã chỉ rõ nội dung giống nhau giữa các bản kinh này và bia ký Asoka.Ta có thể nói rằng Asoka đã xây dựng tư tưởng đạođức của mình dựa trên các bản kinh Phật, đặc biệt là hai bài kinh Giáo thọ Thi Ca La Việt (Singàlovàda Suttanta) và Vận may tối thượng (Mahàmangala Sutta). Tất cả các đức tính, bổn phận và trách nhiệm đạo đức mà bia ký Asoka nhấn mạnh đều được đề cập đầy đủ và dẫn giải chi tiết ở trong hai bài kinh này.
Asoka xem trọng đạo đức, đề cáo đạo đức và nỗ lực truyền bá đạo đức. Ông sống cuộc đời đạo đức và nỗ lực hết mình vì sự nghiệp truyền bá đạo đức. Ông khuyên răn con cái, cháu chắt và tất cả thần dân của mình phải muôn đời sống trong đạo đức và phải có trách nhiệm phổ biến đạo đức. Với Asoka, đạo đức là nền tảng của hạnh phúc; do đó theo ông, sống đạo đức và khuyến khích đạo đức phải là trách nhiệm của mỗi người và mọi người. Ông đề cao đạo đức bằng cách đề cao Pháp thí (Dhrama-dàna), cho rằng không có loại bố thí nào cao quý hơn Pháp thí.[103] Quan điểm này của Asoka là hoàn toàn phù hợp với quan niệm Pháp thí (Dharmma-dàna) được nói đến trong Phật giáo. Trong bài kệ 354 thuộc tuyển tập Pháp cú, chúng ta tìm thấy câu “Sabbadànam dhammadànam” có nghĩa là, trong tất cả các loại bố thí, bố thí pháp là bố thí tối thượng.
Pháp thí (Dharmma-dàna) tức là ban bố sự thật cho người khác hay giúp người khác nhận ra điều hay lẽ phải. Chẳng hạn, trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái thì ngoài việc chăm sóc nuôi dưỡng con cái, cha mẹ còn có trách nhiệm khuyên ngăn con làm điều ác và khuyến khích con làm điều lành. Đây gọi là Pháp thí, tứckhuyên ngăn người khác làm ác và khuyến khích người khác làm lành. Đáp lại, người con có bổn phận không những lo phụng dưỡng cha mẹ bằng của cải vật chất làm ra đúng pháp mà còn khuyến khích, hướng dẫn và an trú cha mẹ bằng của cải vật chất làm ra đúng pháp mà còn khuyến khích, hướng dẫn và an trú cha mẹ vào Chánh pháp. Một đoạn trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikàya) nêu rõ quan niệm báo hiếu của đạo Phật trong đó Pháp thí (Dhamma-dàna) được nhấn mạnh và được xem là việc làm duy nhất đủ để đền đáp công ơn trời biển của cha mẹ. Đoạn kinh chép như sau : “ Này các Tỷ -kheo, những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng, cúng dường cha mẹ với của cải, vật chất, tiền bạc thời không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỷ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào thiện giới; đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích , hướng dẫn,an trú vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha.
Phân tích đoạn kinh trên, Tỷ-kheo Thích Minh Châu nói rằng : “ Khởi điểm là xây dựng lòng tin nơi cha mẹ nếu cha mẹ chưa có lòng tin. Lòng tin ở đây là lòng tin Chánh pháp, và Chánh pháp không có nghĩa là lời Phật dạy mà Pháp còn có nghĩa là chân thật, là quyết định tánh hiền thiện. Pháp là những gì chân thật, không có hư vọng, không có giả dối; Pháp là những gì hiện thiện tốt đẹp, không phải độc ác bất thiện. Và xây dựng lòng tin cho cha mạ là xây dựng tánh chất chân thực, tánh chất hiền thiện nơi cha mẹ. Lời khuyên thứ hai là một thông điệp bỏ ác làm lành. Nếu cha mẹ theo ác giới, tức là sống một nếp sống không lành mạnh, nhiều bất thiện, thời khuyên cha mẹ làm các thiện hạnh về thân, về lời, về ý nghĩ, sống một đời sống trong sạch và hiền thiện. Thứ ba là một lời khuyên nhân đạo, lợi tha, khuyên cha mẹ nghĩ đến sự đau khổ của người khác mà bố thí, làm vơi nhẹ những khổ đau chung quanh, nghĩ đến tình nhân loại. Lời khuyên thứ tư không theo ác tuệ, là một lời khuyên chánh kiến, từ bỏ các ác tri kiến, phát triển những tri kiến chân thật, xây dựng một cái nhìn lành mạnh và hướng thiện cho cuộc đời.”[104]
Như vậy, Pháp thí cơ bản là khuyến khích người khác bỏ ác làm lành, một hình thức giáo dục đạo đức rất đơn giản nhưng thiết thực mà mọi người đều có thể thực hiện thông qua nếp sống của chính mình. Tự mình bỏ ác làm lành rồi khuyến khích người khác bỏ ác làm lành, đấy là Pháp thí. Asoka chú ý vận dụng tinh thần Pháp thí này của Phật giáo bởi nó giúp ông rất lớn về phương diện nâng cao đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội mà không phải tốn kém nhiều cho chi phí giáo dục. Ta có thể nói rằng chính tinh thần Pháp thí này - tự mình sống đạo đức, sống theo lẽ phải và khuyến khích người khác sống đạo đức, sống theo lẽ phải- mà Asoka học được từ Phật giáo và vận dụng triệt để vào đường lối trị quốc của ông đã góp phần tạo nên một bộ mặt hoàn toàn mới mẻ của đời sống con người và xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ. Đạo đức cá nhân, đạo đức gia đình và đạo đức xã hội được tăng trưởng đáng kể so với các thời đại trước đó. Thông tin bia ký IV cho hay hành trăm năm trước đó, việc giết hại súc vật để tế lễ, đối xử tàn ác với sinh linh, xử sự không đúng với thân bằng quyến thuộc, với các Sa-môn, Bà-la-môn đã không ngừng gia tăng. Nhưng kể từ năm thứ mười hai triều đại Asoka, nhờ các huấn chỉ của ông, dân chúng Ấn Độ đã tiến bộ đáng kể về phương diện đạo đức.
Chúng ta cũng đừng quên tôn giáo đã đóng vai trò quan trọng trong chính sách của Asoka và trong đời sống xã hội. Chính các tôn giáo mà Asoka xem trọng và đối xử bình đẳng đã giúp ông rất lớn về phương diện giáo dục đạo đức quần chúng và nâng cao đời sống tâm linh của xã hội. Asoka học được tinh thần hộ trì chân lý (saccànurakkhana) của đức Phật-một người có quyền theo đuổi đức tin hay quan điểm của người khác- và biến nó thành đạo dụ tôn trọng tự do tín ngưỡng và thái độ bao dung tôn giáo trong đường lối trị quốc của ông. Trong bia ký XII, Asoka sử dụng tinh thần hộ trì chân lý của Phật giáo để ban bố chính sách tôn giáo với lời lẽ như sau; “ Người ta không nên chỉ kính trọng tôn giáo của mình và bài xích tôn giáo của người vì lý do này hay vì lý do khác. Vì làm như thế người ta chẳng những tự làm tổn thương tôn giáo của mình mà còn làm thương tổn tôn giáo của người khác, nghĩ rằng ‘Như thế ta sẽ làm rạng danh tôn giáo của ta,’ thì trái lại người ấy tự làm tổn thương tôn giáo của chính mình.”
Sẽ có người bảo hòa đồng tôn giáo là sách lược của các nhà làm chính trị và là đặc điểm chung của mọi nhà nước chuyên chế. Quả đúng như vậy, nhưng trong mọi trường hợp này ta không loại trừ khả năng cách thái bao dung của đức Phật và những lời dạy chí tình chí lý của ngài về đức tin và lòng bao dung tôn giáo đã tác động mạnh mẽ đến Asoka và ảnh hưởng sâu sắc đến chính sách tôn giáo của ông.
Về phương diện chăm lo đời sống cho dân, Asoka vận dụng các chính sách thiết thực và hợp lý được nói đến trong kinh điển Phật giáo. Ông theo đuổi đường lối của vị vua Chuyển luân Thánh vương (Cakkavattì), dùng Pháp trị nước, từ bỏ gươm đao và hình phạt, bảo đảm đời sống vật chất và hạnh phúc cho muôn dân. Ông thực hiện chính sách không đánh sưu cao thuế nặng khiến dân chúng lầm than, oán hận. Bản kinh Kùtadana lưu ý chính sách sưu cao thuế nặng sẽ khiến lòng dân oán hận nổi lên chống đối, nạn đói lan tràn dẫn đến cướp bóc và như vậy quốc gia sẽ lâm vào cảnh tai ương. Khi quốc gia lâm cảnh tai ương, nếu dùng chính sách đàn áp, bắt bớ, tra tấn, giam cầm thì loạn lạc càng gia tăng, lòng dân càng thêm oán hận. Biện pháp vỗ yên lòng dân và diệt trừ loạn lạc do đó phải là biện pháp khoan dung và tạo công ăn việc làm phù hợp cho dân: “ Những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về nông nghiệp và mục súc, Tôn vương hãy cung cấp cho những vị ấy hột giống và thực vật; những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về thương nghiệp, Tôn vương hãy cung cấp cho những vị ấy vốn đầu tư; những vị nào trong quốc độ nhà vua nỗ lực về quan chức, Tôn vương hãy cấp cho những vị ấy vật thực và lương bổng. Và những vị này chuyên tâm vào nghề riêng của mình sẽ không nhiễu hại quốc độ sẽ được an cư lạc nghiệp, không có tai ương, ách nạn và dân chúng hoan hỷ vui vẻ, cho con nhảy trên ngực, sống với nhà cửa mở rộng.”[105]
Chúng ta thiếu các tài liệu nói về chính sách sưu thuế dưới triều đại Asoka, trừ trụ đá Rummideì ghi sự kiện Asoka ban lệnh miễn các loại thuế tôn giáo cho dân làng Lumbinì và họ chỉ phải đóng một phần tám lợi tức sản xuất. Mặc dù rất tiến bộ về đường lối trị quốc, ta không nên quá lý tưởng hóa các chính sách của Asoka mà cho rằng nhà nước của ông là hoàn hảo về mọi mặt, nhất là chế độ sưu thuế, bởi nhà nước nào cũng vậy đều phải trông cậy rất lớn vào sưu thuế mới đứng vững. Về mặt này nhà nước Asoka chắc chắn cũng không ngoại lệ. Tài liệu Arthaśàstra và những ghi chép của Mégasthènes cho chúng ta biết được đời sống kinh tế ở đế quốc Maurya thế kỷ thứ tư trước Công nguyên. Theo các tài liệu này thì thương mại phát triển trong toàn đế quốc, các tuyến đường lớn nối liền các vùng cách xa nhau hàng nghìn dặm. Hàng hải được mở rộng và thương thuyền các nước cập bến tại hải cảng. Quan hệ buôn bán với các nước ngoài được khuyến khích. Thương nhân nước ngoài được biệt đãi và được khuyến khích. Thương nhân nước ngoài được biệt đãi và được hưởng đặc quyền ngoại giao. Người ta bảo những người cố Ai Cập dùng the Ấn Độ để bọc các xác ướp và dùng loại chàm từ Ấn Độ để nhuộm vải vóc.Người ta cũng nói đến chinapatta, tên một loại lụa sản xuất ở Trung Quốc. Sự kiện hàng to lụa được nhập từ Tàu chứng tỏ Ấn Độ đã có quanhệ buôn bán với Trung Quốc ít ra là từ thế kỷ thứ tư trước Công nguyên. Tại các thành phố lớn và đô thị, cuộc sống xa hoa phát triển , các hoạt động trở nên phức tạp hơn, chuyên môn hóa và được tổ chức tốt hơn. Các quán hàng, lữ điếm, hiệu ăn, nhà khách, sòng bạc mọc lên rất nhiều. Các phường hội thu hút các hội viên, nghề chơi bời du hý tạo công ăn việc làm cho nhiều lớp người như vũ nữ, ca sĩ, kỹ nữ. Buôn bán và các ngành nghề khác đều bị đánh thuế và về một phưong diện nào đó, việc hàng nghề tôn giáo cũng vậy. Nông nghiệp được phát triển và chỉnh đốn về nhiều mặt kể cả tô thuế. Người ta điều chỉnh và từng thời kỳ kiểm tra lương thực, thị trường, các nhà sản xuất, các lò mổ, việc nuôi trâu bò, quyền sử dụng nước. Như vậy ngay trước thời Asoka, đời sống kinhtế Ấn Độ đã phát triển mạnh và nhà nước đã biết các tổ chức và quản lý tốt để tăng ngân sách quốc gia từ nguồn thu thuế.
Asoka lên ngôi thừa hưởng các điều kiện xã hội đã được tổ chức tốt và phát triển trước đó nên hình như không gặp nhiều khó khăn trong việc điều hành và quản lý quốc gia. Chắc chắn ông đã duy trì cơ cấu tổ chức và quản lý kinhtế đã có từ trước bởi điều này sẽ khiến ông thu được nguồn lợi nhuận đáng kể. Điều khiến chúng ta có thể tin là Asoka đã không quá khắc khe trong chế độ sưu thuế bởi thứ nhất ông là người chối bỏ chiến tranh, kiên quyết theo đuổi đường lối hòa bình và vì thế không phải lo chi tiêu nhiều cho quân đội và binh bị, những thứ vốn ngốn rất nhiều kinh sách quốc gia .Thứ hai, nhà nước của ông cũng không phải là loại nhà nước tiêu xài vô độ bởi lẽ Asoka chính là tấm gương sáng về lối sống giản dị, cần kiệm, liêm chính; các quan lại của ông cũng được giáo dục tốt về lý tưởng phục vụ lợi ích cộng đồng và nếp sống liêm khiết, cần kiệm. Có thể nói rằng dân chúng Ấn Độ dưới thời Asoka đã có được một cuốc sống yên ổn và hạnh phúc nhờ chính sách theo đuổi hòa bình và chủ trương cần kệm liêm chính của nhà nước Maurya. Chính hai yếu tố này, nghĩa là hòa bình và cần kiệm liêm chính, mà hết thảy vua quan nhà nước Asoka đều nhất mực theo đuổi, đã một mặt khiến cho dân chúng tránh được can qua bởi chiến tranh và nạn sưu thuế và mặt khác có thể hưởng các chế độ phúc lợi xã hội do việc nhà nước biết sử dụng hợp lý nguồn lợi tức quốc gia cho các công trình công ích trong điều kiện đất nước thái bình, không có chiến tranh. Thông tin bia ký[106] cho hay Asoka đã cho xây dựng khắp nơi trong vương quốc của ông hailoại hình chăm sóc y tế, một dành cho người và một dành cho thú vật. Các loại cây dùng làm thuốc và cây ăn quả được nhập khẩu và cho trồng khắp nơi nhằm đáp ứng công tác chữa trị và tiêu dùng. Dọc theo các lộ giới, các giếng nước được xây dựng và các loại cây tạo bóng mát được gieo trồng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người và thú vật. Một thông tin khác [107] cho biết Asoka cho dựng các nhà nghỉ dọc hai bên đường dành cho khách bộ hành, lập các trạm cung cấp nước tại những nơi công cộng lại để phục vụ tiện ích cho người và thú. Rõ ràng những công trình phúc lợi xã hội trên đây chỉ có thể được làm tốt và có hiệu quả trong điều kiện đất nước hòa bình, không có chiến tranh; các quan chức chính phủ sống liêm khiết, không tham nhũng.
Một lý do khác khiến chúng ta tin rằng Asoka đã áp dụng chính sách sưu thuế hợp lý ấy là bởi hầu như không có cuộc bạo loạn nào xảy ra trong vương quốc của ông suốt thời gian ông trị vì.bạo loạn bắt nguồn từ nghèo đói và bất mãn, nhưng cả hai yếu tố này xem ra đã được khắc phục tốt dưới thời Asoka. Chắc chắn Asoka đã thường xuyên điều chỉnh các chính sách của ông và có chế độ miễn giảm tô thuế cho dân cày vào những lúc dân chúng gặp cảnh khốn khó hay trong trường hợp bị thiên tai lũ lụt. Ta có thể hoàn toàn tin tưởng ở điều này bởi trong chỉ dụ của ông Asoka luôn hắc nhở các quan chức chính phủ phải thường xuyên nắm bắt nguyên nhân hạnh phúc và khổ đau của quần chúng và phải làm việc hết mình vì hạnh phúc của nhân dân.[108] Nắm bắt nguyên nhân hạnh phúc và khổ đau của dân tức là đi sâu đi sát quần chúng nhân dân, hiểu rõ niềm vui và nỗi khổ của dân để kịp thời chia sẻ và giúp đỡ . Mặt khác, Asoka ra lệnh tất cả mọi sự kiện liên quan đến đời sống nhân dân đều phải được thông báo ngay cho ông vào lúc mọi nơi để ông kịp thời giải quyết.[109]Rõ ràng quan điểm và cách làm việc này của vua quan nhà nước Maurya khiến chúng ta có lý do để tin rằng dân chúng Ấn Độ dưới thời Asoka không những thoát khỏi cảnh hà khắc về sưu thuế mà còn hưởng được các chế độ trợ giúp đặc biệt và kịp thời của nhà nước trong trường hợp gặp nguy khó. Mégasthènes nói rằng cứu đói là mối quan tâm hàng đầu của nhà nước Maurya, và phân nữa số hàng trong các kho hàng của nhà nước được dự trữ phòng khan hiếm và đói.
Do tấm lòng thương dân và nhờ biện pháp quản lý kinh tế khá hiệu quả, chính sách chăm lo hạnh phúc cho dân của nhà nước Asoka vươn khắp mọi ngỏ ngách và đến tận đáy xã hội. Vệ sinh và bệnh viện được phục vụ miễn phí và cán bộ y tế được cắt cử làm việc tại các trung tâm. Cô nhi quả phụ, người già cả, ốm đau, tàn tật được hưởng chế độ trợ cấp của nhà nước. Phụ nữ lầm đường lạc lối được chăm lo giáo dục và được tạo công ăn việc làm thích hợp. Tù nhân được ân xá và có quyền kháng án trong trường hợp bị xử oan. Bia ký V cho hay các quan chức Dharma-mahàmàtra có trách nhiệm xem xét đơn kháng án của phạm nhân, trợ cấp tiền bạc trong trường hợp tù nhân có gia đình quá đông người [110] hay phải lo cho con dại, đình chỉ khổ sai trong trường hợp tù nhân bị ngược đãi, phóng thích tù nhân trong trường hợp tuổi già. Trụ đá IV quy định các quan chức Ràjùka phải có trách nhiệm xem xét đơn kháng án của thân nhân các phạm nhân, tạo điều kiện để các tù nhân bị xử tội chết được làm việc thiện trong ba ngày với hy vọng hưởng được lợi ích đời sau. Các đối tượng già yếu, không nơi nương tựa cũng được quan tâm đặc biệt bởi nhà nước Asoka, như được ghi trong bia ký V. Trong chính sách đối với phụ nữ, các quan chức Strydhyaksha-mahàmàtra có trách nhiệm bảo vệ lợi ích cho nữ giới, đặc biệt đối với các phụ nữ làm nghề múa hát, bán thân hay kỹ nữ .[111] B.M.Barua cho rằng nhiệm vụ của các quan chức Stryadhyaksha-mahàmàtra là ngăn chận, không để các hạng phụ nữ này làm hoen ố đạo đức xã hội, đặc biệt đối với các Sa-môn, Bà-la-môn.[112] Do đó, nếu ý kiến của Barua là đúng thì điều đó có nghĩa là nhà nước Asoka hẳn đã có chính sách đãc biệt dành cho những phụ nữ gặp cảnh ngộ bất hạnh, ít nhất phải tạo công ăn việc làm mới cho họ.
B. Đường lối đối ngoại:
Ngoài chính sách nội vụ đáng được liệt vào hạng nhà nước hết lòng vì dân, nét nổi bật và đáng trân trọng của nhà nước Asoka có lẽ là chính sách bang giao quốc tế được tiến hành trên cơ sở theo đuổi đường lối hòa bình hợp tác, từ bỏ chiến tranh xâm lăng, tôn trọng chủ quyền độc lập dân tộc. Ngay sau ngày chiến thắng Kalinga, tức khoảng năm 262 trước Công nguyên trở đi, Asoka biểu lộ một động thái chưa từng có trong lịch sử. Ông công khai bày tỏ mối ân hận về công cuộc xâm lăng Kalinga, tuyên bố từ bỏ chiến tranh, chủ trương đường lối hòa bình triệt để. Ít có vị hoàng đế nào lại tỏ ra hối tiếc về hành vi xâm lăng của mình ngay sau khi vừa giành chiến công vang dội và xem việc chinh phục quân sự chẳng lấy gì làm vinh quang như Asoka. “ Hoàng thượng Priyadarśì cảm thấy vô cùng ân hận vì đã gây ra cảnh chết chóc đầy tang thương cho dân chúng một xứ sở độc lập. Người xem việc chinh phục bằng đạo đức nhân ái (Dharma-vijava) là chiến thắng cao cả”.[113] Asoka hối tiếc về chiến công quân sự của mình bởi ông hiểu ra điều mà đức Phật gọi là quy luật muôn thuở: “ Hận thù không bao giờ dập tắt được hận thù, chỉ có tình thương mới dập tắt hận thù.”[114] “ Chiến thắng gây thêm thù oán, bại trận nuôi oán hận khổ đau; chỉ có từ bỏ thắng bại mới khiến con người được an lạc.”[115] Ông từ bỏ dùng sức mạnh quân sự và chủ trương thu phục lòng người bằng đạo đức nhân ái tức là ông tuân theo điều mà Phật giáo gọi là tự chiến thắng mình hơn chiến thắng người khác; “ Dầu chiến thắng hàng vạn người trên chiến trường cũng không bằng tự chiến thắng mình. Tự thắng mình là chiến thắng oanh liệt nhất.”[116]
Tự thắng mình nghĩa là làm chủ được bản tân mình, không để cho tham lam, giận dữ và si mê chi phối, thoát khỏi mọi ám ảnh bởi dục vọng, mọi cám dỗ bởi uy quyền, mọi toan tính bởi ham muốn, mọi mưu toan bởi sợ hãi. Nói khác đi, tự thắng mình tức là thoát khỏi nô lệ của bản thân, không còn làm những việc điên rồ bởi động cơ dục vọng, bởi lòng khao khát quyền lực hay sự toan tính sử dụng uy quyền. Đạo Phật không xem chiến thắng người khác bằng vũ lực là vinh quang bởi nó bắt nguồn từ những động cơ thấp hèn như tham lam, tật đố, ích kỷ, thù hận. Ngược lại, đạo Phật đánh giá cao tự thắng mình bởi đấy là khả năng chiến thắng bản thân, sự kiểm soát và điều phục thân tâm thoát khỏi các động cơ hèn hạ va việc làm tội lỗi bắt nguồn từ tham, sân, si. Mọi diễn biến tốt hay xấu của cuộc đời tùy thuộc vào quan điểm và hành động của chúng ta. Đức Phật gọi thế giới này là khổ đau ấy là bởi con người đã không kìm nén được ham muốn của chính mình. Ngài dạy thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho dục vọng bởi vì con người quá tham lam ích kỷ.[117] Bạo động, chiến tranh và nhiều nguy cơ khác đe dọa sự sinh tồn của loài người đều có gốc rễ từ lòng tham không đáy của con người chúng ta. Chúng không ngừng thiêu cháy chúng ta và thiêu cháy cả thế giới bao lâu chúng ta chiến thắng được các ham muốn của mình. Vì lẽ này Phật gia ví cuộc đời như ngơi nhà đang bốc cháy; thế giới của chúng ta đang thiêu cháy ngày đêm bởi chiến tranh và bạo động, bởi hận thù và si mê. Chúng ta thật xấu hổ và khổ đau khi phải sống trong một thế giới như vậy, cái thế giới mà lẽ ra người ta có thể làm cho nó đẹp ra bởi tình thương và sự cảm thông thì ngược lại luôn luôn bị con người làm cho xấu đi bởi hận thù và lòng ích kỷ!
Asoka tuyên bố từ bỏ chiến tranh xâm lăng nghĩa là ông đã tự chiến thắng chính mình, chiến thắng các ham muốn của bản thân để không còn xúc tiến các hành vi xâm lăng hay chinh phục người khác bằng vũ lực quân sự không gì khác là hành vi nô lệ hóa người khác bắt nguồn từ sự nô lệ hóa bản thân. Một người không kìm nén tham lam và thù hận mới tiến hành chiến tranh xâm lăng hay làm những việc khiến người khác khổ đau. Sự kiện Asoka từ bỏ chiến tranh xâm lăng, theo đuổi đường lối hòa bình chứng tỏ ông đã nhận ra giá trị to lớn của tư tưởng tự chiến thắng mình và thấy rõ lợi ích của tư tưởng này trong đường lối xây dựng đất nước thái bình.Dân chúng của ông không còn lo sợ bị điều vào quân đội, được tự do làm ăn sinh sống; tiền bạc lương thực không bị vơ vét cho chiến dịch quân sự, thay vào đó có thể dùng vào các mục đích an sinh xã hội. Có thể nói rằng Asoka đã làm một việc hết sức có ý nghĩa cho dân chúng của ông và dân chúng các nước khác khi quyết định từ bỏ chiến tranh xâm lăng và theo đuổi đường lối hòa bình. Ở đây ông đã theo gương đức Phật thiết lập đức vô úy (abhaya) cho mọi người. Ông khiến cho dân chúng của ông không còn lo lắng bởi nạn điều binh và vơ vét lương thực. Ông giải phóng dân chúng các nước khác khỏi tâm lý lo sợ bị tấn công và nô lệ bởi lời tuyên bố bao dung và hòa bình. Chỉ dụ của ông ghi ở tiểu bia ký II nói rõ Asoka đã thực hiện tinh thần vô úy thí (abhaya-dàna) của Phật giáo đối với các quốc gia và dân tộc khác: “ Các quốc gia biên giới chưa bị chinh phục có thể nghĩ như thế này: ‘Nhà vua này muốn gì ở chúng ta?’ Mong muốn duy nhất của ta đối với các quốc gia này là họ hãy hiểu rằng họ không nên lo sợ mà hãy tin tưởng ở ta, rằng họ sẽ nhận được hạnh phúc từ ta chứ không phải khổ đau, và họ cần hiểu thêm rằng ta sẽ khoan dung tất cả và sẽ giúp họ thực hành Chánh pháp (Dharma) để được lợi ích đời này và đời sau.” Thật là một thông điệp hòa bình đáng lưu truyền cho muôn thuở! Will Durant cho rằng nếu cho tới ngày nay, từ Kandy ở đảo Tích Lan tới Kamakura ở Nhật Bản, nét mặt an tĩnh của đức Thích Ca còn gợi cho người ta khoan hồng với người đồng loại và yêu mến hòa bình thì một phần là nhờ một người mơ mộng-có thể một vị thánh,chưa biết chừng – đã có thời làm vua ở Ấn Độ.[118] Rõ là tình thương chúng sinh của đức Phật đã phủ kín các chính sách của Asoka.
Người ta bảo tình thương của đức Phật rất rộng lớn, không thể dùng tâm thái thông thường của con người mà đo lường được; tình thương ấy vượt ra ngoài mọi biên giới chủng tộc và văn hóa, tìm đến với hết thảy mọi người mọi loài, không một mảy may phân biệt. Tôi cho rằng chính tình thương chúng sinh của đức Phật mà Asoka ít nhiều cảm nhận được đã mở đường cho chính sách hòa bình và bang giao hợp tác quốc tế của ông. Chính tình thương ấy là động lực khiến Asoka đem hết tâm sức của mình phụng sự chúng sinh, không phân biệt quốc gia hay dân tộc. Bia ký II, văn bản Jaugada, nói rõ nguyện vọng của Asoka muốn giới thiệu Chánh pháp (Dharma) và đường lối đức trị (Dharma-vijaya) cho nhân dân các quốc gia khác “ vì lợi ích đời này và đời sau”. Theo tài liệu Dìpavamsa và Mahàvamsa thì vua Tích Lan Devànampiya Tissa từng là bạn tốt và là đồng minh của Asoka; trong một văn thư gởi cho Devànampita Tissa, Asoka thông báo ông đã quy y Phật, Pháp, Tăng và khuyên Tissa nên tín ngưỡng Tam Bảo.[119]
Mối qian hệ giữa Ấn Độ và Tích Lan càng gắn bó chặt chẽ sau sự kiện Mahendra, con trai Asoka, nhận trách nhiệm giới thiệu Phật giáo vào Tích Lan. Biên niên sử Tích Lan[120] nói đến việc sứ giả hai nước liên tục qua lại với nhau nhằm chuyển đạt thông điệp hợp tác của hai hoàng đế vì lợi ích của hai dân tộc. Theo sử liệu này thì vua Tích Lan Devànampiya Tissa và 50.000 thần dân của ông đã trở thành những người Phật tử đầu tiền ngay sau khi Trưởng lão Mahendra vừa đặt chân lên đất nưóc này và thuyết giảng bài pháp thứ nhất. Tài liệu này cũng nói rằng sau khi nghe Mahendra thuyết giảng, hoàng hậu Anula và 500 thị tỳ của bà tỏ ý muốn xuất gia nhưng không thể thực hiện ý nguyện bởi giáo hội ở đây đang thiếu các thủ tục cần thiết cho nữ giới xuất gia. Vua Tissa sau khi xem xét sự việc đã phái sứ giả sang Ấn Độ, đệ trình Asoka ý nguyện của mình muốn mời Tỷ -kheo ni Samghamitra, con gái Asoka, sang Tích Lan tiến hành các thủ tục xuất gia cho phụ nữ đồng thời xin một nhánh cây Bồ đề đem về trồng ở Tích Lan cho quần chúng kính ngưỡng. Tài liệu thuật rằng mặc dù rất buồn lòng phải xa cách người con gái yêu quý của mình, Asoka đã đáp ứng yêu cầu của nhà vua Devànampiya Tissa, gởi Samghamitra sang đảo Sư tử và chiết tặng nhánh cây Bồ đề cho sứ giả mang nhánh cây Bồ đề về Tích Lan thì một phái bộ ngoại giao Tích Lan khác do tăng sĩ Sumana dẫn đầu đến Ấn Độ truyền đạt ý nguyện của nhà vua Tích Lan xin thỉnh cầu xá lợi Phật cho xứ sở mình. Asoka đáp ứng nguyện vọng của vua Tissa bằng cách gởi tặng nhân dân Tích Lan một đĩa đầy xá lợi mà sau đó được tôn thờ tại bảo tháp Thuparama ở Comlombo.


tải về 1.22 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương