Chuyên ngành : cndvbc & cndvls



tải về 236.19 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu10.04.2018
Kích236.19 Kb.
#36883
  1   2   3
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN



KHOA TRIẾT HỌC

TRẦN VIỆT HÀ


AN NINH CỦA XÃ HỘI DÂN SỰ

TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA
Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS

Mã số : 62.22.03.02


TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2014

Công trình được hoàn thành tại: Khoa Triết học - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN.


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHẠM THÁI VIỆT

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp Đại học Quốc gia chấm luận án tiến sĩ họp tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

Vào hồi............... ngày.............. tháng................. năm...........................

Có thể tìm hiểu luận án tại:

- Thư viện Quốc gia Việt Nam

- Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội



MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay, toàn cầu hoá là tác nhân khiến đời sống kinh tế, chính trị, an ninh... của các nhà nước - dân tộc trở nên tương thuộc vào nhau hơn bao giờ hết. Xã hội dân sự là một thực thể tồn tại độc lập trong các xã hội cũng không là ngoại lệ.

Dưới tác động của toàn cầu hoá, xã hội dân sự của nhiều nước trên thế giới đang trải qua những biến động lớn. Một trong những đặc trưng mà toàn cầu hóa đang gây ra là tính chất xuyên biên giới. Theo đó, quan niệm về lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, về một XHDS trong khuôn khổ lãnh thổ quốc gia - hiện đang gặp phải những thách thức đáng kể, khi các đường biên đang bị “bào mòn” và “đục thủng”.

Xu hướng phát triển của "biên giới mềm", "không gian ảo", "đời sống xuyên quốc gia", "các tác nhân xuyên biên giới"... đang làm cho cấu trúc của XHDS trong vòng tay nhà nước dân tộc (nation-state) bị biến dạng.

Việc biến dạng cấu trúc XHDS dẫn đến những rủi ro (mà trước đó chưa hề có, hoặc chưa phát lộ rõ ràng) trở nên đáng kể và trầm trọng. Đối mặt với những rủi ro mới này, các giải pháp an ninh truyền thống mà các quốc gia vẫn từng áp dụng đã trở nên kém hiệu quả; đòi hỏi phải có sự thay đổi về nhận thức cũng như hành động - tương ứng với sự biến đổi của hiện thực XHDS.

Vậy xu thế biến đổi chung của các XHDS hiện nay là gì? Đâu là những bất ổn, rủi ro, tính bất định... của nó dưới tác động của toàn cầu hóa? Chỉ khi có được nhận thức về những vấn đề nói trên, các quốc gia mới có thể đưa ra những đối sách an ninh thích hợp nhằm đảm bảo sự ổn định của XHDS.

Hiện nay không thể phủ nhận sự thật là: Vấn đề an ninh của các nhà nước - dân tộc cũng đang có những sự biến đổi nhất định, cấu trúc của các XHDS đang bị thay đổi dưới tác động của thị trường tự do và của quá trình quốc tế hoá các chuẩn mực chung.

An ninh của các nhà nước hiện nay đang được mở rộng bởi những tác nhân phi nhà nước. Bởi vậy, đảm bảo an ninh quốc gia nhưng đồng thời cũng là đảm bảo an ninh con người - đảm bảo những giá trị “cốt lõi của cuộc sống” và “cực kỳ quan trọng”. Đảm bảo an ninh con người nghĩa là cần tạo ra hệ thống các điều kiện, môi trường, phương thức để con người lao động, cải tạo xã hội một cách tự giác và là nơi con người thoả mãn những chân giá trị. Như vậy, an ninh con người về căn bản liên quan đến trao quyền cho con người và cộng đồng để đưa ra những lựa chọn đầy đủ thông tin và đáp ứng khả năng tiềm ẩn của họ. Theo phương pháp tiếp cận này, Nhà nước giữ vị trí là bên cung cấp an ninh chính, người dân phải là những người tham gia tích cực nhất trong việc quyết định hạnh phúc và sự an toàn của mình.



Bởi vậy, xu hướng tiến triển an ninh của XHDS trong toàn cầu hóa rất đáng được quan tâm nghiên cứu, nhất là khi quá trình hội nhập vào đời sống quốc tế của Việt Nam ngày càng trở nên sâu rộng hơn.

Xét ở chiều cạnh an ninh, hàng loạt vấn đề đang được đặt ra, cụ thể như: liệu có xuất hiện những rủi ro khó lường tính và kiểm soát, do những tác động xuyên biên giới gây ra? Liệu các XHDS có kịp thích nghi trước những biến đổi và sự xáo trộn cấu trúc? Liệu mối quan hệ giữa người dân và nhà nước của họ có thay đổi? Và nếu có thì thay đổi diễn ra theo chiều hướng nào? Từ đó, an ninh XHDS của các nước cần phải chuyển biến như thế nào để giải quyết những vấn đề bất ổn và rủi ro hiện nay - một cách hiệu quả?... Những vấn đề thuộc loại như vậy, trên thực tế, hiện đang thu hút được sự quan tâm sâu sắc từ giới nghiên cứu cũng như giới chính khách trong cũng như ngoài nước.



Xuất hiện sự cần thiết phải đi sâu nghiên cứu để làm rõ các hiệu ứng do toàn cầu hóa mang lại cho an ninh của XHDS; cũng như các đối án tương thích nhằm ứng phó với sự biến dạng hay mất kiểm soát của XHDS trước những tác động ấy nhằm đem lại mục tiêu tối thượng, cuối cùng đó là vì an ninh cho cá nhân - con người trong mỗi cộng đồng ấy.

Chỉ có trên cơ sở nhận thức thấu đáo về những biến đổi của XHDS trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, chính phủ của các nước mới có cơ sở đề ra những giải pháp thích hợp nhằm duy trì trạng thái ổn định, hòa bình, phúc lợi (tức là duy trì an ninh) của XHDS trong phạm vi lãnh thổ của mình.

Với những lý do nêu trên, đề tài “An ninh của xã hội dân sự trong bối cảnh toàn cầu hóa” đã chứng tỏ là một đối tượng nghiên cứu cần thiết và có ý nghĩa, không chỉ xét trên phương diện lý luận mà còn cả thực tiễn.

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án

- Mục đích của luận án là:

Làm rõ những nội dung mới của "An ninh của xã hội dân sự" trong bối cảnh toàn cầu hóa; trên cơ sở đó, rút ra những khuyến nghị thích hợp cho việc bảo đảm an ninh của XHDS ở nước ta hiện nay.



- Nhiệm vụ của luận án là:

+ Làm rõ các khái niệm cơ bản như: “an ninh”, “toàn cầu hóa”, “an ninh của xã hội dân sự”...

+ Phân tích những hướng biến đổi lớn của an ninh XHDS trong toàn cầu hoá.

+ Phân tích "những rủi ro" - hệ quả của những tác động nói trên, khi coi chúng như những thách thức mới đối với quan điểm truyền thống về an ninh của XHDS.

+ Luận chứng cho nhu cầu nhận thức mới về an ninh của XHDS - quan điểm về "an ninh của xã hội dân sự" thông qua việc phân tích một số thực tiễn tiêu biểu như: Canada, Brazil.

+ Rút ra bài học tham khảo và các khuyến nghị đối với việc xây dựng XHDS góp phần bảo đảm an ninh con người của chúng ta hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

- Đối tượng nghiên cứu:

An ninh của XHDS và tập trung vào những biến đổi mang tính rủi ro, mất kiểm soát của XHDS, dưới tác động của toàn cầu hóa.



- Phạm vi nghiên cứu:

Giới hạn nghiên cứu trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, cùng với giới hạn việc phân tích ở một số trường hợp tiêu biểu như: Canada, Brazil nhằm luận chứng cho việc kiểm soát an ninh của các tổ chức XHDS ở hai quốc gia này để đảm bảo an ninh con người nói chung, an ninh của XHDS nói riêng.



4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận án

- Cơ sở lý luận:

Luận án vận dụng cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các định hướng trong chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.



- Phương pháp nghiên cứu:

Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mácxít, kết hợp với các phương pháp phân tích - tổng hợp, lôgic - lịch sử và các phương pháp khác. Luận án cũng sử dụng một số phương pháp phù hợp với đối tượng nghiên cứu như: Phương pháp phân tích tài liệu, nghiên cứu trường hợp, phân tích định tính và định lượng,... Đồng thời, có kế thừa các kết quả, công trình nghiên cứu về vấn đề này của các tác giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.



5. Đóng góp của luận án

- Hệ thống hóa và làm rõ nội hàm các khái niệm: “Xã hội dân sự”, “An ninh”, “An ninh của xã hội dân sự”, “Toàn cầu hóa”.

- Chứng minh rằng, bên cạnh những tác động tích cực, toàn cầu hóa cũng gây ra tác động tiêu cực đối với XHDS. Hệ quả của những tác động này tồn tại dưới dạng các yếu tố "bất định" và "rủi ro".

- Khẳng định những yếu tố "bất định" và "rủi ro" nói trên là những thách thức mới đối với an ninh của XHDS; từ đó, luận chứng cho bước chuyển dịch cần thiết từ an ninh của XHDS "truyền thống" sang "phi truyền thống".

- Rút ra một số bài học nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động an ninh của XHDS trong quá trình hội nhập của Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án

Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy và nghiên cứu các vấn đề như: nhà nước, xã hội dân sự, an ninh của xã hội dân sự, toàn cầu hoá, phục vụ cho cán bộ hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực liên quan đến đề tài của luận án.



7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 11 tiết.



Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Trong những năm gần đây, xã hội dân sự là đối tượng được quan tâm đặc biệt trong các nghiên cứu của nhiều học giả, nhà khoa học, nhà quản lý và hoạch định chính sách ở cấp độ toàn cầu. Điều đó cho thấy tính vấn đề và sức “nóng” mà XHDS mang lại cho chính trị quốc tế nói chung, nền chính trị khu vực và của mỗi quốc gia nói riêng.

Nhất là những xung đột, bất ổn, bất định của đời sống quốc tế và những vấn đề liên quan đến XHDS trong những năm gần đây càng thúc đẩy sự quan tâm của các nhà khoa học.

Căn cứ vào mục đích và nội dung nghiên cứu, luận án phân chia các tài liệu có được thành 3 nội dung sau: Những công trình nghiên cứu về XHDS trong bối cảnh toàn cầu hóa; Những công trình nghiên cứu về rủi ro mà toàn cầu hóa gây ra cho XHDS; Những công trình nghiên cứu về an ninh toàn cầu.

1.1. Những công trình nghiên cứu về xã hội dân sự trong bối cảnh toàn cầu hóa

1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài

Tư tưởng về XHDS đã được đặt nền móng từ thời kỳ cổ đại với những triết gia tiêu biểu như Platon, Aristotle... Tư tưởng của hai ông được tiếp nối đến thời kỳ Trung cổ bởi các nhà thần học, triết học như: St.Augustine, Aquinas. Cho đến thời Khai Sáng và hiện đại, tư tưởng về XHDS được cụ thể hóa hơn trong các cách tiếp cận của các nhà tư tưởng như: Hobbes, J.Locke, Montesquieu, Jean-Jacques Rousseau, Hume, Kant, Machiavelli, Heghel, C.Mác, A.Tocqueville…

Từ Hume đến Kant, Hegel là một bước tiến dài trong cách tiếp cận và đưa ra định nghĩa về XHDS. Trong Các nguyên lý của triết học pháp quyền Hegel là người đầu tiên đưa ra định nghĩa về XHDS. Theo Hegel, xã hội dân sự là cấp độ của sự dị biệt giữa gia đình và nhà nước… ra đời sau Nhà nước và cần có nhà nước định hướng.

Ở một cách tiếp cận ngược lại với Hegel, Mác cho rằng XHDS là nơi để Nhà nước buộc phải điều chỉnh chức năng của nó.



Đến thời kỳ hiện đại, thời kỳ mà thế giới đang được làm phẳng (T.Friedmand) bởi các nhân tố cơ bản của toàn cầu hóa thì những nghiên cứu về XHDS lại nhấn mạnh đến vai trò, chức năng của XHDS đối với các nhà nước và cộng đồng.

Chịu sự tác động của toàn cầu hóa, XHDS nhận được cả hai mặt của một tấm mề đay: tích cực và tiêu cực. Các phân tích của giới học giả hiện đại cũng đi theo 2 đường hướng nói trên (phân tích mặt tích cực và tiêu cực do toàn cầu hóa đem lại cho XHDS).

Trước hết, phải kể đến những công trình nghiên cứu về những cơ sở lý thuyết và thực tiễn của XHDS như: Xã hội dân sự (1996) của C.M.Hann và Elizabeth Dunn; “Khám phá xã hội dân sự” (2004) của Marlies Glasius, David Lewis, Hakan Seckinelgin; Xã hội dân sự toàn cầu” (2005) của David Chandler. “Xã hội dân sự trong quá trình dân chủ hóa” của Peter Burnell và Peter Calvert (2004), “Xã hội dân sự và phát triển” của Jude Howell (2004)…



David C.Schak và Wayne Hudson trong cuốn sách “Xã hội dân sự ở Châu Á” đã tập trung nghiên cứu bản chất của XHDS ở một số nước Châu Á.

Liên quan đến vai trò của các NGOs trong XHDS, cuốn sách “Xã hội dân sự, toàn cầu hóa và sự thay đổi chính trị ở Châu Á” do Robert P Weller chủ biên cho thấy rằng, các viện sỹ và các nhà hoạch định chính sách quan tâm nhiều hơn đến việc các NGOs góp phần khuyến khích sự điều hành nhà nước tốt hơn, nhằm hướng tới một nền chính trị dân chủ và mục đích cuối cùng là một XHDS toàn cầu.

Mặc dù nội dung, phạm vi và các yếu tố cấu thành của XHDS hiện vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi, nhưng nhìn chung, xã hội dân sự được hình dung dưới dạng một khu vực “phi nhà nước”, bao gồm các liên hiệp, hiệp hội, hội, tổ chức cộng đồng, nhóm tình nguyện, tổ chức phi chính phủ,… thực hiện các chức năng, vai trò xã hội hoặc mục đích nghề nghiệp, từ thiện, nhân đạo… nhất định; hoạt động chủ yếu dựa trên tính tự chủ về tài chính, tự quản trong tổ chức quản lý và sự tự nguyện của các thành viên, hội viên với mục tiêu phi lợi nhuận, đa dạng về hình thức tổ chức, phong phú về mục tiêu cụ thể.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước

Ở Việt Nam, tư tưởng về XHDS còn khá mới mẻ và mới chỉ được bắt đầu vào những năm 90 của thế kỷ XX. Gần đây, đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về XHDS ở Việt Nam.

Các công trình chuyên sâu trong lĩnh vực này cần phải kể đến bao gồm: Quan hệ giữa nhà nước và xã hội dân sự Việt Nam lịch sử và hiện đại của GS.TS. Lê Văn Quang, TS. Văn Đức Thanh (Đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia (2003); Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay của TS. Thang Văn Phúc, TS. Nguyễn Minh Phương (Đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia (2007); Xã hội dân sự - Một số vấn đề chọn lọc của Vũ Duy Phú (Chủ biên), Đặng Ngọc Dinh, Trần Chí Đức, Nguyễn Vi Khải, Nxb Tri thức (2008), Xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam của GS.TS. Dương Xuân Ngọc, Nxb Chính trị - Hành chính (2009), Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam của GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, GS.TS. Hoàng Chí Bảo, PGS.TS. Bùi Đình Bôn (Đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia (2008)...

Cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến thảo luận xoay quanh thuật ngữ XHCD và XHDS. Trong các công trình nghiên cứu, có người dùng thuật ngữ XHCD, có người dùng thuật ngữ XHDS. Tuy nhiên, trong phần lớn các trường hợp, nội hàm của chúng được hiểu như tương tự nhau.

Trong những công trình nghiên cứu về XHDS của các học giả trong nước, đặc biệt phải kể đến những nghiên cứu sau:“Xã hội dân sự: Khái niệm và các vấn đề”, T/C Triết học (2) của tác giả Bùi Quang Dũng (2007), Lê Ngọc Hùng (2009) với Một số mô hình tiếp cận trong nghiên cứu xã hội dân sự, T/C Quản lý kinh tế (1+2), Trần Hữu Quang (2009) với "Một số quan niệm cổ điển về xã hội dân sự", Tạp chí Khoa học xã hội (số 07/131)đã thống kê được bốn nhóm quan niệm khác nhau về XHDS. Đây là căn cứ quan trọng để luận án tiếp cận và kế thừa để rút ra những dấu hiệu đặc trưng, bản chất khác của XHDS.

Trong Xã hội dân sự ở Việt Nam: Trách nhiệm và tiềm năng xã hội, Gerd Mutz đã tiếp cận XHDS từ góc độ xã hội học. Cách tiếp cận này đã mở lối cho một sự xem xét bao quát về XHDS từ các chiều cạnh của biến đổi xã hội cũng như từ các tiến trình của hội nhập xã hội.

Hướng nghiên cứu thứ hai về XHDS là mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền và XHDS. Trong đó phải kể đến các công trình: Quan hệ giữa Nhà nước và xã hội dân sự Việt Nam, lịch sử và hiện đại (2004) của Lê Văn Quang, Mối liên hệ giữa nhà nước với xã hội dân sự và vấn đề cải cách hành chính (2004) của Đào Trí Úc. Dương Xuân Ngọc trong Về cách tiếp cận xã hội dân sự và xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam (2006) đã khẳng định, từ những năm 90 của thế kỷ XX, trên phạm vi toàn cầu, vai trò của các tổ chức XHDS ngày càng được khẳng định. Học giả Cao Huy Thuần trong Xã hội dân sự? T/C Thời đại mới, số 3(2004) đã đi đến kết luận: không thể có XHCD nếu không có nhà nước ổn định, vững chắc.

Cho đến nay ở nước ta các công trình chuyên sâu phân tích nhằm đưa ra các giải pháp để XHDS tồn tại trong trạng thái ổn định, góp phần phát triển xã hội ít được đề cập. Đây chính là khoảng trống trong nghiên cứu về XHDS mà luận án sẽ tập trung khai thác.

1.2. Những công trình nghiên cứu về rủi ro của xã hội dân sự

1.2.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài

Ngay từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, thuật ngữ “Xã hội rủi ro” đã được đề cập trong các công trình nghiên cứu của Ulrich Beck. Beck cho rằng, trong thế giới đương đại, xã hội phải chịu những rủi ro do “nhân tai” dần thay thế cho rủi ro do “thiên tai”, như ô nhiễm hạt nhân và hóa chất.

Mặc dù Beck là tác giả của thuật ngữ “xã hội rủi ro”, song việc phân tích các “rủi ro” có liên quan rõ ràng hơn lại được thể hiện qua các nghiên cứu của Giddens (1990, 1991). Giddens lập luận rằng, bản chất của rủi ro đã thay đổi. Có một “toàn cầu hóa rủi ro”. Những rủi ro mới phát sinh từ bản chất của xã hội hiện đại: có nguy cơ bắt nguồn từ môi trường hay tính chất xã hội hóa: việc con người tác động vào môi trường và biến đổi môi trường dẫn đến nguy cơ “thể chế hóa cuộc sống của hàng triệu cơ hội” (ví dụ như thị trường đầu tư). Hơn nữa, còn tạo ra cả rủi ro trong phân phối xã hội.

1.2.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước

Ở tầm nghiên cứu vĩ mô, lý thuyết về “Rủi ro” còn khá mới mẻ đối với các học giả nghiên cứu trong nước hiện nay. Các công trình nghiên cứu về rủi ro chưa nhiều, hầu hết chỉ dừng lại ở các công trình nghiên cứu vi mô trong từng lĩnh vực cụ thể của hiện thực như: rủi ro tài chính, rủi ro ngân hàng, rủi ro xây dựng…



1.3. Những công trình nghiên cứu về an ninh toàn cầu

1.3.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài

Civil society and the security sector: concepts and practices in new democraties” (Xã hội dân sự và khu vực an ninh: Các khái niệm và thực tiễn trong những nền dân chủ mới) của tập thể tác giả: Front Cover, Marina Caparini, Philipp Fluri, (2006) tập trung phân tích vai trò của XHDS trong việc cải cách và giám sát của an ninh khu vực Trung và Đông Âu như một cách thức của quá trình chuyển đổi hướng tới dân chủ. 

Understanding Global Security” (Nhận thức về an ninh toàn cầu) của Peter Hough (2004) khẳng định, an ninh quốc tế đã một lần nữa trở thành một vấn đề quan trọng sau ngày 11 tháng Chín. Cuốn sách giới thiệu các vấn đề cốt lõi của bảo mật "cứng", và "mềm" đã nổi lên chiếm ưu thế trong cuộc chiến tranh lạnh.“International security: Problems and solutions” (An ninh quốc tế: Những vấn đề và những giải pháp) của Patrick M Morgan (2006) cho rằng: Bất chấp những nỗ lực to lớn để kết thúc, xung đột - có thể là chiến tranh giữa các quốc gia, bạo lực sắc tộc, nội chiến, hoặc hoạt động khủng bố.

Seeking security in an insecure World” (Tìm kiếm an ninh trong một thế giới không an ninh) của Dan CaldwellRobert E.Williams Rowman & Littlefield (2006) cho thấy, sự hiểu biết của chúng ta về an ninh đã thay đổi đáng kể kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh. Không còn là chiến tranh đe dọa bảo mật mà các quốc gia phải đối mặt. Cũng không phải là chiến tranh như những gì trước đây. Chương trình nghị sự an ninh ngày nay bao gồm các mối đe dọa của sự lây lan các bệnh truyền nhiễm; nó còn bao gồm sự nóng lên toàn cầu và tình trạng thiếu dầu; các cuộc nổi dậy dân tộc và tổ chức tội phạm xuyên quốc gia và, tất nhiên, một mạng lưới toàn cầu của các tổ chức khủng bố.

Human Security and International Insecurity” (An ninh con người và bất ổn quốc tế) của các giả Georg Frerks, Berma Klein Goldewijk cho rằng, an ninh con người hiển hiện trong thực tế hàng ngày của những cuộc xung đột bạo lực và nghèo đói, khủng hoảng nhân đạo, dịch bệnh, bất công và bất bình đẳng. Đó là sợ hãi mất tự do và mong muốn tự do. Nó bắt nguồn từ an ninh quốc gia quá nhấn mạnh vào lực lượng quân sự, lãnh thổ và chủ quyền. Còn an ninh con người đặt sự an toàn của cá nhân, cộng đồng và nhân loại toàn cầu trước những mối quan tâm an ninh của nhà nước, quốc gia.

New Perspectives on Human Security” (Những triển vọng mới về an ninh con người) của Malcolm McIntosh, Alan Hunter (2010). Cuốn sách này là minh chứng cho tính cấp thiết của an ninh con người như một ý tưởng, một cấu trúc hữu ích và là một chiến lược hoạt động cho các quốc gia. Mục đích là để giới thiệu hướng đi mới có thể làm phong phú thêm chương trình nghị sự về an ninh con người.

1.3.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước

Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu liên quan đến an ninh trong bối cảnh toàn cầu hóa về cơ bản thiếu vắng; không có những công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về những vấn đề rủi ro, nguy cơ, bệnh dịch, môi trường, chủ nghĩa khủng bố… trong sự tương tác toàn cầu hóa.

Việc nghiên cứu các vấn đề khác nhau của an ninh chủ yếu được đề cập trong một số bài viết đăng tải tản mạn trên các báo và tạp chí chuyên ngành trong và ngoài nước. Một số bài viết đáng chú ý là: Vũ Tuyết Loan về “An ninh phi truyền thống ở châu Á - Thái Bình Dương: vấn đề và giải pháp”, T/C Cộng sản số 23/2006; Nguyễn Xuân Yêm về “Đấu tranh chống maphia và tội phạm có tổ chức trên thế giới”, T/C Cộng sản số 19/2005; Nguyễn Hữu Dũng về “Mối quan hệ giữa chính sách xã hội và an ninh xã hội”, T/C Cảnh sát nhân dân số 8/1998; hay công trình của các nhà nghiên cứu Trung Quốc do Vương Dật Châu (chủ biên) về “An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hoá”, Nxb CTQG, HN 2004,.v.v..

Ở một phương diện khác, an ninh quốc gia được xem xét dưới các chiều kích như an ninh biên giới, quốc phòng, kinh tế, văn hóa, tôn giáo… có thể kể đến công trình như: nghiên cứu của Bộ Công an về “Đấu tranh chống hoạt động lợi dụng tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia - những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Hà Nội, 2011; đề tài cấp nhà nước KX.04-24/11-15 của Hội đồng lý luận TW và Bộ Công an về “Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới - quan điểm, nhận diện và khuyến nghị” (2013); hay nghiên cứu của Nguyễn Xuân Yêm về “An ninh kinh tế thời kỳ hội nhập và gia nhập WTO”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, của Nguyễn Văn Thắng về “Vấn đề an ninh, quốc phòng trong lĩnh vực tôn giáo, dân tộc”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001.



Kết luận chung

* Những công trình nghiên cứu nước ngoài

Thứ nhất, các công trình đã cho thấy sự phát triển tư tưởng về xã hội dân sự trong lịch sử tư tưởng chính trị phương Tây. Thuật ngữ XHDS dù còn nhiều tranh luận và còn tính vấn đề nhưng các nghiên cứu trên đã phần nào chỉ ra một số cách tiếp cận cơ bản của XHDS, từ khái niệm cũng như một số đặc điểm và tính chất hoạt động của XHDS.

Thứ hai, các nghiên cứu đã chỉ ra những rủi ro, nguy cơ khó lường của XHDS trong xu thế hiện nay.

Thứ ba, các nghiên cứu đã chỉ ra những vấn đề liên quan đến an ninh toàn cầu (của quốc gia và nhân loại) trên bình diện chung nhất.

*Những công trình nghiên cứu trong nước

Nhìn chung, qua các tác phẩm, các công trình khoa học liệt kê trên, cho thấy hai vấn đề sau chưa được giải quyết:

Một là, do điều kiện lịch sử hoặc giới hạn vấn đề nghiên cứu các công trình trên chưa đặt thực thể xã hội dân sự gắn liền với chất xúc tác (mà chất xúc tác này có thể làm thay đổi cả phẩm chất cấu thành XHDS) đó là toàn cầu hóa. Đặt trong xu thế toàn cầu hóa, sẽ thấy các dấu hiệu bản chất của XHDS liên tục bị “co dãn”, vì vậy các thiết chế, chính sách và phương thức quản lý XHDS phải được đa dạng hóa, nếu không muốn nó - XHDS phá vỡ cấu trúc, chức năng của nhà nước và ổn định xã hội.

Hai là, từ mối tương tác có tính toàn cầu giữa XHDS và toàn cầu hóa, các nghiên cứu trên chưa giải quyết một cách trực diện vấn đề an ninh của XHDS đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa. Từ đó cho thấy, nếu an ninh của XHDS được đảm bảo, thì sẽ góp phần đảm bảo quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi cá nhân, con người trong xã hội đó.

* Hướng nghiên cứu của luận án

Trong xu thế toàn cầu hóa, tính vấn đề mà XHDS mang lại cho các xã hội, nhà nước, quốc gia là không nhỏ; nó không chỉ tác động trong phạm vi của một lãnh thổ xác định mà là có tính xuyên quốc gia, trở nên có tính toàn cầu.

Đặc biệt, sự bất ổn của một thực thể nào trong phạm vi quốc gia, khu vực hay quốc tế đều đe doạ đến quyền tự do của con người (an ninh con người).

Thế giới đang được mở rộng, trong đó không chỉ có nhiều cơ hội hơn, mà nguy cơ và bất ổn, rủi ro và bất định cũng tăng lên theo cấp số nhân. Chính điều đó đã khiến cho an ninh của XHDS trong bối cảnh toàn cầu hóa trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.

Từ sự phân tích trên cho thấy cần thiết phải có những công trình nghiên cứu chuyên sâu nhằm chỉ ra những tác động của toàn cầu hoá làm gia tăng nhu cầu “an ninh của xã hội dân sự” trên bình diện lý luận chung; qua khảo sát kinh nghiệm của thực tiễn quốc tế - sẽ góp phần đáng kể vào việc xây dựng, củng cố và quản lý XHDS ở nước ta, nhằm đảm bảo an ninh con người và ổn định xã hội.

Để làm được việc này, luận án sẽ chỉ ra những dấu hiệu đặc trưng của XHDS và an ninh của XHDS. Làm rõ tác động hai chiều của toàn cầu hóa đến XHDS, từ đó chỉ ra những chiều kích an ninh của XHDS. Việc khảo sát kinh nghiệm quốc tế để rút ra bài học cũng là nhiệm vụ được thực hiện trong luận án.

Vì vậy, có thể khẳng định việc lựa chọn vấn đề “An ninh của xã hội dân sự trong bối cảnh toàn cầu hóa” làm đề tài nghiên cứu của luận án là không trùng lặp và có tính hữu ích.


Chương 2

XÃ HỘI DÂN SỰ VÀ AN NINH CỦA XÃ HỘI DÂN SỰ
2.1. Khái lược chung về xã hội dân sự và an ninh của xã hội dân sự

2.1.1. Khái lược chung về xã hội dân sự

2.1.1.1. Các quan điểm trong lịch sử về xã hội dân sự

Từ thời kỳ Cổ đến Trung đại, tư tưởng về xã hội của các học giả chính trị về cơ bản tập trung dưới dạng thức là những quan niệm về xã hội công dân hơn là XHDS. Đó là những quan niệm về vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa cộng đồng người có tư cách công dân đối với nhà nước/quốc gia (nation/state).

Nhờ những cứ luận trên đó mà các nhà Khai sáng đã đưa ra những quan niệm đầu tiên về XHDS là phạm vi liên quan đến cộng đồng cá nhân, con người mà không phải là phạm vi quan hệ giữa công dân với nhà nước/ quốc gia (XHCD).

Thời kỳ tiền Khai sáng với Thomas Hobbes (1588 - 1679) được coi là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ "xã hội dân sự" và ông phân biệt "xã hội dân sự" một mặt với tình trạng tự nhiên trong đó "mọi người chống lại mọi người", và mặt khác, với những xã hội tự nhiên mà Hobbes cho là được cấu tạo nên bởi các gia đình. Có thể thấy Hobbes đã đồng hóa XHDS với nhà nước/quốc gia.

John Locke (1632 - 1704) đi theo chiều hướng của Hobbes, cũng phân biệt giữa XHDS vốn là cái "được thiết lập", "được cấu tạo", với tình trạng tự nhiên vốn là nơi chứa đựng nhiều cái xấu. Tuy nhiên, Locke lại coi “mục tiêu chính yếu của xã hội dân sự là sự bảo toàn đối với sở hữu”.

Thời kỳ Khai sáng từ Montesquieu đến Rousseau và Alexis Tocqueville không chỉ là sự kế thừa, tiếp nối các quan điểm từ thời kỳ Cổ, Trung đại, tiền Khai sáng mà còn tiến lên một bước cao hơn, mở ra một thời kỳ mới cho mô hình tiếp cận theo thuyết tự do và tân tự do. Theo Montesquieu, xã hội dân sự bao trùm toàn bộ các lĩnh vực chính trị, kinh tế và những lĩnh vực khác của đời sống xã hội nằm ngoài thẩm quyền của Nhà thờ và một vài thiết chế đặc biệt, như quân đội hay những kẻ bị loại ra ngoài xã hội (những người phạm tội hình sự). Do vậy, tư tưởng của Montesquieu về xã hội dân sự là khác so với quan niệm hiện đại. Rousseau cho rằng con người cần phải có một khế ước hay một công ước xã hội khi con người đã thoát ra khỏi trạng thái tự nhiên như các động vật khác để trở thành con người dân sự trong xã hội. Công ước xã hội là một hình thức liên kết với nhau để dùng sức mạnh chung bảo vệ mọi thành viên.

Thời kỳ cận đại, Immanuel Kant nhấn mạnh xã hội dân sự là lĩnh vực của luật pháp, kể cả công pháp lẫn tư pháp. Ông cho rằng "xã hội dân sự [đảm bảo] cái của - tôi, cái của - anh, bằng các luật lệ nhà nước".



Каталог: userfile -> User -> long -> files
User -> CHÍnh phủ Số: 127/2015/NĐ-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
User -> BỘ CÔng thưƠng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
User -> Tuyên truyền tiết kiệM ĐIỆN 2011
User -> Căn cứ Bộ luật Lao động ngày 23 tháng 6 năm 1994 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động ngày 02 tháng 4 năm 2002; Luật Bảo hiểm xã hội ngày 29 tháng 6 năm 2006
User -> BỘ CÔng thưƠng cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
User -> BỘ TÀi chính số: 141 /2011 /tt-btc cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
User -> §¹i häc Quèc gia Hµ Néi Céng hßa x· héi chñ nghÜa viÖt nam §éc lËp Tù do H¹nh phóc
files -> ĐẶng thị thanh trâM ĐẢng lãnh đẠo xây dựNG, phát huy sức mạnh hậu phưƠng miền bắC
files -> TRƯỜng đẠi học khoa học xã HỘi và nhân văn nguyễn thị thanh hải tư TƯỞng của triết học tôma aquinô Chuyên ngành : cndvbc & cndvls
files -> Nguyễn bá ĐẠt rối nhiễu tâm lý Ở trẻ em

tải về 236.19 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương