A dục vưƠng (asoka) cuộC ĐỜi và SỰ nghiệP



tải về 1.22 Mb.
trang18/19
Chuyển đổi dữ liệu26.07.2016
Kích1.22 Mb.
#6622
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   19
Này Gia Chủ tử, có bốn trường hợp, người con phải phụng dưỡng cha mẹ như phương Đông: “Được nuôi dưỡng, tôi sẽ nuôi dưỡng lại cha mẹ; tôi sẽ làm bổn phận đối với cha mẹ; tôi sẽ gìn giữ gia đình và truyền thống; tôi sẽ bảo vệ tài sản thừa tự; tôi sẽ làm tang lễ khi cha mẹ qua đời.” Này Gia chủ tử, được con phụng dưỡng như phương Dông, theo năm cách như vậy, cha mẹ có lòng thương tưởng đến con theo năm cách: Ngăn chận con làm điều ác; khuyến khích con làm điều thiện; dạy con nghề nghiệp, cưới vợ xứng đáng cho con; đúng thời trao của thừa tự cho con. Này Gia chủ tử, như vậy là cha mẹ được con phụng dưỡng như phương Đông theo nắm cách và cha mẹ có lòng thương tưởng con theo năm cách . Như vậy phương Đông được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.
Này Gia chủ tử , có năm cách, đệ tử phụng dưỡng các bậc sư trưởng như phương Nam; Đứng dậy để chào, hầu hạ thầy, hăng hái học tập, tự phục vụ thầy, chú tâm học hỏi nghề nghiệp. Này Gia chủ tử, được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách như vậy, các bậc sư trưởng có lòng thương tưởng đến các đệ tử theo năm cách: Huấn luyện đệ tử những gì mình đã được khéo huấn luyện; dạy cho bảo trì những gì mình được khéo bảo trì; dạy cho thuần thục các nghề nghiệp; khen đệ tử với các bạn bè quen thuộc; bảo đảm nghề nghiệp cho đệ tử về mọi mặt. Này Gia chủ tử, như vậy là bậc sư trưởng được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách. Như vậy phương Nam được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.
Này Gia chủ tử, có năm cách, người chồng phải đối xử với vợ như phương Tây: Kính trọng vợ, không bất kính đối với vợ; trung thành với vợ; giao quyền hành cho vợ; sắm đồ nữ trang cho vợ. Này Gia chủ tử, được chồng đối xử như phương Tây theo năm cách như vậy, người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách: Thi hành tốt đẹp bổn phận của mình; khéo tiếp đón bà con; trung thành với chồng; khéo gìn giữ tài sản của chồng; khéo léo và nhanh nhẹn làm mọi công việc. Này Gia chủ tử, như vậy là người vợ được người chồng đối xử như phương Tây theo năm cách và người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách. Như vậy phương Tây được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.
Nay Gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với bạn bè như phương Bắc: Bố thí, ái ngữ,lợi hành, đồng sự, không lường gạt. Này Gia chủ tử, được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo năm cách như vậy, bạn bè có lòng thương kính vị thiện nam tử theo năm cách: Che chở nếu vị thiện nam tử phóng túng; bảo trì tài sản của vị thiện nam tử nếu vị này phóng túng; trở thành chỗ nương tựa khi vị thiện nam tử gặo nguy hiểm; không tránh xa khi vị thiện nam tử gặp khó khăn; kính trọng gia đình của vị thiện nam tử. Như vậy các bạn bè được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo năm cách và bạn bè có lòng thương vị thiện nam tử theo năm cách. Như vậy phương Bắc được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.
Này Gia chủ tử, có năm cách một vị Thánh chủ nhân đối xử với hạng nô bộc như phương Dưới: Giao việc đúng theo sức lực của họ; lo cho họ ăn uống và tiền lương; điều trị cho họ khi bệnh hoạn; chia xẻ các mỹ vị đặc biệt cho họ; thỉnh thoảng cho họ nghỉ phép. Này Gia chủ tử, các hàng nô bộc được Thánh chủ nhân đối xử như phương Dưới theo năm cách như vậy, có lòng thương đối với vị chủ nhân theo năm cách như sau: Dậy trước khi chủ dậy; đi ngủ sau chủ; tự bằng lòng với các vật đã cho; khéo làm các công việc; đem danh tiếng tốt đẹp cho chủ. Này Gia chủ tử, các hàng nô bộc được vị Thánh chủ nhân đối xử như phương Dưới theo năm cách , có lòng thương đối với Thánh chủ nhân theo năm cách. Như vậy phương Dưới được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.
Này Gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với các vị Sa-môn, Bà-la-môn như phương Trên: Có lòng từ trong hành động về thân; có lòng từ trong hành động về lời; có lòng từ trong hành động về ý; mở rộng cửa để đón các vị ấy; cúng dường các vị yấ các vật dụng cần thiết. Này Gia chủ tử, các vị Sa-môn, Bà-la-môn được vị thiện nam tử đối xử như phương Trên theo năm cách như vậy, có lòng thương tưởng vị thiện nam tử ấy theo năm cách sau đây; Ngăn họ không làm điều ác; khuyến khích họ làm điều thiện; thương xót họ với tâm từ bi; dạy họ những điều chưa nghe; làm cho thanh tịnh điều đã được nghe; chỉ bày con đường đưa đến cõi Trời. Này Gia chủ tử, các vị Sa-môn, Bà-la-môn được thiện nam tử đối xử như phương Trên theo năm cách.Như vậy phương Trên được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Thiện Thệ thuyết giảng xong, bậc Đạo Sư lại giảng thêm:
Cha mẹ là phương Đông,
Sư trưởng là phương Nam,
Vợ chồng là phương Tây,
Bạn bè là phương Bắc.
Nô bộc là phương Dưới,
Sa-môn , Bà-la-môn,
Có nghĩa là phương Trên.
Cư sĩ vì gia đình,
Đảnh lễ phương hướng ấy.
Kẻ trí giữ Giới, Luật,
Từ tốn và biện tài,
Khiêm nhường và nhu thuận,
Nhờ vậy được danh xưng.
Dậy sớm không biếng nhác,
Bất động giữa hiểm nguy,
Người hiền, không phạm giới,
Nhờ vậy được danh xưng.
Nhiếp chúng ,tạo nên bạn,
Từ ái, tâm bao dung,
Dẫn đạo, khuyến hóa đạo,
Nhờ vậy được danh xưng.
Bố thí và ái ngữ,
Lợi hành bất cứ ai,
Đồng sự trong mọi việc,
Theo trường hợp xử sự.
Chính những nhiếp sự này,
Khiến thế giới xoay quanh,
Như bánh xe quay lăn,
Vòng theo trục xe chính.
Nhiếp sự này vắng mặt,
Không có mẹ hưởng thọ,
Hay không cha hưởng thọ,
Sự hiếu kính của con.
Do vậy bậc có trí,
Đối với nhiếp pháp này,
Như quan sát chấp trì,
Nhờ vậy thành vĩ đại,
Được tán thánh, danh xưng.
Khi được nghe vậy, Singàlaka, gia chủ tử bạch Thế Tôn: “ Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, nay con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và chúng Tỷ -kheo. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.”
2.Kinh Thánh cư (Ariyavàsà), Tăng Chi Bộ Kinh, tập V, chương Mười pháp, số 20
Một thời, Thế Tôn trú giữa dân chúng Kura tại một thị trấn của dân tộc Kuru gọi là Kammàsa-dhama. Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ -kheo…Thế Tôn nói như sau:
Này các Tỷ-kheo, có mười Thánh cư này, với những Thánh cư này, các vị Thánh đã sống, đang sống và sẽ sống. Thế nào là mười?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đoạn tận năm chi phần, thành tựu sáu chi phần, hộ trì một chi phần, đầy đủ bốn y cứ, trừ khử sự thật cá nhân, đã đoạn tận hoàn toàn các tầm cầu, các tư duy không có uế trược, thân hành được khinh an, tâm được khéo giải thoát, tuệ được khéo giải thoát.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ -kheo đã đoạn tận năm chi phần?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đoạn tận dục tham, đoạn tận sân, đoạn tận hôm trầm thụy miên đoạn tận trạo hối, đoạn tận nghi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đoạn tận năm chi phần.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo thành tựu sáu chi phần?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, không có hân hoan, không có thất vọng, trú xả, chánh niệm tỉnh giác; khi tai nghe tiếng…khi mũi ngửi hương…khi lưỡi nếm vị …khi thân cảm xúc…khi ý biết pháp, không có hân hoan, không có thất vọng, trú xả, chánh niệm tỉnh giác. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo thành tựu sáu chi phần.
Và này các Tỷ -kheo, thế nào là Tỷ-kheo đầy đủ bốn y cứ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có đắn đo thân cận một sự, có đắn đo kham nhẫn một sự, có đắn đo tránh né một sự, có đắn đo trừ khử một sự. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đầy đủ bốn y cứ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ -kheo trừ khử sự thật cá nhân?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với những sự thật sai biệt phổ thông được các Sa-môn, Bà-la-môn phổ thông chấp nhận như: “ Thế giới là thường còn, thế giới là không thường còn, thế giới có giới hạn, thế giới không có giới hạn, sinh mạng với thân thể là một, sinh mạng với thân thể là khác, Như Lai có tồn tại sau khi chết, NhưLai không tồn tại sau khi chết, Như Lai tồn tại và không tồn tại sau khi chết, Như Lai không tồn tại và không tồn tại sau khi chết,” tất cả những tin tưởng ấy được trừ diệt, trừ bỏ, xả bỏ, quăng bỏ, giải thoát, đoạn tận, từ bỏ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo trừ khử những sự thật cá nhân.
Và này các Tỷ -kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã đoạn tận hoàn toàn các tầm cầu?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn tận hại tư duy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đã đoạn tận tầm cầu.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo tâm hành được khinh an?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đoạn khổ, đoạn lạc, chấm dứt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng đạt và an trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo tâm hành được khinh an.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo tâm được khéo giải thoát?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tâm được giải thoát khỏi tham, tâm, được giải thoát khỏi sân, tâm được giải thoát khỏ si. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo tâm được khéo giải thoát.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo tuệ được khéo giải thoát?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết rằng; “Tham ái đã được đoạn tận nơi ta, được chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai,” biết rằng: “ Sân đã được đoạn tận nơi ta…trong tương lai”,biết rằng: “Si đã được đoạn tận nơi ta, được chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như cây tala, không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.” Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo tuệ được khéo giải thoát.
Này các Tỷ-kheo, tất cả những vị Thánh nào trong quá khứ đã sống theo Thánh cư, tất cả những vị ấy đã sống theo mười Thánh cư này. Này các Tỷ-kheo, tất cả những vị Thánh nào trong tương lai sẽ sống theo Thánh cư, tất cả những vị ấy sẽ sống theo mười Thánh cư này. Này các Tỷ-kheo, tất cả những vị Thánh nào trong hiện tại sống theo Thánh cư, tất cả những vị ấy đang sống theo mười Thánh cư này.
Này các Tỷ-kheo, đây là mười Thánh cư mà các vị Thánh đã sống, đang sống và sẽ sống.
3.Kinh Các sợ hãi về tương lai (Anàgata-bhàyàni), Tăng Chi Bộ Kinh, tập III, chương Năm pháp ,kinh số 78.
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy năm sự sợ hãi về tương lai này, thật là vừa đủ để Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.Thế nào là năm?
Ỏ đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát như sau:” Nay ta còn trẻ, niên thiếu, còn thanh niên, tóc đen nhánh, trong tuổi thanh xuân, trong sơ kỳ tuổi đời. Khi đã già yếu, và bị già chinh phục, thật không dễ dàng gì đế tác ý đến giáo pháp của các đức Phật, thật không dễ dàng gì để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ý, ta hãy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, có bị gaì, ta sẽ sống được thoải mái.”
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ nhất này về tương lai, như vậy là vừa đủ để Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt…chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quan sát như sau: “ Nay ta ít bệnh, ít não, sự tiêu hóa được điều hòa, không lạnh quá, không nóng quá, trung bình, hợp với tinh tấn. Nhưng rồi đến thời bệnh sẽ xúc chạm thân này.Khi đã già yếu, và bị già chinh phục, thật không dễ dàng gì để tác ý đến giáo pháp của các đức Phật, thật không dễ dàng gì để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta,,không đáng ưa, không đáng thích, không khả ý, ta hãy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, dầu có bị bệnh, ta sẽ sống được thoải mái.”
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ hai này về tương lai, như vậy là vừa đủ để Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt,…chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quan sát như sau: “ Này không có đói kém, được mùa, đồ ăn khất thực dễ kiếm được, thật dễ dàng để nuôi sống bằng khất thực nỗ lực. Nhưng rồi đến thời có nạn đói, mất mùa, đồ ăn khất thực khó kiếm được, không dễ dàng gì để nuôi sống bằng khất thực nỗ lực. Và những người bị nạn đói sẽ dời đến chỗ nào được nhiều đồ ăn; tại đấy, phải sống với quần chúng, phải sống với hỗn tạp. Khi phải sống với quần chúng, phải sống với hỗn tạp, thật không dễ dàng gì để tác ý đền giáo pháp của các đức Phật, thật không dễ dàng gì để sống tại các cư trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ý, ta hãy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, có bị đói kém, ta sẽ sống được thoải mái.”
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ ba này về tương lai,như vậy là vừa đủ để Tỷ -kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt…chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quan sát như sau: “Này loài người sống với nhau thuận hòa, hoan hỷ với nhau, không cãi lộn nhau, hòa hợp như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt ái kính. Nhưng rồi đến thời có sự sợ hãi về nạn cướp rừng, dân chúng trong nước leo lên xe để đi trốn tại chỗ nào không có sự sợ hãi, dân chúng đi đến chỗ nào có sự an ổn; tại đấy, phải sống với quần chúng, phải sống với hỗn tạp, thật không dễ gì đế tác ý đến giáo pháp của các đức Phật, thật không dễ gì để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với người ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ý, ta hãy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ, và nếu thành tựu trạng thái ấy, có gặp sự sợ hãi, ta sẽ sống được thoải mái.”
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ tư này về tương lai, như vậy là vừa để Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt…chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quan sát như sau: “ Nay chúng Tăng hòa hợp, cùng nhau hoan hỷ, không tranh luận nhau, sống thoải mái, cung chung một lời dạy. Nhưng rồi đến thới chúng Tăng chia rẽ. Khi chúng Tăng chia rẽ, thật không dễ gì tác ý đến giáo pháp của các đức Phật, thật không dễ gì để sống tại các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Trước khi trạng thái ấy đến với ta, không đáng ưa, không đáng thích, không khả ý, ta hãy hăng hái tinh cần trước khi thời ấy đến, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ. Và nếu thành tựu trạng thái ấy, chúng Tăng có chia rẽ, ta sẽ sống được thoải mái.”
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy sợ hãi thứ năm này về tương lai, như vậy thật là vừa đủ để Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng đạt những gì chưa chứng đạt…chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
Này các Tỷ-kheo, do quán thấy năm sợ hãi này về tương lai, thật là vừa đủ để vị Tỷ-kheo sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, để chứng dạt những gì chưa chứng đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ.
4.Kinh Ẩn sĩ (Musisutta), số 12, Phẩm Rắn, Kinh Tập (Sutta Nipàta)
“Thân mật,sanh sợ hãi,
Không trú xứ, không thân,
“Ai đã chặt sanh hữu,
Sanh hữu đã đoạn tận,
Được gọi là ẩn sĩ,
Bậc đại sĩ đã thấy,
“Sau khi ước lượng đất,,
Không còn muốn tham ái,
Vị ấy chân ẩn sĩ,
Đoạn tận mọi lý luận,
“Đã rõ mọi trú xứ,
Vị ấy chân ẩn sĩ,
Không còn phải ra sức,
“Bậc chiến thắng toàn diện,
Đối với tất cả pháp,
Bậc từ bỏ tất cả,
Các bậc trí nhận thức.
“Vị có trí tuệ lực,
Định tĩnh, thích thiền định,
Giải thoát các trói buộc,
Các bậc trí nhận thức,
“Bộ hành, riêng một mình,
Trước chê bai ,tán thán,
Như sư tử, không sợ,
Như gió không vướng lưới,
Bậc lãnh đạo mọi người.
Các bậc trí nhận thức,
“Vị nào biết xử sự,
Khi người khác nói lời,
Vị không có tham ái,
Các bậc trí nhận thức,
“Ai thật tự mình đứng,
Nhàm chán các nghiệp ác,
Các bậc trí nhận thức,
“Ai biết tự chế ngự,
Trẻ và hạnh trung niên,
Vị không nên chọc giận,
Các bậc trí nhận thức,
“Ai sống nhờ người cho,
Nhận từ trên, từ giữa,
Không đủ để tán thán,
Các bậc trí nhận thức,
“Rõ biết được thế giới,
Vượt khỏi được bộc lưu,
Vị chặt đứt trói buộc,
Các bậc trí nhận thức,
“Hai nếp sống không giống,
Gia chủ và vợ con,
Gia chủ không chế ngự,
Bậc ẩn sĩ luôn luôn,
“Giống như loại chim công,
Không bao giờ sánh bằng,
Cũng vậy , người gia chủ,
Bậc ẩn sĩ viễn ly,
Trú xứ, sanh bụi bặm,
Hình ảnh bậc ẩn sĩ”.
Không còn gieo giống thêm,
Không muốn nó tùy sanh,
Một mình đi im lặng,
Con đường tịch mịch ấy”.
Tìm hiểu được hột giống,
Được tiếp tục tùy sanh,
Thấy sanh diệt chấm dứt,
Không rơi vào tính toán.”
Không ham trú xứ nào,
Không tham, không say đắm,
Đạt đến bờ bến kia.”
Bậc toàn tri, thiện tuệ,
Không còn bị ô nhiễm.
Ái đoạn diệt, giải thoát,
Vị ấy thật ẩn sĩ.”
Giới cấm được đầy đủ,
Gìn giữ trì chánh niệm,
Không hoang vu, lậu tận,
Vị ấy thật ẩn sĩ.”
Ẩn sĩ, không phóng dật,
Không có bị giao động,
Giữa các tiếng vang động,
Như son không dính nước,
Người không ai lãnh đạo,
Vị ấy thật ẩn sĩ.”
Như cột trụ hồ tắm,
Lời khen chê cực đoan,
Với căn khéo định tĩnh,
Vị ấy thật ẩn sĩ.”
Thẳng như cây thoi đưa,
Quán sát chánh bất chánh,
Vị ấy thật ẩn sĩ.”
Không làm các điều ác,
Bậc ẩn sĩ chế ngự,
Vì không làm ai giận,
Vị ấy thật ẩn sĩ.”
Nhận lãnh đồ khất thực,
Hay từ chỗ còn lại,
Không nói lời hạ mình,
Vị ấy thật ẩn sĩ.”
Thấy được lý chân đế,
Vượt biển lớn như vậy,
Không ỷ lại, vô lậu.
Vị ấy thật ẩn sĩ.”
An trú, thật xa nhau,
Không ngã sở, khéo nhiếp,
Ngăn chận hữu tình khác,
Che chở loài hữu tình.”
Loài chim có cổ xanh,
Chim thiên nga nhanh nhẹn,
Không sánh bằng Tỷ-kheo,
Sống thiền định trong rừng.”
5.Kinh Nàlàka (Nàlakasutta),số 11, Đại Phẩm, Kinh Tập (Sutta Nipàta)
“Ẩn sĩ Asita,
Thấy chúng các chư Thiên,
Chúng hoan hỷ vui vẻ,
Chúng cung kính In-đa,
Với nhiệt tình nói lên,
“Thấy chư Thiên hoan hỷ,
Với tâm tư cung kính,
Asita:
“Vì sao chúng chư Thiên,
Chúng cầm áo, vui múa[134]
“Trong thời gian chiến trận,
Dũng sĩ được thắng trận,
Thời gian ấy chúng không,
Chúng thấy gì hy hữu,
“Chúng la lớn[135] ca hát,
Chúng múa tay[136], vỗ tay,
Này ta hỏi các người,
Các ngươi hãy mau chóng,
Chư Thiên:
“Tại xứ Lumbinì,
Có sanh vị Bồ tát,
Ngài sanh, đem an lạc,
Do vậy chúng tôi mừng,
“Ngài,chúng sanh tối thượng,
Bậc Ngưu vương loài người,
Ngài sẽ chuyển pháp luân,
Rống tiếng rống sư tử,
“Sau khi nghe lời ấy,
Liền vội vàng bước xuống,
Của vua Tịnh Phạn vương,
Nói với các Thích Ca:

“Thấy Thái tử chói sáng,


Trong lò đúc nấu vàng,
Bừng sáng và rực rỡ,
Họ Thích trình Thái tử,
“Sau khi thấy Thái tử,
Thanh tịnh như sao ngưu,
Sáng chiếu như mặt trời,
Ẩn sĩ tâm hân hoan,
“Chư Thiên cầm ngôi lọng,
Cây lọng có nhiều cành,
Chúng quạt với phất trần,
Nhưng không ai thấy được,
Bậc ẩn sĩ bện tóc,
Thấy Thái tử (nằm dài),
Như đồng tiền bằng vàng,
Có lông trắng đưa lên,
Đẹp ý, lòng hân hoan,
“Sau khi ẵm bồng lên,
Bậc cầu đạo tìm hiểu,
Tâm tư được hoan hỷ,
“Vị này bậc vô thường,
“Khi vị ấy nghĩ đến,
Số mệnh không tốt đẹp,
Thấy vậy, các Thích ca,
“Có sự gì chướng ngại,
“Thấy họ Thích lo lắng,
“Ta không thấy bất hạnh,
“Đối với (Thái tử) ấy,
Vị này không hạ liệt[137]
“Thái tử này sẽ chứng,
Sẽ chuyển bánh xe pháp,
Vì lòng từ thương xót,
Và đời sống Phạm hạnh,
“Thọ mạnh Ta ở đời,
Đến giữa đời sống Ngài,
Ta sẽ không nghe pháp,
Do vậy Ta sầu não,[138]”
“ Sau khi khiến họ Thích,
Bậc sống theo phạm hạnh,
Vị ấy vì lòng từ,
Khích lệ nó học pháp,
“Khi người nghe tiếng Phật ,
Bậc đã đạt Bồ đề,
Hãy đi đến chỗ ấy,
Và sống đời Phạm hạnh,
“Như vậy, được khuyên bảo,
Vị ấy ở tương lai,
Do vậy Nà-la-ka,
Sống với căn hộ trì,
“ Khi nghe tin pháp luân,
Đến thấy được hoan hỷ,
Hỏi Mâu ni tối thắng,
Như A-xi-ta khuyên,
(Kệ mở đầu đã xong)
“ Lời A-xi-ta này,
Con hỏi Gô-ta-ma,
Không nhà, con đi đến,
Con hỏi bậc ẩn sĩ,
Con đường đạo tối thượng,
“ Thế Tôn đáp như sau:
Là đạo hạnh mâu ni,
Hãy đến lắng tai nghe,
Hãy vững trí, an thần,
Hãy tu hạnh Sa-môn,
Giữa khen chê trong làng,
Sống hạnh thật an tịnh,
“Tiếng cao thấp phát ra,
Nữ nhân hay cám dỗ,
“Hãy từ bỏ dâm dục,
Đối hữu tình yếu mạnh[139]
“Ta thế nào, chúng vậy,
Lấy ngã làm ví dụ,
Hãy bỏ dục, bỏ tham,
Bậc có mắt hành đạo,
“Bụng đói, ăn chừng mực,
Vị ấy không ham dục[140]
“Sau khi đi khất thực.
Đi đến dưới gốc cây,
“Bậc hiền trí hành thiền,
Hành thiền dưới gốc cây,
“Khi đêm hết, sáng đến,
Chớ hân hoan khất thực,
“Ẩn sĩ không đi gấp,
Tìm ăn[141]cắt nói chuyện,
“Nếu được, thật là tốt,
Nghĩ vậy, cả hai mặt,
“Đi với bát cầm tay,
Chớ khinh đồ cho ít,
“Bậc Sa-môn thuyết giảng,
Nhưng đến bờ bên kia,
Tuy vậy chớ nghĩ rằng,
“Với ai không có tham,
Đoạn tận hành thiện ác,[142]
“Thế Tôn lại nói thêm
Thức tri hạnh ẩn sĩ,
Với lưỡi ấn nóc họng,
“Tâm chớ có thụ động,
Không hôi hám, độc lập,[143]
“Hãy tập ngồi một mình,
Sống một mình được gọi,
Nếu tự mình tìm được,
“Hãy chói sáng mười phương,
Của các bậc hiền sĩ,
Mong đệ tử của Ta,
“Hãy đọc các dòng nước,
Nước khe núi chảy ồn,
“Cái gì trống[144] kêu to,
Ngu như ghè với nước,
“Khi Sa-môn nói nhiều,
Tự biết, nên thuyết pháp,
“Ai biết, biết tự chế,
Vị ấy là ẩn sĩ,
Vị ấy là ẩn sĩ,

Trong lúc giữa ban ngày,


Cõi Trời Ba Mươi Ba,
Với y áo, thanh tịnh,
Các vị ấy cầm áo,
Những lời khen tán thán.”
Dõng dạc và phấn chấn,
Ở đây vị ấy nói.”

Lại nhiệt tình hoan hỷ?


Là do nhân duyên gì?”
Với các Asura,
Asura bại trận,
Lông tóc dựng ngược dậy,
Chư Thiên[145]hoan hỷ vậy.”
Và chúng tấu nhạc trời[146],
Chúng múa nhảy vũ điệu,
Trú đảnh núi Meru[147]
Giải tỏa điều ta nghi!”

Trong làng các Thích Ca,


Báu tối thắng, vô tỷ,
Hạnh phúc choloài người,
Tâm vô cùng hoan hỷ.”
Ngài,loài người tối thắng;
Thượng thủ mọi sanh loại,
Trong khu rừng , ẩn sĩ,
Hùng mạnh nhiếp loài thú .”
Ẩn sĩ Asita
Và đi đến lâu đài,
Đến nơi Ngài ngồi xuống,
“Hoàng tử nay ở đâu,
Ta nay muốn thấy Ngài.”
Rực rỡ như vàng chói,
Được thợ khéo luyện thành,
Với dung sắc tuyệt mỹ
Cho ẩn sĩ Tư Đà.[148]”
Chói sáng như lửa ngọn,
Vận hành giữa hư không,
Giữa trời thu, mây tịnh,
Được hỷ lạc rộng lớn.”
Đưa lên giữa hư không,
Có hàng ngàn vòng chuyền,
Có tán vàng, lông thú,
Kẻ cầm lọng, phất trần.”
Tên Kăn-ha-xi-ri,
Trên tấm chăn màu vàng,


tải về 1.22 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương