1 Tính cấp thiết của đề tài


Bảng 4.3 Tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi gà đồi của huyện Yên Thế



tải về 1.16 Mb.
trang6/11
Chuyển đổi dữ liệu17.07.2016
Kích1.16 Mb.
#1791
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

Bảng 4.3 Tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi gà đồi của huyện Yên Thế

Diễn giải

ĐVT

Năm

So sánh

2008

2009

2010

09/08

10/09

BQ

1. Sản lượng thịt gà hơi

kg

3.479.107

4.444.393

6.213.771

113,50

113,04




Tiêu thụ trong tỉnh

%

72,08

70,24

68,14

-

-

-

Tiêu thụ ngoài tỉnh

%

27,92

29,96

31,86

-

-

-

2. Sản lượng trứng

quả

2.849.391

4.221.498

4.712.162

139,97

141,98




Tiêu thụ trong tỉnh

%

73,19

67,58

65,02

-

-

-

Tiêu thụ ngoài tỉnh

%

26,81

32,42

34,98

-

-

-

3. Giá bán thịt gà hơi

đ/kg

46.200

50.700

55.400

109,74

109,27




4. Giá bán trứng giống

đ/quả

3.600

3.830

4.200

106,38

109,66



Người tiêu dùng cuối cùng trong chuỗi tiêu thụ khi có kênh tiêu thụ trực tiếp từ người chăn nuôi đến người tiêu dùng chủ yếu là người hàng xóm, người địa phương khác.

Qua bảng 4.3 ta nhận thấy tình hình tiêu thụ sản phẩm gà trứng và thịt gà của huyện chủ yếu ở thị trường trong tỉnh, khoảng trên 70%. Giá bán thịt và trứng gà của huyện qua 3 năm có chiều hướng tăng lên mạnh, cụ thểgiá gà thịt hơi năm 2008 46,2 nghìn đồng, năm 2010 51 nghìn đồng. Giá bán trứng giống là 3,6 nghìn đồng năm 2008 thì năm 2010 lên 4,2 nghìn đồng. Thị trường tiêu thụ sản phẩm gà đồi thịt và trứng gà thịt là chưa chắc chắn, phần lớn còn phụ thuộc vào thương lái thu gom. Việc tiêu thụ sản phẩm thông qua hợp đồng mới chỉ xuất hiện ở một số ít trang trại và doanh nghiệp thương mại, chưa có sự liên kết chặt chẽ

4.2 Thực trạng phát triển chăn nuôi gà vườn đồi của các hộ nông dân huyện Yên Thế

4.2.1 Đặc điểm của hộ chăn nuôi gà vườn đồi huyện Yên Thế

4.2.1.1 Đặc điểm của chủ hộ chăn nuôi gà vườn đồi

Trong hộ nông dân, chủ hộ là người có vai trò rất quan trọng, quyết định lớn nhất đến các phương thức sản xuất của hộ, phương hướng phát triển sản xuất của hộ trong tương lai. Trong chăn nuôi gà đồi và việc lựa chọn phương thức chăn nuôi, hình thức liên kết phù hợp để nâng cao hiệu quả chăn nuôi thì phần lớn các quyết định là do chủ hộ.



* Tuổi của chủ hộ

Tuổi tác thường thể hiện kinh nghiệm sống cũng như sự thâm niên, kinh nghiệm trong nghề nghiệp. Ngoài ra, tuổi còn ảnh hưởng đến quy mô làm ăn và phân phối lao động. Theo kết quả điều tra ở 100 hộ chăn nuôi gà đồi trên 40 tuổi chiếm 82,9%, sự phân bố tuổi của các chủ hộ được thể hiện qua bảng sau:



Bảng 4.4 Phân bố tuổi của các chủ hộ chăn nuôi gà đồi

Tuổi

SL (hộ)

Tỷ lệ (%)

20- 29

6

8,57

30- 39

8

11,43

40- 50

30

42,86

> 50

26

37,14

Tổng số (%)

70

100

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, 2010)

Theo bảng số liệu trên cho thấy chủ hộ tuổi 30 - 50 chiếm 54,29%, trong khi chủ hộ trẻ tuổi dưới 30 chỉ chiếm 8,57%. Tỷ lệ chủ hộ trên 50 tuổi chiếm tỷ lệ khá cao là 37,14%, những người lớn tuổi thường cho ra những quyết định chín chắn, cẩn thận trong hoạt động chăn nuôi gà đồi.



* Nghề nghiệp và sử dụng lao động

+ Về nghề nghiệp của nông hộ: Nghề chăn nuôi gà đồi là một nghề truyền thống, số lao động tham gia NTTS ngày càng tăng, qua thực tế cho thấy nghề này có mức thu nhập cao nhưng không ổn định, do vậy nông dân chưa dám đầu tư hết nguồn lực vào chăn nuôi gà đồi mà thêm vào đó một số ngành khác.

Yên Thế là một huyện nông nghiệp cho nên các thành viên trong từng hộ gia đình cũng như các gia đình chăn nuôi gà đồi phải làm nhiều nghề để tăng thu nhập. Qua kết quả điều tra ở các hộ có chăn nuôi gà đồi thấy rằng chỉ có trên 34,29% tương đương với 24 hộ là số hộ kiêm thêm ngành nghề khác, còn chủ yếu là thuần nông và chiếm tỷ lệ 65,71%, đương đương 46 hộ ,các hộ nông dân xem trồng trọt và chăn nuôi là nghề chính, ổn định hơn, đặc biêt là chăn nuôi gà đồi thể hiện qua bảng sau:

Bảng 4.5 Đặc thù của các nông hộ


Nghề nghiệp chính

Số lượng (hộ)

Tỷ lệ (%)

Hộ thuần nông

46

65,71

Hộ kiêm ngành nghề

24

34,29

Tổng số

70

100

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, 2010)

+ Vấn đề sử dụng lao động trong nông hộ: Qua quá trình điều tra cho thấy, số lao động tham gia chăn nuôi đồi chiếm khoảng 75% tổng số lao động của nông hộ. Trong đó có 61,86% lao động là nam và 38,14% lao động là nữ, số lao động nữ chăn nuôi gà đồi. Số lao động còn lại trong hộ tham gia vào các hoạt động khác như trồng trọt, chăn nuôi khác, buôn bán.



* Kinh nghiệm chăn nuôi gà đồi của chủ hộ

Số năm kinh nghiệm của chủ hộ thể hiện qua số năm đã chăn nuôi gà đồi. Kết quả điều tra như sau:



Bảng 4.6 Số năm kinh nghiệm của các chủ hộ

Số năm kinh nghiệm

SL (người)

Tỷ lệ (%)

2- 5

44

62,86

6- 9

18

25,71

10

8

11,43

Tổng số

70

100


(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, 2010)

Kết quả cho thấy chỉ có 11,43% số chủ hộ có 10 năm kinh nghiệm và 25,71% số chủ hộ có 6 - 9 năm kinh nghiệm. Số chủ hộ còn lại chiếm 62,86% có dưới 5 năm kinh nghiệm chăn nuôi gà đồi. Điều này chứng tỏ nghề nuôi gà đồi tại địa phương là một nghề đã có từ lâu nhưng gần đây phong trào đầu tư lớn mới trở nên mạnh mẽ. Số năm kinh nghiệm cũng ảnh hưởng đến kết quả chăn nuôi của nông hộ.



* Trình độ văn hóa

Trình độ văn hóa giáo dục thể hiện khả năng tiếp thu kiến thức chăn nuôi gà đồi tiến bộ vào thực tế sản xuất. Đặc biệt, trình độ của các chủ hộ đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý các thay đổi xảy ra đối với các đàn gà của mình.

Theo kết quả điều tra cho thấy thì các hộ nuôi đa phần có trình độ văn hóa thấp. Các hộ có trình độ văn hóa cấp 1 và cấp 2 chiếm 80%, có trình độ cấp 3 chỉ chiếm có 18,57% số chủ hộ trong tổng số điều tra. Kết quả điều tra về trình độ văn hóa của chủ hộ được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 4.7 Trình độ văn hóa của chủ hộ


Trình độ học

vấn chủ hộ

SL (người)

Tỷ lệ (%)

Cấp 1

36

51,43

Cấp 2

21

30,0

Cấp 3

13

18,57

Tổng số

70

100

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, 2010)

Ngoài ra, số lao động không có bằng cấp chiếm 97 %, trong đó 3% chủ hộ có trình độ trung cấp, sơ cấp. Theo điều tra cho hầu hết các hộ đều được đào tạo qua các lớp tập huấn (chiếm 75 %) và dựa vào kinh nghiệm bản thân để chăn nuôi gà đồi.

4.2.2. Thông tin về tình hình phát triển chăn nuôi gà đồi của các hộ điều tra

4.2.2.1 Quy mô chăn nuôi gà đồi của các hộ điều tra

Bảng 4.8 Qui mô chăn nuôi gà đồi của hộ ( 1 hộ chăn nuôi)


Qui mô

SL (hộ)

Tỷ lệ

Qui mô nhỏ (200 - dưới 2000 con)

18

25,71

Qui mô vừa (2000 - 6000 con)

30

42,86

Qui mô lớn ( > 6000 con)

22

31,43

Tổng số

70

100

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, 2010)

Chúng tôi phân tổ các hộ nông dân chăn nuôi gà đồi như sau: 25,71% các hộ thuộc quy mô nhỏ, là các hộ có số gà nuôi từ 200 đến dưới 2000 con trong một năm; các hộ nuôi từ 2000 đến 6000 con thuộc nhóm quy mô vừa, chiếm 42,86%, còn lai các hộ nuôi nhiều trên 6000 con thuộc quy mô lớn. Qua bảng 4.8 ta nhận thấy, quy mô nuôi gà đồi của các hộ khá chênh lệch, hộ nuôi ít nhất là 200 con/năm, hộ nuôi nhiều nhất trên 6000 con/năm. Số gà chúng tôi điều tra phân tổ quy mô trong đề tài là gà nuôi lấy thịt.



4.2.2.2 Giống gà nuôi của các hộ chăn nuôi gà đồi

Bảng 4.8 Giống gà nuôi của các hộ chăn nuôi gà đồi


Giống gà

SL (hộ)

Tỷ lệ(%)

Gà lai

54

76,87

Gà ta

16

23,13

Tổng số

70

100

(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra, 2010)

Trong chăn nuôi gà đồi Yên Thế hiện nay các hộ nông dân chủ yếu nuôi các giống gà ta (gà địa phương) và gà lai giữa giống địa phương với một số giống như Lương Phượng, Tam Hoàng. Trước đây người dân Yên Thế thường chỉ nuôi giống gà ta, giống gà lai khó bán và tiêu tốn nhiều thức ăn, nhưng vài năm trở lại đây, các hộ chuyển sang nuôi gà lai cho năng suất cao, chất lượng thịt tốt, vóc dáng tương đối giống gà ta, trọng lượng khi xuất chuồng khoảng 1,95 kg đến 2,2 kg trong khi gà ta chỉ đạt 1,7kg đến 2 k, thời gian nuôi kéo dài. Dần dần giống gà lai đã trở nên phổ biến với các hộ nông dân Yên Thế,mang lại hiệu quả kinh tế cao cho họ. Qua bảng 4.8 ta thấy, tỷ lệ các hộ nuôi giống gà lai và và ta là:76,87% và 23,13%. Những hộ thuần nông, thuộc quy mô vừa và quy mô lớn sử dụng giống gà lai là chủ yếu, các hộ kiêm ngành nghề và nuôi nhỏ lẻ thường hay sử dụng giống gà ta.



4.2.2.4 Phương thức chăn nuôi gà đồi của huyện Yên Thế.

Chăn nuôi gà đồi là phương thức chăn nuôi bán công nghiệp, mức độ đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật không lớn đến mức như chăn nuôi theo quy mô công nghiệp. Nguồn thức ăn chủ yếu sử dụng cho chăn nuôi gà là kết hợp cám công nghiệp với các loại thức ăn khác chứ không hoàn toàn là cám công nghiệp ăn thẳng nên cần một số máy móc để phục vụ cho chăn nuôi như máy nghiền, phối trộn thức ăn, máy phát điện. .

Tại huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang, phải đến 98% số hộ nông dân chăn nuôi gà theo phương thức nuôi bán công nghiệp (gà đồi). Gà nuôi được cho ăn thẳng và nhốt vào chuồng úm trong vòng một tháng, sau đó được cho thả vườn đồi và cho ăn thức ăn tự phối trộn là cám đậm đặc trộn với ngô nghiền cho tới khi xuất bán. Phương thức chăn nuôi này đã trở nên rất phổ biến tại các xã trên địa bàn huyện Yên Thế dần thay thế cho hình thức chăn nuôi nhỏ lẻ, tận dụng truyền thống trước đây

4.2.2.5 Điều kiện sản xuất của các nhóm hộ điều tra

Điều kiện sản xuất của các nhóm hộ điều tra là diện tích vườn, đồi mà các hộ có thể chăn nuôi gà đồi, các tài sản, công cụ phục vụ cho chăn nuôi gà như chuồng trại, máy nghiền, máng ăn uống, lưới quây,…

Diện tích đất vườn đồi có thể phát triển chăn nuôi gà đồi của huyện rất lớn, bình quân là 2.364,6 m2. Những hộ nuôi ở quy mô vừa và quy mô lớn có nhiều diện tích đất để phát triển chăn nuôi gà đồi hơn những hộ thuộc quy mô nhỏ. l 2250,0 m2 của nhóm hộ quy mô nhỏ, 2145,0 m2 của nhóm hộ quy mô vừa, và 2690,0 m2 của nhóm hộ quy mô lớn. các hộ ở quy mô nhỏ thường không sử dụng hết diện tích vườn đồi để phát triển chăn nuôi gà đồi, mà chỉ quây lại một phần diện tích đất sử dụng. Còn những hộ nuôi gà đồi quy mô lớn hầu như sử dụng triệt để. Phần đất có khả năng chăn nuôi được các hộ chia làm nhiều khác nhau để luân phiên nuôi các lứa gà, tránh để tình trạng ô nhiễm môi trường do nuôi nối tiếp các lứa gà trên cùng một diện tích đất chăn thả.

Về tài sản phục vụ cho chăn nuôi gà đồi không quá phức tạp vì hộ nông dân có thể lợi dụng được diện tích vườn đồi để chăn thả. Chuồng trại, máng ăn uống, lưới quây là tài sản cần thiết nhất cho chăn nuôi gà đồi cho nên 100% các hộ chăn nuôi đều có. Tài sản có giá trị lớn hơn như máy nghiền thức ăn chăn nuôi chủ yếu được các hộ chăn nuôi có quy mô lớn, các hộ thuần nông sử dụng để tiết kiệm chi phí, thời gian, chủ động hơn trong cung cấp thức ăn chăn nuôi. Trong 70 hộ nông dân nuôi gà đã điều tra, hơn 90% số hộ có loại tài sản này thuộc các hộ quy mô lớn, các hộ quy mô vừa có 65% số hộ và có 48% hộ chăn nuôi quy mô nhỏ có máy nghiền thức ăn. Các hộ mua máy nghiền dùng cho chăn nuôi gà đều cho rằng việc sử dụng máy nghiền giảm bớt chi phí cho chế biến thức ăn và công đem đi nghiền thuê vì giá trị một máy nghiền bình quân 4 tr.đ có thể sử dụng cho 5 - 6 năm, nếu nuôi 4 lứa gà 1000 con thì chỉ mất nhiều nhất 500.000đ tiền khấu hao, trong khi nếu thuê nghiền bên ngoài thì phải mất đến 700.000đ tiền công nghiền chưa kể công vận chuyển đến trại.

Máy phát điện sử dụng cho thời kỳ úm gà con nếu mất điện cũng đã được đầu tư ở nhiều hộ, giá trị bình quân 6 tr.đ/máy. Do mức độ quan trọng của tài sản này chưa thật sự cấp thiết nên ít hộ chăn nuôi đầu tư cho loại tài sản này.

Tài sản, cung cụ sử dụng cho chăn nuôi gà đồi được sử dụng trong nhiều năm, hộ càng chăn nuôi quy mô lớn, và những hộ thuần nông chăn nuôi gà đồi mang lại thu nhập chính cho họ đã đầu tư đầy đủ về chuồng trại, máy móc,… hơn những hộ thuộc nhóm hộ khác. Điều này cho thấy nhận thức của hộ trong chăn nuôi gà đồi có sự khác biệt giữa các nhóm hộ. Những nhóm hộ đầu tư đủ tài sản chăn nuôi gà đồi đã góp phần đáng kể vào sự phát triển trong chăn nuôi gà đồi của huyện, sự phát triển về quy mô và tiến bộ KHKT.



4.2.2.2 Nguồn cung cấp thức ăn, giống, vốn và thuốc thú y

Trong sản xuất, đặc biệt là trong chăn nuôi, đầu vào đóng một vai trò vô cùng quan trọng, nó cùng với kỹ thuật và các yếu tố khác quyết định chất lượng sản phẩm cuối cùng. Để phát triển chăn chăn nuôi gà đồi theo hướng hàng hoá thì việc xác định mối liên kết giữa người chăn nuôi với các đối tác cung cấp đầu vào là hết sức cần thiết. Các đầu vào trong chăn nuôi gà như: giống, thức ăn công nghiệp, thức ăn khác, dịch vụ thú y, thuốc thú y, tín dụng. Trong thực tế, sự phát triển chăn nuôi gà đồi cần phải được thể hiện sự liên kết giữa người chăn nuôi và đối tác cung cấp đầu vào là sự trao đổi, mua bán thường xuyên giữa người chăn nuôi và đối tác cung cấp, loại đối tác cung cấp đầu vào.

Theo kết quả điều tra các hộ chăn nuôi gà đồi ở huyện Yên Thế, hiện nay đã có 65,62% (45/70 hộ) tổng số hộ chăn nuôi mua con giống từ một nguồn cố định và giữ mối quan hệ này trong quá trình chăn nuôi. Số hộ còn lại không có mối quan hệ mật thiết gì với người sản xuất con giống, nơi nào bán con giống tốt hơn thì họ mua khi được người cùng nuôi giới thiệu.




Nguồn: tổng hợp số liệu điều tra, 2011-05-17

Hình 4.2: tỷ lệ hộ mua con giống từ nguồn cố định

Nguồn cung cấp con giống phục vụ cho chăn nuôi gà tại huyện Yên Thế gồm những lò ấp của địa phương và những cơ sở cung cấp con giống ở các địa phương khác lân cận như huyện Tân Yên, huyện Phú Bình của tỉnh Thái Nguyên, huyện Hiệp Hòa,...Trứng giống được thu mua từ nhiều nơi khác nhau nên chất lượng con giống không đồng đều, ảnh hưởng đến chất lượng và độ đồng đều của sản phẩm, có thể còn là nguồn lây lan dịch bệnh cho đàn gà của địa phương. Một số cơ sở cung cấp con giống mới thành lập, chỉ được một vài lứa cung cấp giống tốt để lấy khách hàng, sau một thời gian chất lượng con giống giảm dần, không đạt tiêu chuẩn mà chính cơ sở ấp trứng đó đưa ra.

Tỷ lệ hộ mua con giống từ nguồn cố định được thể hiện qua hình 4.2: xét theo quy mô, nhóm hộ chăn nuôi ở quy mô nhỏ là lớn nhất, chiếm tỷ lệ 72,22.% tổng số hộ tham gia. Có 63,63% số hộ ở quy mô vừa và 63,33.% hộ chăn nuôi ở quy mô lớn mua con giống ở nguồn cung cấp cố định; xét theo đặc thù hộ nuôi, có 60,04% số hộ thuần nông và 70,07% số hộ kiêm ngành nghề mua từ nguồn giống cố định; xét theo giống gà thì tỷ lệ hộ nuôi gà lai sử dụng nguồn giống cố định cao hơn hộ nuôi gà ta. Tỷ lệ đó là: 66,67% và 62,08%.

* Sử dụng thức ăn nước uống trong chăn nuôi gà đồi

Trong chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gà đồi nói riêng thức ăn luôn chiếm một tỷ lệ rất lớn trong gía thành sản phẩm. Mức độ quan hệ thường xuyên trong mua bán thức ăn chăn nuôi (TACN) của người chăn nuôi với người cung cấp TACN cũng thể hiện sự liên kết, đảm bảo lợi ích cho cả hai bên mua và bán.

Quy mô chăn nuôi của địa phương thường lớn, lượng tiêu thụ TACN là khá cao.




Hình 4.3: Tỷ lệ hộ mua thức ăn chăn nuôi công nghiệp từ nguồn cố định

Tuy nhiên số hộ chăn nuôi gà đồi mua thức ăn công nghiệp từ một nguồn cung cấp cố định chỉ chiếm 80%, cụ thể ở hình 4.3, tỷ lệ số hộ chăn nuôi gà đồi của các nhóm hộ theo quy mô nhỏ, quy mô vừa và quy mô lớn lần lượt là: 61,11%; 83,33% và 90,91%. Các hộ ở quy mô nhỏ không có sự gắn kết chặt chẽ với các nhà cung cấp TACN, vì họ chưa có nhiều kinh nghiệm trong chăn nuôi gà đồi. Thức ăn mà họ mua để sử dụng cho chăn nuôi gà đồi nhóm hộ quy mô nhỏ thường rẻ tiền, chất lượng thấp hơn ở nhóm hộ quy mô vừa và quy mô lớn.

Xét về nhóm hộ thuần nông và nhóm hộ kiêm ngành nghề, nhóm hộ thuần nông sử dụng thức ăn công nghiệp từ nguồn cung cấp cố định lớn hơn nhóm hộ kiêm ngành nghề, cụ thể là các tỷ lệ đó lần lượt là : 84,78%;70,84%.

Xét về nhóm hộ nuôi giống gà lai và giống gà ta, tỷ lệ hộ giống gà lai mua từ nguồn cung cấp cố định lớn hơn hộ nuôi giống gà ta, các tỷ lệ đó là: 81,48% và 75%.

Qua tình hình liên kết với các tác nhân cung cấp TACN công nghiệp, có thể nhận thấy người chăn nuôi đã phần nào có mối liên kết với các tác nhân này. Tuy nhiên chủ yếu là họ liên kết với những tác nhân trung gian là các đại lý chứ chưa đặt mối quan hệ bền vững với công ty sản xuất TACN để giảm gía thành sản phẩm. Để phát triển chăn nuôi gà đồi, các hộ nông dân cần tìm hiểu kỹ nguồn thức ăn tốt để đảm bảo năng suất và chất lượng đàn gà của họ.

* Sử dụng chất độn chuồng, chất khử trùng và các loại thức ăn khác

Chất độn chuồng là trấu được sử dụng trong 100% số hộ chăn nuôi, ngoài ra hộ có thể sử dụng rơm rạ, mùn cưa, phoi bào, vỏ lạc,...để làm giảm độ ẩm và giữ nhiệt cho chuồng nuôi vì gà con có yêu cầu về nhiệt độ, độ ẩm rất khắt khe.

Vôi bột và thuốc khử trùng được sử dụng thường xuyên, thuốc sát trùng được phun liên tục 3 đến 4 lần trong một tháng, dọn vệ sinh cơ học 4 lần/tháng và rắc vôi bột chuồng nuôi, vườn nuôi trước khi nuôi gà đồi.

Các hộ chăn nuôi gà đồi tại các xã điều tra đã chú ý và thực hiện đầy đủ công tác vệ sinh, khử trùng chuồng trại trước khi chăn nuôi. Tuy nhiên các hộ chăn nuôi mà hầu hết là các nhóm hộ chăn nuôi quy mô nhỏ, kiêm ngành nghề chưa tuân thủ quy trình kỹ thuật, còn vội vàng, chủ quan làm cho điều kiện phòng dịch bệnh các hộ chưa được đảm bảo, ảnh hưởng đến hiệu quả và kết quả chăn nuôi gà đồi của hộ.

Chăn nuôi gà đồi là phương thức chăn nuôi không hoàn toàn chỉ cho gà ăn thức ăn công nghiệp mà còn có thêm các loại thức ăn khác như ngô, cám gạo, cám mạch,...Có hơn 40% các hộ mua các loại thức ăn này từ nguồn cung cấp thức ăn cố định. Nguồn cung cấp các loại thức ăn này chủ yếu là người bán lẻ và một số đại lý cám. Các hộ chăn nuôi ở quy mô vừa và quy mô lớn, những hộ thuần nông, nuôi gà lai chủ yếu liên kết với một vài thương lái chuyên thu mua ngô từ những vùng khác để cung cấp ngô hạt cho các hộ chăn nuôi cho nên giá mua ngô hạt của các hộ này rẻ hơn các hộ chăn nuôi khác từ 200 đến 400 đồng/kg ngô hạt. Chính vì thế có thời kỳ ngô hạt trở nên khan hiếm, nhiều người chăn nuôi phải mua với giá cao hoặc không có nhiều ngô để mua nhưng họ vẫn đảm bảo thức ăn loại này cho đàn gà của họ với giá thỏa thuận với các lái buôn thu ngô. Khi liên kết với người cung cấp các loại thức ăn khác cho chăn nuôi gà đồi thì người chăn nuôi và người mua đều thỏa thuận đối tác theo hình thức hợp đồng miệng, dựa trên mối quan hệ sẵn có và lòng tin tường giữa hai bên.

* Sử dụng thuốc thú y và phòng bệnh trong chăn nuôi gà đồi

Dịch bệnh rất dễ bị sảy ra với đàn gà nếu không phòng bệnh kịp thời cho đàn gà. Thuốc và dịch vụ thú y là yếu tố không thể thiếu trong chăn nuôi gà đồi, đặc biệt là trong điều kiện dịch bệnh rất phức tạp như hiện nay. Sự liên kết với các đối tượng cung cấp thuốc, dịch vụ thuốc thú y giúp cho người chăn nuôi yên tâm đầu tư, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh gây ra.






Hình 4.4: Tỷ lệ hộ sử dụng dịch vụ thú y từ nguồn cố định

Qua điều tra cho thấy,quan hệ giữa người chăn nuôi và các đối tượng cung cấp dịch vụ thú y chưa ở mức độ chặt chẽ. Bình quân chỉ có 54,29% tổng số hộ chăn nuôi mua thuốc thú y từ nguồn cung cấp cố định. Trong đó ít nhất là nhóm hộ chăn nuôi ở quy mô nhỏ chỉ có 44,23%, tỷ lệ hộ quy mô lớn và quy mô vừa lần lựơt là : 60%; 54,55%. Xét theo đặc thù hộ nuôi,nhóm hộ kiêm ngành nghề có tỷ lệ ít hơn nhóm hộ thuần nông cụ thể là 56,52% và 50,02%. Theo giống gà hộ nuôi gà lai cao hơộ nuôi gà ta, 55,56% và 50%.

Nguồn cung cấp dịch vụ thú y cho người chăn nuôi gà đồi tại địa phương chủ yếu là các đại lý và người bán lẻ tại địa phương. Các hộ chưa có lòng tin với người cung cấp dịch vụ thuốc thú y vì chất lượng dịch vụ thú y chưa được đảm bảo. Đa phần các hộ chăn nuôi khi đi mua thuốc và sử dụng dịch vụ thú y theo sự giới thiệu của những người đã mua trước đó, nếu không thấy tốt họ tự chuyển sang cơ sở khác. Mặt khác, các cơ sở kinh doanh thuốc và dịch vụ thuốc thú y rất nhiều trên địa bàn huyện nên người chăn nuôi có nhiều lựa chọn khi sử dụng dịch vụ này.

Chất lượng dịch vụ của hệ hống thú y chưa cao, người chăn nuôi gà đồi Yên Thế khó có thể liên kết chặt chẽ với một đối tác cung cấp dịch vụ nàymột cách cố định. Những người bán thuốc và dịch vụ thú y vì lý do này cũng khó có thể tạo mối quan hệ bền vững với người chăn nuôi gà địa phương mặc dù nhu cầu về dịch vụ này là rất lớn và thường xuyên

Gà cũng như một số loại gia cầm khác, mấy năm gần đây tình hình dịch bệnh hết sức phức tạp. Để góp phần phát triển chăn nuôi gà một cách bền vững, thì dịch vụ thuốc thú y cần được địa phương trú trọng sao cho có hiệu quả hơn.

* Cung cấp dịch vụ tín dụng, nguồn vốn cho chăn nuôi gà vườn đồi

Vốn đầu tư là yếu tố đầu vào đầu tiên quyết định quá trình chăn nuôi gà đồi của hộ.có nguồn vốn tốt hộ chăn nuôi sẽ đầu tư tốt các yếu tố đầu vào mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi.

Huyện Yên Thế hiện nay chưa có sự đầu tư tín dụng một cách chính thức. Hầu hết các hộ chăn nuôi đều phải sử dụng vốn vay trừ một số hộ khá, có điều kiện kinh tế hoặc đã chăn nuôi lâu năm có khả năng quay vòng vốn. Thông thường lượng vốn vay của mỗi hộ được hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau, theo nhiều kênh vay vốn.




Hình 4.5 Tỷ lệ hộ sử dụng nguồn vốn qua các kênh vay vốn

Theo kết quả điều tra hộ chăn nuôi gà đồi, có trên 90% tổng số hộ chăn nuôi có tiếp cận dịch vụ tín dụng trong đó các hộ vay từ ngân hàng khoảng 42,79%, còn lại 47,3% từ các nguồn vay khác.



4.2.2.3 Quy mô, năng suất, sản lượng sản phẩm của các nhóm hộ chăn nuôi

* Nhóm hộ chăn nuôi gà đồi theo quy mô

Để đánh giá được một cách chính xác về các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật chúng tôi tiến hành điều tra 70 hộ có chăn nuôi gà đồi với các quy mô chăn nuôi khác nhau được thể hiện qua bảng 4.9




tải về 1.16 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương