A dục vưƠng (asoka) cuộC ĐỜi và SỰ nghiệP



tải về 1.22 Mb.
trang13/19
Chuyển đổi dữ liệu26.07.2016
Kích1.22 Mb.
#6622
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   19
5.Tư tưởng sống đạo đức trong sạch để hưởng hạnh phúc đời này và đời sau:
Bia ký Asoka nhấn mạnh đến hạnh phúc đời này và đời sau thông qua nếp sống đạo đức, trong sạch và hướng thiện. Asoka đề cao nếp sống đạo đức nhân ái được thể hiện qua việc từ bỏ sát sanh, tránh các điều ác, làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch, chân thực, thanh cao [68] vốn đã được đứcPhật khái quát hóa qua bài kệ số 138 ghi trong bản kinh Pháp cú:
“ Không làm các điều ác,
Thành tựu các hạnh lành,
Giữ tâm ý trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy.”
Asoka mong muốn hết thảy mọi người được hạnh phúc an lạc đời này và đời sau và ông tin chỉ có nếp sống đạo đức tôn giáo mới giúp mọi người thực hiện mục đích ấy.[69] Ông đề cao nếp sống không sát sanh; hiếu kình cha mẹ; tôn trọng thầy cô giáo; cung kính cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn; giúp đỡ bà con , bạn bè; đối xử nhân hậu với kẻ làm công, người giúp việc. Ông gọi những việc làm này là vận may Chánh pháp (Dharma-mangala) bởi chúng đưa đến hạnh phúc đời này và đời sau.[70] Ngoài ra, bia ký của ông còn nhấn mạnh đến một số các đức tính khác như thiện tâm, bất hại, bố thí, chân thật, trong sạch, từ hòa, thánh thiện, tự chế, thanh tịnh tâm, biết ơn, tín tâm, yêu mến sự thật, tiết kiệm. Asoka tin rằng nhờ nuôi dưỡng và phát triển các đức tính như thế mà con người có thể đạt được hạnh phúc đời này và đời sau.
Asoka rất tin tưởng lý thuyết nhân quả nghiệp báo và do đó bia ký của ông phản ánh sâu sắc tư tưởng đạo đức luân lý. Ông kêu gọi mọi người sống lương thiện, trong sạch, chân thực, từ hòa, hào phóng; ông đánh thức mọi người về lòng hiếu thảo, thái độ tôn kính, lòng biết ơn, tinh thần trách nhiệm, lòng nhân hậu. Ông tin tưởng kết quả tốt lành của hành vi không sát sanh, chế độ ăn chay, công đức của bố thí. Trụ đá V đánh dấu sự kiện Asoka ngăn cấm việc sát sanh và làm tổn thương các loài sinh vật. Chỉ dụ ghi ở trụ đá IV cập sự kiện Asoka ra điều lệ cho phép các tù nhân bị xử tội chết được gia hạn thời gian chấp hành án trong ba ngày để xem thân nhân của họ có xin kháng án hay không và để cho các tội nhân có cơ hội bố thí và ăn chay trong thời gian đó với hy vọng hưởng được lợi ích đời sau. Có thể nói rằng tất cả những hành vi đạo đức luân lý được đề cập trong các bia ký và trụ đá Asoka phản ánh khá đầy đủ và sâu sắc tư tưởng đạo đức Phật giáo. Trước đây chúng ta đã có dịp điểm qua một số bài kinh tiêu biểu cho khía cạnh đạo đức luân lý Phật giáo mà rõ nét nhất là hai bài kinh Giáo thọ Thi Ca La Việt (Singàlovàda Suttanta) thuộc Trường Bộ và kinh Điềm lành lớn hay Vận may tối thượng (Mahà-mangala Sutta) thuộc Tiểu Bộ. trong hai bản kinh này, cơ sở đạo đức Phật giáo được nêu trỏ khá đầy đủ. Bài kinh Giáo thọ Thi Ca La Việt nêu rõ nếp sống không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói láo, không làm các ác nghiệp, không phung phí tài sản hay tiết kiệm, phụng dưỡng cha mẹ, tôn trọng thầy cô giáo, thương mến vợ con, giúp đỡ bạn bè, đối xử nhân hậu với kẻ ăn người ở, cung kính cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn là căn bản hạnh phúc cho đời này và đời sau.[71] Bài kinh Điềm lành lớn hay Vận may tối thượng đề cập một số các đức tính cần thiết cho việc xây dựng hạnh phúc hiện tại và tương lai như hiếu kính cha mẹ, nuôi dưỡng vợ con, bố thí, sống chân chánh, giúp đỡ các bà con, hành động không lỗi lầm, từ bỏ điều ác, chế ngự rượu chè, thực hành Chánh pháp, cung kính và hạ mình, biết đủ và biết ơn, nhẫn nhục, nói lời hòa nhã, gần gũi bậc chân nhân,yêu mến an tịnh, tự thẩm sát bản thân, sống trong sạch , thanh cáo, tâm không sầu muộn, không giao động và không vướng lụy. Như vậy, so sánh hai nguồn tài liệu, bia ký -trụ đá Asoka và kinh điển Phật giáo, chúng ta có thể đi đến kết kuận rằng tư tưởng đạo đức được đề cập trong các bia ký và trụ đá Asoka không khác gì là tư tưởng đạo đức Phật giáo, Asoka đã không phí công nghiên cứu đạo Phật bởi các tư tưởng thiết thực được tìm thấy trong bia ký và trụ đá của ông phản ánh sâu sắc tư tưởng thiết thực của Phật giáo.
[1] JRAS, 1908,tr.491-97.
[2] D.R.Bhandarkar,Asoka,tr.105.
[3] J.M.Macphail,Asoka,tr.48.
[4] V.A.Smith,Asoka,tr.59-60.
[5] V.A.Smith,Asoka,tr.29-30.
[6] R.Mookerji,Asoka,tr.60.
[7] CHI,tập I ,tr.505.
[8] IA, 1891,tr.264-65.
[9] D.R.Bhandarkar,Asoka,tr.107-13.
[10] Tiểu bia ký I.
[11] Bia ký Bhabrù hay Bairat.
[12] Bia ký IV.
[13] Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử Văn minh Ấn Độ, tr.100.
[14] Xem Phụ lục II.
[15] Rhys Davids & H.Oldenberg, Vinaya Texts,phần II,tr.2-5.
[16] Rhys Davids & H.Oldenberg, Vinaya Texts, phần I,tr.197.
[17] Bia ký VI.
[18] Tiểu bia ký I.
[19] Trụ đá VII.
[20] Bia ký III, IV,XI; trụ đá VII.
[21] Các bia ký III, IV,XI,XIII; trụ đá VII.
[22] Bia ký IV;trụ đá VII.
[23] Tiểu bia ký II, Bia ký IX.
[24] Bia ký III, IV,VII, IX,XI.
[25] Bia ký III, XI.
[26] Bia ký III,XI,XIII.
[27] Bia ký IX,XI,XIII; trụ đá VII.
[28] Bia ký VIII; trụ đá VII.
[29] Trụ đá II, VII.
[30] Bia ký VII, trụ đá II, VII.
[31] Tiểu bia ký II ;trụ đá II, VII.
[32] Trụ đá II, VII.
[33] Bia ký XIII; trụ đá VII.
[34] Trụ đá VII.
[35] Bia ký III.
[36] Bia ký VIII.
[37] Bia ký VII.
[38] Bia ký VII.
[39] Bia ký IV;trụ đá VII.
[40] Bia ký VII,XIII.
[41] JRAS, 1915,tr.809.
[42] Kinh Trường Bộ, tập II,tr.486.
[43] D.R.Bhandarkar,Asoka,tr.110.
[44] Trụ đá II, III.
[45] Trụ đá II.
[46] Trụ đá III.
[47] Bia ký Kalinga I.
[48] Bia ký IV.
[49] Bia ký KalingaI, Trụ đá III.
[50] B.M. Barua, Asoka and his Inscriptions,tr.235-36.
[51] Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử Văn minh Ấn Độ,tr.100.
[52] Samyutta Nikàya,tậpI,tr.165.
[53] Pháp cú, kệ số 129-130.
[54] Pháp cú, kệ số 131.
[55] Bia ký III.
[56] M.Waldhe,The long Discourses of the Buddha,tr.135-36.
[57] Bia ký IV.
[58] Bia ký XIII.
[59] Bia ký XIII.
[60] Bia ký XIII.
[61] Kinh Nguốn nưóc công đức, Tăng chi.
[62] Bia ký VIII.
[63] Bia ký Jaugada.
[64] Thích Minh Châu, Trung Bộ Kinh tập II, tr.172,Tu thư Đại học Vạn Hạnh, 1974.
[65] Xem Kinh Upàli, số 56, Trung Bộ; E.M.Hare, The Book of the Gradual Saying ,tập IV,tr.126-27.
[66] Bia ký VIII.
[67] Bia ký hang động Nigrodha và đồi Khalatika.
[68] Trụ đá II.
[69] Bia ký Jaugada.
[70] Bia ký IX.
[71] Kinh Trường Bộ, tập II, tr.531-45.

---o0o---


Chương VII


ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG ĐƯỜNG LỐI TRỊ QUỐC
VÀ NGOẠI GIAO CỦA ASOKA
Asoka chính thức nắm giữ vương quyền Maurya từ năm 270 đến năm 232 trước Công nuyên. Trong khoảng thời gian 38 năm ấy, ông đã đưa đất nước Ấn độ đạt đến chỗ phồn vinh, thái bình thịnh trị nhờ vào tài năng và đường lối lãnh đạo sáng suốt của ông. Ngoài ra, Asoka là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Ấn Độ chủ trương đường lối hòa bình triệt để và đề ra các chính sách bang giao hòa bình triệt để và đề ra các chính sách bang giao hòa hiếu với các quốc gia láng giềng trong khu vực. Tác phẩm Divyàvadàna ghi nhận sự kiện rằng Asoka trị vì một vương quốc rộng lớn mà không có đàn áp, không bắt ép người vô tội, không dùng vũ lực mà dùng đức trị.[72] Thông tin bia ký IV cũng cho hay nhờ các huấn chỉ tôn giáo do đức Thánh thượng Priyadarśì ban bố, dân chúng Ấn Độ đã tiến bộ đáng kể về phương diện đạo đức . Trong tiểu bia ký I Asoka thông báo với chúng ta ông từng sống với Tăng già hơn một năm, thông tin này một mặt nói rõ tấm lòng ngưỡng mộ Phật pháp của ông nhưng mặt khác gián tiếp phản ánh sự kiện rằng vương quốc Maurya của ông đã đạt đến thái bình thịnh trị đến độ Asoka đã có thể hoàn toàn an tâm tĩnh tu trong tu viện một thời gian khá lâu. Bia ký XIII đề cập sự kiện Asoka đã thu phục nhân tâm không những ở khắp nơi trong nước mà còn ở nước ngoài nhờ theo đuổi đường lối đức trị (Dharma-vijava). Nhận xét về thành quả của ông, K.Hazra nói rằng nhờ tài lãnh đạo sáng suốt và quản lý giỏi và với sự trợ giúp của đội ngũ quan chức chính phủ các cấp, Asoka đả quản lý hết sức thành công toàn bộ đế quốc to lớn của mình và đã thu phục lòng người một cách dễ dàng.[73] Cũng theo học giả này, Asoka đã giữ vững đế quốc rộng lớn của mình và thiết lập quan hệ thân thiện với các thế lực nước ngoài mà không dùng đến chiến tranh hay chính sách xâm lăng.[74] W.Rahula cho rằng Asoka là vị hoàng đế lỗi lạc, đã có can đảm, đức tin và kiến giải đủ để áp dụng những lời dạy của đức Phật về hòa bình, bất bạo động và yêu thương trong việc cai trị một đế quốc rộng lớn cả về nội bộ lẫn ngoại giao. Ông công khai quay lưng lại với chiến tranh, bạo động và đón nhận thông điệp của bất bạo và hòa bình.Không có bằng chứng lịch sử nào nói rằng có vua láng giềng nào đã lợi dụng sự sùng đạo của Asoka đế tấn công ông về quân sự, hay có một cuộc nổi loạn nào trong đế quốc ông lúc sinh thời. Trái lại hòa bình ngự trị khắp nơi trên lãnh thổ, và ngay cả những xứ bên ngoài vương quốc ông cũng dường như đã chấp nhận sự lãnh đạo nhân từ của ông.[75]
Tổng hợp các thông tin, nhận xét và đánh giá trên về thành quả của ông, chúng ta thấy rằng Asoka đã thành công lớn trong sự nghiệp chính trị nhờ tài năng lãnh đạo và đặc biệt là đường lối trị quốc và ngoại giao sáng suốt của ông. Trong các chương trước chúng ta đã nói đến tài lãnh đạo và các chính sách đối nội và đối ngoại của nhà nước Maurya đều nằm gọn trong các tàiliệu bia ký và trụ đá của ông mà trong chương vừa qua chúng ta đã có dịp xem xét đầy đủ và chứng minh chúng mang đậm tư tưởng và tinh thần Phật học.Các bia ký và trụ đá Asoka phản ánh sâu sắc giáo lý của đức Phật. Bởi vậy trong chương này chúng ta sẽ tiếp tục tìm xem Phật giáo đã đóng vai trò như thế nào trong sự nghiệp chính trị của Asoka hay nói cách khác, Phật giáo đã có những ảnh hưởng như thế nào đối với chính sách trị quốc và ngoại giao của nhà nước Maurya.
I.Phật giáo hóa Asoka:
Sẽ là một thiếu sót lớn khi nói đến ảnh hưởng Phật giáo trong đường lối trị quốc và ngoại giao của Asoka mà bỏ quên sự kiện Phật giáo hóa Asoka hay ảnh hưởng Phật giáo trong cuộc đời của ông. Không thể có sự kiện Phật giáo hóa đường lối Asoka nếu không có sự kiện Phật giáo hóa con người Asoka. Mọi thể chế nhà nước đều bắt nguồn từ con người và nếu nó mang sắc thái đạo đức hay tôn giáo nào đó thì điều đó có nghĩa là những người làm ra nó chịu ảnh hưởng bởi cơ sở đạo đức Maurya mang sắc thái Phật giáo bởi trước hết Asoka là một Phật tử.
Đạo Phật không chủ trương đào tạo những nhà lãnh đạo đất nước nhưng quan tâm xây dựng những con người hoàn thiện, có khả năng làm chủ chính mình và đảm đang nhiều việc lớn, kể cả việc quốc gia đại sự. Đức Phật không chủ trương luận bàn chính trị và tránh các vấn đề thế sự. Ngài tránh bàn thế sự và khuyên các môn đệ của mình không nên tham gia thế sự bởi đấy không phải là phận sự của kẻ xuất gia. Tuy nhiên, là một bậc đạo sư có trách nhiệm hướng dẫn nếp sống đạo đức và hạnh phúc của quần chúng, ngài đã không thể hoàn toàn bỏ qua mọi diễn biến của thời thế nhất là khi vấn đề ấy liên quan trực tiếp đến con người và an nguy của con người. Bản sớ giải kinh Pháp cú (Dharma-pada Atthakathà) nói rằng ngài từng đứng trước làn tên mũi đạn của hai bộ tộc Sàkya và Koliya đang chuẩn bị đánh nhau đế nói lời hòa giải. Cũng vậy, khi Ajàtasattu phái đại thần Vassakara đến thỉnh vấn ngài về ý định của ông muốn chinh phục xứ Vajjì, đức Phật đã gián tiếp can ngăn công cuộc xâm lăng của vị vua này bằng cách nói đến bảy yếu tố hùng mạnh của dân tộc Vajjì.[76]Luật tạng ghi nhận sự kiện rằng trong thời gian nổ ra các cuộc chiến tranh chấp biên giới, một số quân lính của vua Bimbisàra trốn khỏi quân đội lẩn trốn trong Tăng già. Nhà vua đệ trình sự việc lên đức Phật và ngay lập tức ngài ban hành điều lệ không chấp nhận việc xuất gia cho những ai đang ở trong thời kỳ phục vụ quốc gia.[77]
Về phương diện giáo dục, đức Phật chú ý xây dựng những mẫu người hoàn thiện tương ứng với vị trí của họ trong đời sống xã hội. Ngài chấp nhận yếu tố tích cực của văn hóa Aryan khi ngài xây dựng nhân vật Chuyển luân Thánh vương lãnh đạo đất nước dựa trên Chánh pháp. Tuyển tập Trường Bộ (Dìgha Nikàya) lưu giữ hai bài kinh, Cakka-vattìsìhanàda và Lakkhana, trong đó đức Phật nói về vị vua Chuyển luân Thánh vương (Dharmma) của vị vua này. Văn học Jàtaka thuộc Phật giáo Thượng tọa bộ thuật câu chuyện đức Phật nói về Thập vương pháp (Dasaràjadhamma) hay mười đức tình cần thiết của một minh quân. Trong bài kinh Kùtadanta, Trường Bộ , ngài kể cho vị Bà-la-môn Kùtadanta câu chuyện ngụ ngôn nói về biện pháp trị nước thiết thực và hữu hiệu của vị vua tên Mahàvijita. Như vậy, tất cả những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật và những bản kinh của ngài đuợc lưu giữ trong kinh tạng mà Asoka đã có dịp đọc hay nghe qua chắc chắn đã tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời và sự nghiệp của ông. Chúng ta có thể nói rằng chính nhân cách vĩ đại và thánh thiện của đức Phật cùng những lời dạy sáng suốt và nhân ái của ngài đã thánh hóa con người Asoka.
Sự nghiệp chính trị của Asoka mà tiêu biểu là các chính sách trị quốc và ngoại giao của ông phản ánh sâu sắc tư tưởng Phật giáo và in đậm tinh thần Phật học. Tất cả các chỉ dụ và sắc lệnh do ông ban bố đều không ngoài mục đích dẫn dắt nếp sống đạo đức tôn giáo của quần chúng và thiết lập tình huynh đệ bằng hữu với các quốc gia láng giềng. Asoka là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Ấn Độ nhận rõ vai trò to lớn và lý tưởng cao cả của vị vua Chuyển luân Thánh vương (Cakkavattì) được nói đến trong kinh điển Phật giáo và nỗ lực theo đuổi lý tưởng ấy. Ông thực sự là một vị vua Chánh pháp , dùng Chánh pháp trị nước, chinh phục bốn phương bằng đạo đức nhân ái, mang lại thái bình cho đất nước, trị vì một quốc gia rộng lớn mà không dùng trượng hay dùng đao. Ông đề cao đạo đức nhân ái, từ bỏ chiến tranh xâm lăng, chủ trương hòa bình hữu nghị. Như vậy, về vai trò và đường lối trị quốc, Phật giáo đã mở đường cho Asoka trong vai trò một vị vua Chánh pháp và lý tưởng trị quốc được theo đuổi bởi vị vua này. Đọc lại các bản kinh Phật nói về vị hoàng đế Chuyển luân Thánh vương và sự nghiệp của ông như kinh Cakkavattìsìhanàda và kinh Lakkhana rồi so sánh cuộc đời và sự nghiệp của Asoka, chúng ta không khỏi ngạc nhiên nhận ra rằng Asoka đích thực là “bản sao” của kinh điển Phật giáo. Phật giáo đã thánh hóa con người bằng da bằng thịt của Asoka để rồi chính con người ấy sẽ dần dần thánh hóa cuộc đời. Theo Will Durant, Asoka đã hoàn toàn tin lời dạy của đạo Phật và rán áp dụng nó vào việc trị quốc.[78] Nói khác đi, Phật giáo đã chuyển hóa mạnh mẽ con người Asoka và do đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự nghiệp chính trị hay đường lối trị quốc và ngoại giao của ông.
Về con người cá nhân, Asoka rõ ràng chịu ảnh hưởng tư tưởng Thập vương pháp (Dasaràja-dhamma) được chép trong tuyển tập Jàtakà. Thập vương pháp hay mười đức tính của một vị vua gồm (1) bố thí (dàna), (2) giới hạnh (sìla), (3) biến xả (pariccàga), (4) chân trực (ajjava), (5) khổ hạnh (tapa), (6) nhu hòa (maddava), (7) không sân hận (akkodha), (8) bất hại (ahmasà), (9) nhẫn nhục (khanti), (10) không đối lập hay thuận theo ý chí của toàn dân (avirodha).Có thể nói rằng cuộc đời Asoka phản ánh khá đầy đủ nội dung Thập vương pháp. Ông thực hiện đầy đủ hạnh bố thí (dàna), [79] sống một cuộc đời đạo đức thanh cao và tuân thủ các giới hạnh (sìla). [80] Ông thực hành hạnh biến xả (pariccàga), từ bỏ các thú vui và hạnh phúc cá nhân để tập trung các công tác phục vụ lợi ích và hạnh phúc của nhân dân.[81] Asoka biểu lộ thái độ chân trực (ajjava), không thiên vị người thân kẻ sơ, xử lý công việc rất nghiêm minh. Truyền thuyết Divyàvadàna cho hay Asoka đã tống giam em trai mình là Mahendra vào ngục tối khi vị công tử này cậy quyền thế làm những việc xằng bậy khiến công chúng oán hận.[82] Ông công khai bày tỏ sai lầm của mình về việc xâm lăng Kalinga[83] và thường xuyên thảo luận với quần chúng nhân dân về đường lối đức trị.[84] Về đức tính khổ hạnh hay khắc khổ (tapa) , Asoka thực hành nếp sống giản dị, giảm thiểu tối đa chế độ ăn thịt,[85] từ bỏ các cuộc vui chơi săn bắn và nhiều thú vui khác của hoàng gia.[86] Ông thậm chí đã từng sống nếp sống phạm hạnh kham khổ của tăng sĩ trong thời gian hơn một năm.[87] Ông sống nhu hòa (maddava) với mọi người và đề cao đức tính khiêm tốn nhu hòa.[88] Ông không có tâm thù hận hay ác độc (akkodha), ngược lại ông luôn tỏ rõ từ tâm đối với tất cả mọi người. Bia ký XIII ghi lời Asoka khẳng định rằng ông thậm chí sẵn sàng bao dung và tha thứ cho những người mắc phải sai lầm. Cuộc đời và sự nghiệp của ông phản ánh sâu sắc tinh thần bất hại (ahimsà). Asoka không những không sát sanh, làm hại, ông còn khuyên răn mọi người không được sát sanh và làm hại. Đặc biệt, động thái bất bạo động và hòa bình của ông là tấm gương sáng về đức tính bất hại. Ông có đức tin và tính kham nhẫn (khanti) lạ thường. Truyền thống Tích Lan lưu truyền câu chuyện rằng Asoka rất sùng tín cây Bồ đề đến độ bà vợ ông, hoàng hậu Tishyarakshita, trở nên ghen tỵ muốn triệt hạ cây này vì thường xuyên thấy Asoka lễ bái dưới gốc cây. Trong ký sự của mình, Huyền Trang có thuật lại câu chuyện này và nói thêm rằng Asoka đã lặng lã cho xây một bức tường đá bao bọc chung quanh để bảo vệ cây Bồ đề.[89]Truyền thuyết Aśokàvadàna thuật rằng lúc về già Asoka bị cháu trai mình là hoàng thái tử Sampadi và đám quần thần rút lần hết quyền hành và đối xử tệ bạc. Chúng ngăn cản ông làm điều lành và rút dần phần ăn của ông cho đến khi chỉ còn nửa trái àmalaka cho mỗi bữa ăn. Mặc dù bị ngược đãi, ông tiếp tục hạnh bố thí cúng dường của mình, chia sẻ vật thực với chư tăng các phần ăn sau cùng và kham nhẫn sống với niềm vui Chánh pháp cho đến lúc qua đời. Trong suốt 38 năm trị vì, Asoka chứng tỏ là nhà lãnh đạo thuận ý dân (avirodha). Ông thường xuyên thảo luận và lấy ý kiến của dân trước khi đề xuất các chính sách.[90] Ông ra lệng cho các quan chức chính phủ phải theo hạn kỳ tuần du nhằm phổ biến chính sách nhà nước và xem xét hiện tình đời sống nhân dân và chính ông cũng thường xuyên du hành nhằm nắm bắt tình thế và giáo dục nhân dân. Không một cuộc bạo loạn nào được ghi nhận đã nổ ra trong suốt thời gian trị vì của ông và đời sống quần chúng được tiến bộ đáng kể về đạo đức và hạnh phúc.[91]
II.Phật giáo hóa đường lối Asoka:
Asoka đọc kỹ các bản kinh Phật, thấy rõ giá trị thực tiễn của giáo lý đạo Phật đối với cuộc sống đạo đức và hạnh phúc của con người nói chung nên đã không bỏ qua cơ hội vận dụng nguồn giáo lý này vào đường lối trị quốc của ông. Ngoài ra, ông cũng nhận ra giá trị to lớn của tinh thần từ bi bất bạo động và lý tưởng hòa bình mà Phật giáo luôn đề cao và đã nỗ lực theo đuổi các lý tưởng ấy thông qua đường lối đối ngoại.
A. Đường lối trị quốc:
Về đường lối trị quốc, các bia ký của ông cho thấy Asoka chịu ảnh hưởng tư tưởng đức trị được đề cập trong các kinh điển Phật giáo. Kinh Chuyển luân Thánh vương Sư tử hống , số 26, Trường Bộ, mô tả vai trò trị quốc của một minh quân như sau; Vua là người yêu quý sự thật (dharma) và tôn trọng sự thật, tự trở thành người bảo vệ hợp pháp cho thứ dân, cho quân đội, cho Sát đế lỵ, cho quần thần, cho Bà-la-môn, cho gia chủ, cho thị dân, thôn dân, cho Sa-môn, Bà-la-môn, cho các loài thú và loài chim. Trong quốc độ, nhà vua là người sống chân chánh, đúng pháp; bảo đảm đời sống cho muôn dân; tôn trọng các bậc đức hạnh; khuyến khích mọi người làm lành và ngăn chận mọi người làm ác. Kinh Kùtadanta, số 5, Trường Bộ, nói đến cảnh một đất nước thái bình thịnh trị trong đó các vua quan hết lòng thương yêu chăm lo cho dân, không dùng chính sách đàn áp, không đánh sưu cao thuế nặng, biết vận dụng các chính sách thỏa đáng, tạo công ăn việc làm thích hợp cho dân, khiến dân được yên ổn, chăm lo làm ăn, mọi người được an vui, nhà nhà được an vui, sống với cửa nhà rộng mở: “ Thuở xưa, này Kùtadana, có một vị vua tên là Mahàvijita rất giàu có, tài sản của cải chất đống, sở hữu vô số vàng bạc và châu báu. Một hôm, đang ngồi ở nơi nhàn tịnh, nhà vua suy nghĩ: ‘ Ta đã sở hữu nhiều tài sản, đã chiếm được một vùng đất đai rộng lớn. Nếu nay ta tổ chức một tế đàn lớn, như vậy phải chăng ta sẽ được lợi ích và an lạc lâu dài?’ Nhà vua liền cho gọi người chủ tế và bảo cho ông ta hay về suy nghĩ của mình. Vị chủ tế liền tâu: ‘ Nay vương quốc của Bệ hà đang gặp tai ương bởi nạn cướp bóc, làng mạc và thành thị bị tàn phá, nông thôn nhan nhản kẻ cướp. Nếu Bệ hạ cho đánh thuế các vùng này thì đó là việc làm sai lầm. Nếu Bệ hạ nghĩ rằng : ‘ Ta sẽ tiêu diệt dịch cướp bằng cách hành hình, tống tù, tịch thu, đe dọa trục xuất,’ như vậy nạn cướp này sẽ không hoàn toàn chấm dứt. Những kẻ sống sót sẽ tiếp tục nhiễu loạn vương quốc của Bệ hạ. Tuy nhiên, bằng cách này, Bệ hạ có thể loại sạch nạn cướp, tức là, những ai trong vương quốc của Bệ hạ chuyên việc canh tác và chăn nuôi, Bệ hạ hãy cung cấp hạt giống và thực phẩm gia súc cho họ; những ai chuyên việc kinh doanh, Bệ hạ hãy đầu tư tiền vốn; những ai phục vụ triều chính, Bệ hạ hảy trả tiền lương đủ cho họ sinh sống. Những người này, do mải mê làm công việc của mình, sẽ không nhiễu loạn vương quốc của Bệ hạ. thu nhập của Bệ hạ ngày càng tăng, xứ sở được thanh bình, không còn tai ương cướp bóc, dân chúng hân hoan vui đùa với con cái và sống với cửa nhà rộng mở.’[92]
Asoka mong muốn xây dựng một vương quốc thánh thiện dựa trên đạo đức và Chánh pháp (Dharma). Ông chủ trương đường lối đức trị hay chinh phục lòng người bằng đạo đức nhân ái (Dharma-vijava) được thể hiện qua việc nỗ lực truyền bá và nêu cao đạo đức, hết lòng chăm lo hạnh phúc cho dân, không dùng hình phạt, điều chỉnh sưu thuế, tạo công ăn việc làm cho dân, tăng cường chế độ phúc lợi xã hội, có chế độ ưu tiên trợ giúp cho người nghèo khó, già cả, kẻ lầm đường lạc lối, ân giảm hình phạt cho các phạm nhân.
Trước hết về lý tưởng phục vụ , nhà nước Asoka là một nhà nước vì dân. Asoka thương dân như con cái [93] và nỗ lực làm việc hết mình vì hạnh phúc của nhân dân.[94] Ông làm việc không kể giờ giấc và nơi chốn. Ông bảo các quan chức có trách nhiệm phải báo cáo ngay cho ông những vấn đề liên quan đến đời sống nhân dân.[95]Chẳng những thế, Asoka còn thường xuyên du hành nhằm nắm bắt tình thế và xem xét hiện tình đời sống nhân dân. Bia ký VIII ghi nhận sự kiện Asoka thay thế các cuộc dạo chơi săn bắn của hoàng gia (vihàra-yàtrà) bằng những cuộc du hành (Dharma-yàtrà) thăm viếng, tặng quà, thảo luận và giáo dục quần chúng nhân dân. Tiểu bia ký I cho hay Asoka đã thực hiện nhiều cuộc du hành khuyến giáo nhân dân với kết quả là dân chúng Ấn Độ (Jambudvìpa) ngày càng tỏ ra yêu mến đạo đức và sùng tín tôn giáo.
Trong công tác quản lý và điều hành quốc gia, Asoka thành lập đội ngũ quan chức chính phủ các cấp có trách nhiệm chăm lo và sẳn sàng phục vụ lợi ích của nhân dân. Ông huấn luyện rất kỹ đội ngũ quan lại các cấp, giáo dục họ phải nêu gương cho mọi người; họ phải làm việc chuyên cần, chí công vô tư, phải tận tụy với dân, không được cậy quyền thế làm điều xằng bậy và hạch sách nhân dân. Với Asoka, người lãnh đạo phải có lòng thương dân như cha mẹ thương yêu con cái và phải tận tụy chăm lo cho dân như người vú ân cần chăm lo cho con trẻ.[96]Có thể nói rằng về phương diện phục vụ nhân dân, Asoka chịu ảnh hưởng sâu sắc lý tưởng phụng sự chúng sinh của đức Phật và Tăng đoàn của ngài. Cuộc đời đức Phật là tấm gương lớn về lý tưởng phụng sự chúng sinh và ngài thành lập Tăng đoàn cũng nhằm mục đích phục vụ lợi ích và an lạc cho mọi người. Nalinaksha Dutt cho rằng chính lý tưởng phụng sự chúng sinh của đức Phật đã khiến Jìvaka mang toàn bộ vốn liếng y học của mình phục vụ tăng ni, Anàthapindika và Visakhà dốc tài sản ra vì lợi lạc của các tu sĩ, Asoka ban bố các tiện nghi vật chất và giáo dục đạo đức vì lợi ích của thần dân ông và các dân tộc láng giềng.[97] Asoka thương dân như cha mẹ thương yêu con cái và nỗ lực làm việc hết mình vì lợi ích của nhân dân tức là ông noi theo đức hạnh từ bi của đức Phật và các thánh Tăng luôn luôn thương yêu hết thảy mọi loài và nỗ lực hết mình vi hạnh phúc của chúng sinh. Kinh Từ bi (Mettasutta) nhấn mạnh: “ Như tấm lòng người mẹ đối với người con một của mình, trọn đời lo che chở cho con. Cũng vậy, đối với tất cả các loài hữu tình, hãy nuôi dưỡng tâm ý không hạn lượng, rộng lớn: ‘ Mong mọi loài chúng sanh , được an lạc an ổn; mong chúng chứng đạt được, hạnh phúc và an lạc.’’’[98] Trong các chỉ dụ của mình, Asoka xác nhận mọi nỗ lực của ông đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích và hạnh phúc của tất cả chúng sinh.[99] Xem ra câu nói này của ông có phần nào giống với lời tuyên bố của đức Phật trong các bản kinh Pàli: “ Như Lai ra đời vì hạnh phúc và an lạc cho số động, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho chư thiên và loài người.” Asoka nỗ lực phục vụ nhân dân gần 40 năm. Đức Phật chứng minh lời tuyên bố phụng sự chúng sinh bằng 45 năm thuyết pháp độ sinh của ngài. Asoka không ngừng tằng cường đội ngũ quan chức các cấp nhằm mục đích mở rộng mạng lưới chăm lo lợi ích và hạnh phúc cho dân. Sự kiện này thêm một bằng chứng cho thấy Asoka đã theo gương đức Phật khi ngài quyết định thành lập Tăng già với mục đích mở rộng công tác phụng sự chúng sinh thông qua đội ngũ các tu sĩ Phật giáo. Luật tạng Pàli (Pàli Vinaya Pitaka) ghi nhận sự kiện rằng khi số thành viên của Tăng già lên tới 61 vị, đức Phật liền khuyên các đệ tử mình đi khắp mọi nơi nhằm phổ biến giáo lý của ngài “ vì hạnh phúc và an lạc cho số đông, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích hạnh phúc và an lạc cho chư thiên và loài người.”Tài liệu này còn nói rằng đức Phật căn dặn các học trò mình không nên đi hai người một hướng mà nên đi mỗi người một ngã để cho việc truyền bá Chánh pháp được phổ biến rộng rãi.[100]


tải về 1.22 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương