A dục vưƠng (asoka) cuộC ĐỜi và SỰ nghiệP



tải về 1.22 Mb.
trang12/19
Chuyển đổi dữ liệu26.07.2016
Kích1.22 Mb.
#6622
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   19
Đối với một số đức tính mà các bia ký Asoka nhấn mạnh như thiện tâm (dayà), bố thí (dàna), chân thực (sacha), trong sạch (sochaya), thánh thiện (sàdhutà), tự chế (samyama), nhã nhặn (màdava), tận tâm (drdhabhaktità), bất hại (avihìsà), chúng ta có bài kệ, ghi trong bài kinh Tướng (Lakkhana Suttanta) thuộc Trường Bộ (Dìgha Nikàya), đề cập các đức tình tương ứng .Bài kệ này, nêu rõ một số đức tính mà nếu chuyên tâm thực hành thì hạnh phúc và an lạc cõi trời sẽ được thành tựu, chép như sau:
“ Sacce ca dhamme ca dame ca samyame soceyya-sìlàlay-uposathesu ca,
Dàne ahimsàya asàhase rato dalham samàdàya samattam àcari.”
“Sống chân thực, đúng pháp,
Điều phục và tự chế,
Sống với hạnh thanh tịnh,
Ngày trai giới, Bố tát.
Bố thí, không bạo động,
Không làm hại một ai,
Tâm kiên cố hành trì,
Sống thật sự toàn diện.”[42]
So sánh các bia ký Asoka và bài kệ trích dẫn trên đây chúng ta thấy rằng các đức tính như chân thật (sacha), trong sạch (sochaya), bố thí (dàna), bất hại (ahimsà), tự chế (samyama), tận tâm hay tâm kiên cố (dridhabhaktità) là hoàn toàn giống hau giữa hai nguồn tài liệu D.R.Bhandarkar cho rằng đức tính bất hại (ahimsà/asàhasa) và tự chế (dama/samyama) được nêu trong bài kệ là tương ứng với đức tính thiện tâm (dayà) và nhã nhặn (màdava) của bia ký Asoka. Bhandarkar cũng xem việc trì giới (sìla) được ghi trong bài kệ là tiêu biểu cho đức tính thánh thiện (sàdhutà) mà bia ký Asoka đã nói đến.[43] Thông tin từ bài kinh cho chúng ta hay những đức tính được đề cập trong bài kệ vốn là sở hành của Như Lai trong nhiều tiền kiếp nên hiện tạo ngài được sinh ra với đầy đủ hảo tướng của bậc Đại trượng phu, quyết chắc thành tựu hai ngôi vị cao thượng, hoặc trở thành bậc Chánh giác thuyết pháp độ sanh hoặc làm vị vua Chuyển luân Thánh vương chinh phục thiên hạ bằng Chánh pháp. Rõ ràng Asoka đã đọc rất kỹ bài kinh này và đã tìm thấy các đức tính trên đây là khả dĩ để bổ sung cho nguồn giáo pháp của ông. Ông vận dụng nguồn giáo lý này thứ nhất bởi ông tin tưởng vào kết quả hiện tại và tương lai của các đức tính được nêu trong bài kệ và thứ hai bởi nguồn cảm hứng rút ra từ bài kinh, đặc biệt là về gương sáng của đấng minh quân chinh phục thiên hạ bằng Chánh pháp được mô tả trong bài kinh mà chính Asoka đã và đang nỗ lực theo đuổi.
Một nguồn giáo lý khác mà Asoka đã vận dụng và đưa vào văn bản bia ký của ông là bài kinh Điềm lành lớn hay Vận may tối thượng (Mahàmangala Sutta) được lưu giữ trong Kinh Tập (Sutta Nipàta). Bài kinh này đề cập một loạt các đức tính và bổn phận của người cư sĩ sống đời sống gia đình mà sự thực hành chúng sẽ mang lại cho vị ấy vận may tối thượng (mahàmangala). Bài kinh có tên Mahàmangala, , nêu trỏ các lý do để thành tựu vận may tối thượng, khiến chúng ta liên tưởng đến bia ký số IX trong đó Asoka khuyên thần dân của mình nên đánh dấu những ngày kỷ niệm bằng những việc làm cụ thể, phù hợp với Chánh pháp gọi là vận may Chánh pháp (Dharma-mangala). Các đức tính và bổn phận được nêu trong bài kinh gồm : (1) không thân cận kẻ ngu nhưng gần gũi bậc trí; (2) cứ trú nơi thích hợp và thường xuyên tự thẩm xét chính mình (atta-sammàpanidhi); (3) siêng năng học tập, giỏi tay nghề, khéo huấn luyện và khéo ăn nói (subhàsità-vàcà); (4) chăm sóc mẹ cha (màtàpitu-upatthàna), nuôi dưỡng vợ con, yêu mến an tịnh; (5) bố thí (dàna), sống chân chánh (dhamma-cariyà), giúp đỡ các bà con (ñàtakànam sangaha), hành động không lỗi lầm (anavajjàni Kammàni); (6) từ bỏ điều ác (pàpapàrati), chế ngự đam mê rượu, nhiệt tâm trong Chánh pháp (dhammesu appamàda), (7) kính lễ và hạ mình, biết đủ và biết ơn (kataññutà), đúng thời nghe Chánh pháp (dhammasavanam); (8) nhẫn nhục, nói lời hòa nhã (sovacassatà), giao thiệp với bậc chân nhân, đàm luận Chánh pháp (dhamma-sàkacchà); (9) sống phạm hạnh trong sạch (brahmacariyà), hiểu rõ bốn Thánh đế, chứng ngộ quả Niết bàn; (10) tâm không động, không sầu muộn, không vướng lụy khi xúc phạm với mọi thứ ở đời.
So sánh nguồn giáo lý trong các bia ký Asoka và nội dung bài kinh trên chúng ta thấy rằng Asoka hầu như đã vay mượn toàn bộ bài kinh Mahàmangala để xây dựng giáo pháp của ông. Các động thái mà bia ký Asoka nhấn mạnh như hiếu kính cha mẹ, bố thí, chăm sóc giúp đỡ bà con, tránh xa tội lỗi, cung kính các Sa-môn, Bà-la-môn đều được tìm thấy trong bài kinh . Hơn thế, các đức tính khác mà Asoka đề cao như thiện tâm, nhã nhặn, chân thật, trong sạch, thánh thiện , tự chế, biết ơn, yêu mến sự thật, thẩm xét tự thân, v.v,cũng được bài kinh nói đến như là các điều kiện để thực hiện vận may tối thượng.
Nhưng Asoka không chỉ khuyến khích điều thiện, ông còn chỉ rõ điều ác (àsinava/papa) [44] và khuyến cáo mọi người nên lánh xa.[45] Về mặt này, Asoka cũng vay mượn những lời dạy của đức Phật ở trong kinh tạng. Trong các bia ký của ông, Asoka xem các hành vi như sát sanh, tàn bạo, sân hận,kiêu căng, ganh tỵ,[46] tham lam, đua nịnh, dễ cáu gắt, thiếu kham nhẫn, lười biếng, thờ ơ,[47] không hiếu kính cha mẹ, dối gạt vợ con, không chân thực với bạn bè, không chia sẻ với bà con, không bố thí [48] là những điều ác không nên làm. Trong số các cảnh báo của đức Phật về điều ác, phi pháp, những lời khuyến cáo của ngài lưu trong bài kinh Bại vong (Paràbhava Sutta) thuộc Kinh Tập (Sutta Nipàta) có thể được xem là nguồn tài liệu mà Asoka s9ã vay mượn để sử dụng trong các chỉ dụ của ông.Bài kinh ghi lời đức Phật nói về các điều ác, phi pháp như sau:
(1) Thường xuyên giao du với kẻ ác và thực hành pháp của kẻ ác:
(2) Lười biếng , không nỗ lực, dễ cáu gắt và thích đám đông;
(3) Giàu có nhưng không phụng dưỡng mẹ cha;
(4) Dối trá, lừa gạt kẻ nghèo khó, bậc Sa-môn, Bà-la-môn.
(5) Có tài sản lớn nhưng không san sẻ với một ai;
(6) Tự hào về dòng dõi, tài sản, gia đình, khinh thị các bà con;
(7) Đắm say tửu sắc, tiêu xài hoang phí.
(8) Quan hệ bất chính với vợ người;
(9) Ghen tỵ vợ mình;
(11)Tiêu xài lãng phí khi tại chức vị;
(12)Tham lam vô độ.
Cả hai nguồn tài liệu nói trên khá thống nhất trong việc nêu trỏ một số điều ác, phi pháp và đều xác nhận chúng là nguyên nhân của mọi thất bại. Trong bài kinh Paràbhava, đức Phật gọi chúng là nguyên nhân dẫn đến bại vong; trong bia ký của mình Asoka xem chúng là “những lý do thất bại.”[49]
Sau cùng, chúng ta chú ý tới quan niệm chinh phục lòng người bằng Chánh pháp hay đạo đức (Dharma-vijaya) mà Asoka đã xem như là nguyên lý căn bản cho đường lối cai trị của ông. Asoka đã áp dụng chính sách đức trị và trong chừng mực nào đó đã thành công trong việc đưa đất nước đến chỗ thái bình, toàn dân an cư lạc nghiệp, đồng thời thiết lập quan hệ hòa hiếu với các nước trong khu vực. Về phương diện này,Asoka rõ ràng đã chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo, đặc biệt là nguồn cảm hứng rút ra từ hai bài kinh ở Trường Bộ, kinh Chuyển luân Thánh vương Sư tử hống (Cakkavattì Sìhanàda Suttanta) và kinh Tướng (Lakkhana Suttanta). Hẳn là hình ảnh vị vua Chuyển luân Thánh vương cai trị bằng Chánh pháp được mô tả trong hai bài kinh đã tạo ấn tượng lớn đối với Asoka và ảnh hưởng mạnh mẽ đến đường lối trị quốc của ông: “ Vị này (Chuyển luân Thánh vương) dùng Chánh pháp trị nước, là vị Pháp vương , bình định bốn phương, đem lại an toàn cho quốc độ, đầy đủ bảy báu. Vị này chinh phục quả đất này cho đến hải biên và trị nước với Chánh pháp, không dùng trượng , không dùng đao.” Trong bia ký IV, Asoka tuyên bố dùng Pháp âm (Dharma-ghosa) thay thế tiếng trống trận (Bherì-ghosa), nghĩa là từ bỏ chiến tranh xâm lăng và chủ trương chinh phục lòng người bằng đạo đức hay Chánh pháp (Dharma-vijaya). Trong bia ký Kalinga II, Asoka khiến cho các quốc gia khác yên tâm và thoát khỏi lo lắng về mối đe dọa xâm lăng bởi lời tuyên bố bao dung và từ bỏ chiến tranh của ông: “ Các quốc gia biên giới chưa bị chinh phục có thể nghĩ như thế này : ‘Nhà vua này muốn gì ở chúng ta?’ Mong muốn duy nhất của ta đối với các quốc gia này là họ hãy hiểu rằng họ không nên lo sợ mà hãy tin tưởng ở ta, rằng họ sẽ nhận được hạnh phúc từ ta chứ không phải khổ đau, và họ cần hiểu thêm rằng ta sẽ khoan dung tất cả và sẽ giúp họ thực hành Chánh pháp (Dharma) để đượclợi ích đời này và đời sau.” Bia ký XIII nêu sự kiện Asoka mong muốn tất cả chúng sinh không bị tổn hại, chế ngự tham dục, được đối xử côngbằng và sống hạnh phúc. Bia ký này nhấn mạnh nguyên lý Đức trị hay chinh phục đạo đức (Dharma-vijaya) mà Asoka xem là căn bản cho đường lối đối nội và đối ngoại của ông. Ông cũng kêu gọi tất cả con cái và cháu chắt ông chớ có tìm kiếm sự chinh phục nào khác ngoài việc chinh phục một lãnh thổ mới bằng chiến tranh xâm lăng dẫn đến các nỗi khổ đắng cay và gây hiểm họa cho văn hóa, đồng thời bảo đảm thiện chí của các lân bang và tôn trọng các hiệp ước về toàn vẹn lãnh thổ, song song với việc chiếm trọn tình cảm và lòng biết ơn của các quốc gia này ngang qua các hoạt động , văn hóa và từ thiện.[50]
III.Tư tưởng Phật học trong các bia ký Asoka:
Tài liệu bia ký và trụ đá Asoka mang âm hưởng tư tưởng tôn giáo và triết lý sâu sắc đến độ nhiều người đã nghĩ rằng Asoka là một nhà hiền triết hay một giáo chủ tôn giáo hơn là một hoàng đế. Thực ra Asoka chỉ là người ham thích học hỏi tôn giáo, nhiên cứu triết lý và khéo vận dụng các tư tưỏng tôn giáo và triết lý ấy vào đường lối trị quốc của ông. Sự khôn ngoan của một nhà lãnh đạo là biết tập hợp chung quanh mình nhiều bộ óc giỏi và tận dụng tối đa khả năng biến hóa của những bộ óc đó cho mục đích của mình. Asoka đã tự trang bị cho mình những kiến thức và kinh nghiệm Phật giáo đủ để dùng vào việc trị quốc của ông. Các bia ký và trụ đá của ông phản ánh sâu sắc tư tưởng và triết lý Phật giáo mà ông đã thai nghén lâu ngày và mong muốn được chia sẻ với mọi người.
Will Durant nói rằng các sắc lệnh của Asoka rõ ràng chịu ảnh hưởng Phật giáo, trong số các sắc lệnh ấy có chỗ nói tới một đời sống vị lai đấy, và chỉ điểm đó cũng đã cho ta thấy rằng tư tưởng, tín ngưỡng của Phật tử đã khác xa chủ trương hoài nghi của Phật tổ rồi. Nhưng không có đoạn nào trong các sắc lệnh bảo dân phải thờ phụng một vị thần nào cả, chẳng những vậy , ngay đến Phật tổ, cũng không bắt dân thờ nữa.[51] Nhận định này của Will Durant không hoàn toàn chính xác cho lắm,nhất là đoạn nói về sự khác biệt giữa tín ngưỡng của Phật tử và chủ trương của Phật tổ, tuy nhiên Durant hoàn toàn đúng khi cho rằng các sắc lệnh Asoka chịu ảnh hưởng Phật giáo và không bắt dân ph3i tôn thờ thần linh, ngay cả Phật tổ. Đây quả là một trong số các đặc điểm của tư tưởng Phật học được tìm thấy trong bia ký Asoka mà tiếp theo chúng ta sẽ khảo sát.
Nhưng trước khi xem xét nội dung các tư tưởng Phật học được phản ánh trong bia ký Asoka, ta cũng nên nhắc lại ở đây quan điểm của D.R.Bhandarkar rằng Asoka là một cư sĩ và đối tượng mà ông muốn truyền dạy Chánh pháp cũng là những người tại gia cư sĩ. Bởi vậy không phải tất cả tư tưởng triết lý của Phật giáo đều bao hàm trong bia ký của ông. Asoka là một Phật tử đồng thời là một vị vua, do đó những gì ông nói và làm chắc chắn không vượt ra ngoài cương vị một Phật tử và hơn thế một hoàng đế có trách nhiệm chăm lo lợi ích chung của cộng đồng. Bia ký Asoka phản ánh các tư tưởng sau đây:
1,Tư tưởng tôn trọng sự sống hay bất hại (Ahimsà):
Các bia ký Asoka nhấn mạnh nguyên lý không sát sanh hay bất hại (bia ký III, IV, IX, XI, XIII; trụ đá V, VII) ngụ ý xây dựng một đời sống đạo đức thánh thiện trên cơ sở tôn trọng sự sống của tất cả mọi loài. Không sát sanh tức không cố ý giết hại hay gây thương tổn đối với mọi loài hữu tình và bất hại (ahimsà) cũng có nghĩa là chấm dứt mọi ý tưởng và hành động sát hại hay gây thương tổn đối với sự sống (Ca kàyena vàcàya manasà ca (bhùtànam) nahimsati). [52] Đây là đặc điểm nổi bật trong các bia ký Asoka, phản ánh sâu sắc tư tưởng từ bi, tôn trọng sự sống và bất bạo động của Phật giáo. Asoka khuyên tất cả thần dân của mình tránh xa sát sanh, không làm tổn hại đến mọi loài bởi ông mong muốn tất cả chúng sinh thoát khỏi bị hại, được đối xử công bằng và sống hạnh phúc (bia ký XIII). Ông tuyên bố từ bỏ mọi ý đồ xâm lăng bởi ông từng chứng kiến cảnh tượng tàn khốc của chiến tranh và chết choc. Ở đây Asoka như đọc thấy tư tưởng hết sức nhân bản của đức Phật khi ngài nói đến một tâm lý rất chung của chúng sanh là lo sợ hình phạt, sợ tử vong và đều yêu quý mạng sống. Kinh Pháp cú dạy như thế này: “ Tất cả mọi người đều sợ hình phạt, sợ tử vong và đều yêu quý mạng sống; hãy lấy mình làm ví dụ để không giết hại và không khiến người khác giết hại.”[53] Asoka ngăn cấm nạn giết hại súc vật để tế lễ, một hành vi tìm kiếm an lạc cho mình qua việc gây khổ đau cho kẻ khác không chút thương tâm và không mấy công bằng của các tín đồ Ấn giáo. Việc làm này cho thấy Asoka đã theo gương đức Phật khi ngài phản đối thái độ sai lầm của con người dùng sự sống của kẻ khác để mưu cầu hạnh phúc cho chính mình. Đương thời người ta thấy đức Phật lên án mạnh mẽ tục hiến tế súc vật của các Bà-la-môn, cho rằng đó là hành vi của những người tự hành khổ mình và hành khổ người. Động thái này của Asoka cũng phản ánh một tư tưởng rất người và rất mực công bằng của Phật giáo rằng tất cả chúng sanh đều mong muốn được an lạc, bởi vậy không thể dùng khổ đau của kẻ khác để đổi lấy an lạc cho chính mình. Đức Phật dạy: “ Chúng sanh cầu mong được an lạc.Ai dùng roi trượng hại kẻ khác để tìm an lạc cho mình, người ấy không đạt được an lạc ở đời sau.”[54]
2.Tư tưởng thiết thực hiện tại hay tinh thần thực tiễn:
Điều này ngụ ý những việc làm thiết thực hữu ích mà con người cần tỏ rõ trong cuốc sống của mình. Chẳng hạn , trong bia ký XI, Asoka đề cao Pháp thí hay quà tặng Chánh pháp (Dharma-dàna) và liền chỉ rõ đó là những động thái thiết thực mà con người cần phải làm và khuyến khích người khác cùng làm như hiếu kính cha mẹ; cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn; chia sẻ với bà con, bạn bè; đối xử nhân hậu với kẻ làm công, người giúp việc, Nói khác đi, khi một người thực hiện và khuyến khích người khác làm những việc như trên thì được gọi là Pháp thí hay ban bố Chánh pháp cho kẻ khác. Như vậy Pháp thí ở đây có nghĩa là hành động hay việc làm thiết thực hữu ích mà một người có thể làm cho người khác. Đây là một trong những đặc điểm của giáo lý Phật giáo mà có lẽ Asoka đã đọc được khi tiếp cận với những lời dạy của đức Phật. Chúng ta thấy trong bài kinh Singàlovàda (Giáo thọ Thi CaLaViệt) rằng đức Phật đã dạy cho thanh niên Singàla thế nào là ý nghĩa thiết thực của lòng tôn kính sáu phương. Ngài đã cũ thể hóa sáu phương thành sáu mối tương hệ trong cuộc sốn và khuyên Singàla nên xử sự “đúng pháp” trong tất cả các mối tương hệ đó. Chẳng hạn, để tỏ rõ tấm lòng tôn kính đối với phương Đông thì thay vì hướng về phương Đông lễ lạy, người ta nên hiếu kính và phụng dưỡng cha mẹ hiện tiền. Đối với phương Nam tiêu biểu cho sư trưởng hay thầy cô giáo thị việc kính lễ nên được tiến hành bằng cách tôn trọng và lắng nghe lời dạy bảo của thầy. Phương Tây tiêu biểu cho vợ con, do đó việc chăm lo hạnh phúc cho vợ con là đồng nghĩa với lòng tôn trọng phương Tây. Đức Phật gọi phương Bắc là bạn bè và khuyên Singàla nên tôn kính phương Bắc bằng cách luôn luôn sống chân thành và hết lòng với bạn. Phương Dưới được xem là tiêu biểu cho kẻ ăn người ở, bởi vậy, để tỏ lòng tôn trọng phương Dưới, người ta nên đối đãi nhân hậu với kẻ ăn người ở của mình. Phương Trên ngụ ý các Sa-môn và Bà-la-môn mà nghĩa cử tôn kính và cúng dường cho các bậc thánh nhân này được xem là đồng nghĩa với việc đảnh lễ phương ấy.
Asoka thấm nhuần sâu sắc tư tưởng thực tiễn của Phật giáo khi ông ban bố chỉ dụ kêu gọi mọi người nên tiến hành các lễ hội cưới gả, sinh nhật, tiễn người đi xa bằng những việc làm thiết thực và hữu ích hư đối xử nhân hậu với kẻ ăn người ở, tôn trọng thầy cô giáo, không sát hại sinh linh, bố thí cho các Sa-môn, Bà-la-môn (bia ký IX). Ở đây bia ký Asoka khiến chúng ta nhớ tới lời dạy của đức Phật trong bài kinh Kùtadanta, Trường Bộ, khi ngài nói đến việc thay thế các lễ tế đàn giết hại súc vật và hao tốn tiền của bằng những việc làm thiết thực và hữu ích như bố thí, trì giới, làm các điều thiện. Asoka cố ý xây dựng truyền thống lễ hội theo tinh thần này bởi theo ông đó là những nghĩa cử cao đẹp, thiết thực, hợp với đạo lý mà ông gọi là vận may Chánh pháp (Dharma-mangala). Ông cũng muốn đơn giản hóa các cuộc lễ hội dân gian thường được tổ chức rất linh đình và tốn kém bởi ông cho rằng đây là cách hay nhất để tiết kiệm sức người và sức của (apa-vyayatà-apa-bhàndatà).[55]
Liên quan đến tinh thần thực tiễn trong các bia ký Asoka, tôi chú ý đến câu chuyện ngụ ngôn được ghi trong bài kinh Kùtadanta mà tôi tin Asoka đã từng đọc qua. Chuyện kể như thế này : “ Thuở xưa, có một vị vua tên là Mahàvijita rất giàu có, tài sản của cải chất thành đống , sở hữu vô số vàng bạc và châu báu. Một hôm, đang ngồi ở nơi nhàn tịnh, nhà vua suy nghĩ: ‘Ta đã sở hữu nhiều tài sản, đã chiếm được một vùng đất đai rộng lớn. Nếu nay ta tổ chức một tế đàn lớn, như vậy phải chăng ta sẽ được lợi ích và an lạc lâu dài?’ Nhà vua liền cho gọi người chủ tế và thông báo cho ông ta về suy nghĩ của mình. Vị chủ tế liền tâu: ‘ Nay vương quốc của Bệ hạ đang gặp tai ương bởi nạn cướp bóc, làng mạc và thành thị bị tàn phá, nông thôn nhan nhản kẻ cướp. Nếu Bệ hạ cho đánh thuế các vùng này thì đó là việc làm sai lầm. Nếu Bệ hạ nghĩ rằng: ‘Ta sẽ tiêu diệt dịch cướp bằng cách hành hình, tống tù, tịch thu, đe dọa trục xuất,’ như vậy nạn cướp này sẽ không hoàn toàn chấm dứt. Những kẻ sống sót sẽ tiếp tục nhiễu loạn vương quốc của Bệ hạ. Tuy nhiên, bằng cách này, Bệ hạ có thể loại sạch nạn cướp, tức là, những ai trong vương quốc của Bệ hạ chuyên việc canh tác và chăn nuôi, Bệ hạ hãy cung cấp hạt giống và thực phẩm gia súc cho họ; những ai chuyên việc kinh doanh, Bệ hạ hãy đầu tư tiền vốn; những ai phục vụ triều chính, Bệ hạ hãy trả tiền lương đủ cho họ sinh sống. Những người này, so mải mê làm công việc của mình, sẽ không nhiễu loạn vương quốc của Bệ hạ. Thu nhập của Bệ hạ ngày càng tăng, xứ sở được thanh bình, không còn tai ương cướp bóc, dân chúng hân hoan, vui đùa với con cái và sống với cửa nhà rộng mở.”[56]
So sánh đoạn văn trên với các bia ký Asoka, chúng ta có cở sở để tin rằng Asoka đã rút ra những bài học bổ ích cho việc trị quốc của ông từ những bản kinh như thế này. Các chính sách được nói tới trong các bia ký của ông như đề cao đạo đức, chăm lo hạnh phúc cho dân, tăng cường đầu tư cho các công trình công ích và phúc lợi xã hội, ưu đãi đối với người già cả, kẻ nghèo khó, phụ nữ lầm đường lạc lối, khoan dung và giảm án cho các phạm nhân, v.v… hẳn là những chính sách thiết thực hữu ích mà Asoka đã học được từ Phật giáo và đã ứng dụng thành công trong lĩnh vực trị quốc của ông.
3.Tư tưởng hòa bình- Vô úy thí (Abhaya-dàna):
Asoka thấm nhuần giáo lý từ bi, tôn trọng sự sống của Phật giáo nên bia ký của ông phản ánh sâu sắc tư tưởng hòa bình, bất bạo động. Ông tuyên bố dùng Chánh pháp thay trống trận,[57] chủ trương thu phục lòng người bằng đạo đức nhân ái,[58] biểu lộ tấm lòng bao dung và độ lượng đối với lỗi lầm của mọi người.[59] Asoka nhận rõ thảm cảnh của chiến tranh và ý đồ đen tối của mộng xâm lăng ngay sau khi ông vừa chinh phục xứ sở Kalinga. Ông tỏ ra ân hận về công cuộc xâm lăng của mình “ bởi đã gây ra cảnh chết choc đầy tang thương cho dân chúng một xứ sở độc lập.”[60] Kể từ sau chiến thắng Kalinga trở đi, Asoka từ bỏ chiến tranh, xâm lăng và theo đuổi đường lối hòa bình, bất bạo động. Trong bia ký Jaugada, ông khẳng định không dùng vũ lực quân sự để xâm lăng các quốc gia khác mà dùng điều thiện để phục vụ lợi ích của mọi dân tộc. Asoka xác nhận trong bia ký rằng ông làm như vậy là để trả nợ cho tất cả chúng sinh , rằng ý chí, quyết tâm của ông là không bao giờ thay đổi, Ở đây chủ trương hòa bình của Asoka là đồng nghĩa với vô úy thí (abhaya-dàna) hay ban phát không sợ hãi cho loài hữu tình được nói đến trong Phật giáo. Bởi bạo động, chiến tranh mang đến khổ đau và sợ hãi cho chúng sinh, chủ trương hòa bình, bất bạo động của Asoka có nghĩa là giải phóng chúng sinh khỏi khổ đau và sợ hãi. Ở đây ta lại thấy Asoka như đọc được lời dạy về úy thí của đức Phật : “ Này các Tỷ -kheo, Thánh đệ tử tứ bỏ sát sanh, ban bố không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, ban bố không hận thù cho vô lượng chúng sinh, ban bố không hại cho vô lượng chúng sinh; sau khi ban bố cho vô lượng chúng sinh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là đại bố thí.”[61]
Phật giáo nói đến ba loại bố thí-tài thí (àmisa-dàna), pháp thí (dharma-dàna) và vô úy thí (abhaya-dàna). Tài thí là cung cấp vật dụng hay tạo phương tiện sinh sống cho người khác. Pháp thí là khuyến khích hay dạy ngưòi hưóng thiện, tu nhân tích đức. Vô úy thí là tỏ rõ tấm lòng từ bi bằng cách giải phóng mọi người khỏi lo âu và sợ hãi. Asoka xem ra đã thực hiện đầy đủ các hạnh bố thí được nói đến trong Phật giáo. Ông lãnh đạo đất nưóc giàu mạnh,ban bố các chính sách thiết thực khiến dân chúng an cư lạc nghiệp tức là đã làm tròn hạnh nguyện tài thí hay bảo đảm sinh kế cho tất cả mọi người. Tự thân ông cũng thăm viếng, tặng quà và hỗ trợ tiền tài cho các Sa-môn, Bà-la-môn và các bậc cao niên trưởng lão.[62]Ngoài ra , hạnh bố thí tài vật của ông cũng được đánh dấu bởi chính sách bang giao giúp đỡ các quốc gia khác về phương diện y tế và các chế độ an sinh phúc lợi xã hội. Asoka đề cao pháp thí bằng cách nỗ lực truyền bá Chánh pháp và đẩy mạnh đường lối giáo dục đạo đức cho mọi tầng lớp của xã hội, Ông cũng tỏ rõ là người thực hiện hạnh Pháp thí khi ủng hộ công cuộc truyền bá Phật pháp do các tăng sĩ Phật giáo thực hiện ở khắp nơi trong nước và ở ngoài nưóc. Đặc biết , với chính sách hòa bình và với tấm lòng đầy bao dung độ lượng, Asoka đã thiết lập đức vôúy, khiến cho hết thảy mọi người không còn lo sợ bởi chiến tranh khổ đau mà hoàn toàn tin tưởng ở ông, bởi “đức vua giống như người cha, thươngyêu hết thảy mọi người, xem mọi người như con cái”, và bởi “đức vua sẽ khoan dung tất cả và sẽ giúp mọi người thực hành Chánh pháp để được lợi ích đời này và đời sau.”[63]
4.Tư tưởng bao dung hay hộ trì chân lý (Saccà-nurakkhana) :
Bia ký Asoka cũng phản ánh tư tưởng bao dung hay tinh thần hộ trì chân lý được nói đến trong Phật giáo. Theo quan điểm của đức Phật, bao dung hay hộ trì chân lý có nghĩa là khẳng quyết đức tin của chính mình nhưng không vì thế mà bài xích niềm tin của người khác. Đây là sắc thái tư tưởng rất đặc biệt của đức Phật, đặt nền tảng cho thái độ tôn trọng tự do tín ngưỡng của người khác rất sáng suốt và rất trí thức của Phật giáo. Trong bài kinh Thương Già (Cankì Sutta), số 95, Trung Bộ (Majjhima Nikàya), đức Phật nêu rõ thái độ bao dung và hộ trì chân lý như sau: “ Này Bhàradvàja, nếu có người có lòng tin và bảo : ‘Đây là lòng tin của tôi,’ người ấy hộ trì chân lý ; nhưng người ấy không đi đến kết luận một chiều: ‘ Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm.’[64] Ngài nói thêm với Bhàradvàja rằng hộ trì chân lý không đủ để một người có trí đi đến kết luận một chiều rằng chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm. Như vậy, theo Phật giáo, một người có đức tin và kiên quyết theo đuổi đức tin của mình thì được gọi là hộ trì chân lý, nhưng người ấy không nên quá cực đoan cho rằng chỉ những gì mình tin là đúng, ngoài ra la hư vọng. Nói khác đi, người ta có quyền theo đuổi và bảo vệ đức tin của riêng mình nhưng không phải vì thế mà bài xích tín ngưỡng của người khác. Đây quả là tư tưởng độc đáo của đức Phật khiến cho tôn giáo của ngài nổi tiếng là bao dung và hòa bình. Người ta nói rằng bậc Đạo sư từng khuyên Sìha, vị tướng quân người Licchavì, và Upàli, người gia chủ giàu có danh tiếng xứ sở Nalanda, tiếp tục ủng hộ cho các tu sĩ Kỳ Na giáo sau khi hai vị cựu tín đồ Kỳ Na này tuyên bố quy y Tam Bảo, bởi theo lời ngài thì từ lâu gia đình của họ đã là “giếng nước mưa nguồn của các tu sĩ phái Kỳ na (Jainism).”[65]
Asoka biểu lộ thái độ tương tự đối với tín ngưỡng cũ của mình là Bà-la-môn giáo và các giáo phái đương thời sau khi ông chính thức quy ngưỡng Phật giáo. Ông thăm viếng, tặng quà và cúng dường tài vật cho các Sa-môn, Bà-la-môn,[66] ban tặng hang động Nigrodha và Khalatika cho các tu sĩ Àjìvìka.[67] Thông tin trụ đá VII cho hay Asoka đã bổ nhiệm các quan chức Dharma-mahàmàtra và nhiều loại quan chức khác ở kinh đô Pàtaliputra và tại các tỉnh thành trong nước nhằm phục vụ các mục đích tôn giáo. Các quan chức này có nhiệm vụ chăm nom, tạo điều liện cho các tu sĩ xuất gia cũng như những người cư sĩ tu tại gia của mọi giáo phái thực hành Chánh pháp nhằm thúc đẩy lòng nhân từ, tínhtrung thực, lòng rộng lượng, trong sạch, từ hòa và thiện tâm trong đời sống quần chúng nhân dân. Họ cũng được giao trách nhiệm phân phối các phẩm vật cúng dường của hoàng gia dành cho Tăng già, các tu sĩ Bà-la-môn, các nhà tu khổ hạnh Kỳ Na giáo và các tu sĩ giáo pháo Ájìvika. Có thể nói rằng chính tấm lòng bao dung của đức Phật đã mở đường cho chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng và bình đẳng tôn giáo của nhà nước Maurya. Trong chỉ dụ ghi ở bia ký Girnar, Asoka đã cụ thể hóa tinh thần hộ trì chân lý của đức Phật bằng những lời lẽ như sau: “ Người ta không nên chỉ tôn trọng giáo phái của mình và bài xích giáo phái của người vì lý do này hay lý do khác. Vì làm như thế người ta chẳng những làm tổn thương giáo phái của mình mà còn làm thương tổn giáo phái của người khác. Về nhiều phương diện khác nhau, tất cả mọi giáo phái đều xứng đáng được tôn trọng. Những ai tôn trọng giáo phái của mình và bài xích giáo phái của người khác, nghĩ rằng như vậy ta sẽ làm rạng danh giáo phái của ta’, thì ngược lại những người ấy chỉ làm tổn thương giáo phái của chính mình.”


tải về 1.22 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương