Chuẩn mực kiểm toán nhà NƯỚc số 400 (cmktnn 400) CÁc nguyên tắc cơ BẢn của kiểm toán tuân thủ giới thiệu chung



tải về 143.95 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu15.08.2016
Kích143.95 Kb.
#20381
CHUẨN MỰC KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC SỐ 400 (CMKTNN 400)

CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA KIỂM TOÁN TUÂN THỦ

GIỚI THIỆU CHUNG

Cơ sở xây dựng

  1. Chuẩn mực này được xây dựng và phát triển trên cơ sở Luật Kiểm toán nhà nước, CMKTNN 100 – Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước và ISSAI 400 của INTOSAI - Các nguyên tắc cơ bản của kiểm toán tuân thủ

Các nguyên tắc cơ bản của chuẩn mực này được phát triển thành các hướng dẫn thực hành kiểm toán tuân thủ (CMKTNN cấp độ 4) và được sử dụng trong quá trình kiểm toán.

Mục đích, phạm vi áp dụng và quy định thực hiện

2. Chuẩn mực này đưa ra các nguyên tắc cơ bản cho cuộc kiểm toán tuân thủ. Các nguyên tắc cơ bản của kiểm toán tuân thủ được áp dụng cho tất cả các cuộc kiểm toán tuân thủ tại các tổ chức, đơn vị thuộc lĩnh vực công và các đối tượng khác theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước.

3. Trường hợp cuộc kiểm toán tuân thủ có kết hợp với kiểm toán tài chính, kiểm toán hoạt động, các kiểm toán viên nhà nước phải tuân thủ cả các chuẩn mực kiểm toán tuân thủ, chuẩn mực kiểm toán tài chính và chuẩn mực kiểm toán hoạt động. Trường hợp có sự khác biệt giữa các chuẩn mực của các loại hình kiểm toán, kiểm toán viên nhà nước phải ưu tiên áp dụng nhóm chuẩn mực cho phù hợp với loại hình kiểm toán được áp dụng, nội dung trọng tâm của cuộc kiểm toán.

Nguyên tắc sử dụng thuật ngữ trong chuẩn mực

4. Thuật ngữ sử dụng trong chuẩn mực này được định nghĩa giống như trong các chuẩn mực kiểm toán do Kiểm toán nhà nước ban hành.



NỘI DUNG CHUẨN MỰC

5. Chuẩn mực này bao gồm các nội dung sau: Các quy định chung về kiểm toán tuân thủ; Các yếu tố của kiểm toán tuân thủ; Các nguyên tắc cơ bản của kiểm toán tuân thủ.



Các quy định chung về kiểm toán tuân thủ

Mục tiêu của kiểm toán tuân thủ

6. Kiểm toán tuân thủ là việc kiểm tra, đánh giá độc lập sự tuân thủ của nội dung kiểm toán theo các qui định hiện hành được coi như: các tiêu chí kiểm toán như các luật, qui định, qui chế, chế độ, chính sách... mà đơn vị được kiểm toán phải thực hiện. Kiểm toán tuân thủ được thực hiện bằng việc đánh giá các hoạt động, các giao dịch và thông tin, xét trên các khía cạnh trọng yếu có tuân thủ các quy định áp dụng đối với đơn vị được kiểm toán hay không.

7. Mục tiêu của kiểm toán tuân thủ là kiểm toán viên nhà nước phải đưa ra ý kiến về việc liệu các hoạt động, các giao dịch và thông tin của đơn vị được kiểm toán, xét trên các khía cạnh trọng yếu, có tuân thủ các luật, qui định, qui chế, chế độ, chính sách... hay không. Kiểm toán tuân thủ có thể liên quan đến tính tuân thủ (tuân thủ các tiêu chí chính thức như các luật, quy định và thỏa thuận có liên quan) hoặc liên quan đến tính đúng đắn (tuân theo các nguyên tắc chung như các nguyên tắc về quản trị tài chính lành mạnh và ứng xử của các công chức, viên chức). Trong kiểm toán lĩnh vực công, tính tuân thủ là trọng tâm của kiểm toán tuân thủ, tính đúng đắn là thích hợp khi mục tiêu của cuộc kiểm toán liên quan đến quản trị tài chính lành mạnh và ứng xử của công chức, viên chức.

8. Trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì kiểm toán viên nhà nước cần phải mở rộng phạm vi kiểm toán để thu thập thêm bằng chứng kiểm toán; hồ sơ, kết quả kiểm toán có liên quan được chuyển cho cơ quan điều tra.



Đặc điểm của kiểm toán tuân thủ

9. Kiểm toán tuân thủ có thể bao gồm nhiều nội dung kiểm toán và được thực hiện để cung cấp sự đảm bảo hợp lý hoặc đảm bảo hạn chế bằng việc sử dụng tiêu chí đánh giá, thủ tục thu thập bằng chứng kiểm toán và hình thức báo cáo kiểm toán. Kiểm toán tuân thủ có thể thực hiện dạng công việc kiểm tra xác nhận hoặc dạng công việc kiểm tra đánh giá hoặc đồng thời cả hai. Báo cáo kiểm toán có thể dưới dạng báo cáo tóm tắt hoặc báo cáo đầy đủ. Các kết luận kiểm toán có thể được trình bày theo nhiều cách: dưới dạng ý kiến khẳng định về sự tuân thủ hoặc dưới dạng làm rõ những vấn đề hoặc nội dung kiểm toán cụ thể.

10. Kiểm toán tuân thủ là một nhiệm vụ không thể thiếu trong chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nước trong việc kiểm toán các cơ quan, đơn vị trong lĩnh vực công. Vì pháp luật và các qui định là công cụ hàng đầu để các cơ quan lập pháp, cơ quan giám sát, cơ quan quản lý, điều hành và công chúng kiểm soát công tác quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công và thực thi chức trách, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị trong lĩnh vực công. Các cơ quan, đơn vị trong lĩnh vực công đã được giao phó quản lý nền tài chính công một cách lành mạnh. Do đó, các cơ quan, đơn vị và công chức, viên chức trong lĩnh vực công chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công một cách minh bạch trước các tổ chức, cá nhân cung cấp các nguồn công quỹ đó và cả trước công chúng.

11. Kiểm toán tuân thủ đề cao tính minh bạch bằng việc cung cấp những báo cáo đáng tin cậy về việc liệu các nguồn tài chính, tài sản công có được quản lý, sử dụng theo quy định không, chức trách, nhiệm vụ trong thực hiện công vụ có được thực thi đầy đủ không.

Kiểm toán tuân thủ đề cao trách nhiệm giải trình bằng việc báo cáo những sự sai lệch so với quy định của pháp luật và những vi phạm pháp luật để từ đó kiến nghị các biện pháp khắc phục và kiến nghị những người có trách nhiệm phải chịu trách nhiệm về những hành động của mình.

Kiểm toán tuân thủ đề cao việc quản trị tốt cả bằng việc xác định các yếu kém và các sai lệch so với các quy định của pháp luật và bằng việc đánh giá tính đúng đắn trong trường hợp chưa có luật hoặc các quy định.

Về bản chất, gian lận và tham nhũng là những yếu tố chống lại tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và việc quản trị tốt. Kiểm toán tuân thủ đề cao việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công lành mạnh bằng việc đánh giá rủi ro xảy ra gian lận liên quan đến tính tuân thủ.

12. Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán tuân thủ đối với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Kiểm toán nhà nước cũng có thể thực hiện kiểm toán tuân thủ đối với các đơn vị tư nhân, trong kiểm toán các khoản thu ngân sách thì tập trung vào đối tượng nộp thuế; trong kiểm toán các khoản chi ngân sách thì tập trung vào những đơn vị tư nhân liên quan đến việc quản lý tài sản hoặc dịch vụ công được thực hiện thông qua các hợp đồng dịch vụ, thỏa thuận hợp tác hoặc các đơn vị tư nhân nhận được trợ cấp, tài trợ từ các nguồn công quỹ.



Các hình thức kiểm toán tuân thủ

13. Kiểm toán tuân thủ có thể là một phần của cuộc kiểm toán kết hợp giữa nhiều loại hình kiểm toán khác nhau. Kiểm toán tuân thủ thường được thực hiện:

(i) Kiểm toán tuân thủ được thực hiện độc lập;

(ii) Kiểm toán tuân thủ kết hợp với kiểm toán tài chính;

(iii) Kiểm toán tuân thủ kết hợp với kiểm toán hoạt động.

Kiểm toán tuân thủ được thực hiện độc lập

14. Kiểm toán tuân thủ được thực hiện độc lập là cuộc kiểm toán mà mục tiêu kiểm toán chỉ là kiểm toán tuân thủ, thực hiện tách biệt với kiểm toán tài chính và kiểm toán hoạt động ngay từ khâu lập kế hoạch, thực hiện và lập báo cáo kiểm toán. Các hướng dẫn cho cuộc kiểm toán tuân thủ thực hiện độc lập được qui định tại CMKTNN 4100.



Kiểm toán tuân thủ kết hợp với kiểm toán tài chính

15. Trong trường hợp có sự kết hợp giữa kiểm toán tuân thủ với kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ thường là một phần quan trọng trong mục tiêu, nội dung của cuộc kiểm toán.

16. Các luật và quy định là rất quan trọng đối với cả kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tài chính. Việc áp dụng luật, quy định nào trong mỗi lĩnh vực hoạt động của đơn vị được kiểm toán sẽ phụ thuộc vào mục tiêu, nội dung kiểm toán.

Kiểm toán tuân thủ là việc đánh giá độc lập liệu một nội dung kiểm toán có tuân thủ các quy định hiện hành được xác định bằng các tiêu chí kiểm toán hay không. Kiểm toán tuân thủ tập trung vào việc thu thập đầy đủ các bằng chứng thích hợp về việc tuân thủ với các tiêu chí đó. Đối với kiểm toán tuân thủ, bất cứ luật hay quy định nào liên quan đến nội dung kiểm toán đều có thể được xem xét.

Mục đích của kiểm toán tài chính là xác định liệu các báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán có được lập phù hợp với khuôn khổ quy định về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng không và thu thập đầy đủ các bằng chứng thích hợp về luật và các quy định có ảnh hưởng trực tiếp và trọng yếu đến báo cáo tài chính. Đối với kiểm toán tài chính, chỉ những luật và quy định có tác động trực tiếp và trọng yếu lên báo cáo tài chính là có liên quan.

17. Các hướng dẫn cho kiểm toán tuân thủ kết hợp với kiểm toán tài chính được qui định tại CMKTNN 4200.



Kiểm toán tuân thủ kết hợp với kiểm toán hoạt động

18. Khi kiểm toán tuân thủ là một phần của cuộc kiểm toán hoạt động, việc tuân thủ được xem như là một khía cạnh của tính kinh tế, tính hiệu quả và hiệu lực. Trong loại hình kiểm toán kết hợp này, kiểm toán viên nhà nước phải sử dụng xét đoán chuyên môn để quyết định kiểm toán hoạt động hay kiểm toán tuân thủ là trọng tâm của cuộc kiểm toán và áp dụng các chuẩn mực trong kiểm toán hoạt động hay các chuẩn mực trong kiểm toán tuân thủ hay cả hai loại.



Các yếu tố của kiểm toán tuân thủ

19. Các yếu tố của kiểm toán trong lĩnh vực công được quy định trong CMKTNN 100. Chuẩn mực này cung cấp thêm các khía cạnh của các yếu tố liên quan đến kiểm toán tuân thủ cần được kiểm toán viên nhà nước xác định trước khi bắt đầu cuộc kiểm toán.



Ba bên liên quan trong kiểm toán tuân thủ

20. Kiểm toán tuân thủ dựa trên mối quan hệ ba bên, trong đó Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm là thu thập đầy đủ các bằng chứng thích hợp để đưa ra kết luận để làm tăng độ tin cậy của đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán vào sự đo lường hoặc đánh giá về nội dung kiểm toán theo các tiêu chí đã được xác lập.

21. Trong kiểm toán tuân thủ, Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm xác định các yếu tố của cuộc kiểm toán, đánh giá xem một nội dung kiểm toán cụ thể có tuân thủ với các tiêu chí đã được xác lập và phát hành báo cáo kiểm toán tuân thủ.

22. Đối tượng chịu trách nhiệm là các đơn vị được kiểm toán; các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công và thực hiện các quyền dưới sự giám sát của cơ quan lập pháp. Đối tượng chịu trách nhiệm trong kiểm toán tuân thủ chịu trách nhiệm về tuân thủ các quy định liên quan đến nội dung được kiểm toán.

23. Đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán là các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng báo cáo kiểm toán theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước. Trong kiểm toán tuân thủ, đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán thường là cơ quan lập pháp, cơ quan giám sát và cơ quan ban hành văn bản.

24. Mối quan hệ giữa ba bên liên quan cần phải được xem xét trong hoàn cảnh của mỗi cuộc kiểm toán. Trong một số trường hợp đối tượng chịu trách nhiệm cũng có thể là đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán.



Các quy định và tiêu chí kiểm toán

25. Các quy định là yếu tố cơ bản nhất của kiểm toán tuân thủ, là cơ sở để xác định các tiêu chí kiểm toán. Các quy định có thể bao gồm các luật, các quy định, quy chế, chế độ, chính sách và các thỏa thuận hoặc có thể là các nguyên tắc chung về quản trị tài chính lành mạnh và ứng xử của các công chức, viên chức.

26. Trong lĩnh vực công có rất nhiều quy định, các quy định có thể có những điều khoản mâu thuẫn với nhau và có thể được hiểu theo các cách khác nhau, hoặc các văn bản hướng dẫn có thể không nhất quán và chưa chặt chẽ. Do đó, để đánh giá sự tuân thủ các quy định trong lĩnh vực công, kiểm toán viên nhà nước cần phải am hiểu về nguồn gốc, căn cứ, kết cấu và nội dung của các quy định. Điều này đặc biệt quan trọng khi xác định các tiêu chí kiểm toán, bởi vì nội dung của quy định là cơ sở để xây dựng các tiêu chí kiểm toán, cả khi xác định phạm vi kiểm toán và khi trình bày các phát hiện kiểm toán.

27. Tiêu chí kiểm toán là các tiêu chuẩn được sử dụng để đánh giá hoặc đo lường nội dung kiểm toán một cách nhất quán và hợp lý. Nếu không có các tiêu chí kiểm toán phù hợp thì các kết luận kiểm toán sẽ được giải thích theo cách của mỗi người và có thể dẫn đến hiểu sai. Kiểm toán viên nhà nước xác định tiêu chí kiểm toán trên cơ sở các quy định có liên quan như: các luật, các nghị quyết về ngân sách, chính sách, nguyên tắc, quy chế quản lý tài chính, tài sản công và đạo đức nghề nghiệp của công chức, viên chức. Các tiêu chí của kiểm toán tuân thủ phải thích hợp, đáng tin cậy, đầy đủ, khách quan, có thể hiểu được, có thể so sánh được, được chấp nhận và sẵn có..

28. Kiểm toán tuân thủ thường bao gồm những đánh giá về việc tuân thủ các tiêu chí chính thức như các văn bản pháp lý, những quy định được ban hành theo khung pháp lý cũng như việc tuân thủ các luật, quy định, thỏa thuận khác có liên quan (tính tuân thủ). Trong trường hợp chưa có các tiêu chí chính thức hoặc chưa có văn bản hướng dẫn, kiểm toán viên cũng có thể kiểm tra việc tuân thủ theo các nguyên tắc chung về quản trị tài chính lành mạnh và ứng xử của các công chức, viên chức (tính đúng đắn). Trong cả hai trường hợp kiểm toán tập trung vào tính tuân thủ cũng như kiểm toán tập trung vào tính đúng đắn đều cần các tiêu chí kiểm toán phù hợp. Các tiêu chí phù hợp trong trường hợp kiểm toán tuân thủ tập trung vào tính đúng đắn có thể là những nguyên tắc được chấp nhận chung hoặc những thực hành tốt.

Nội dung kiểm toán và thông tin liên quan đến nội dung kiểm toán

29. Nội dung kiểm toán của kiểm toán tuân thủ được xác định theo phạm vi kiểm toán. Đó là các hoạt động, các giao dịch tài chính hoặc các thông tin. Riêng đối với dạng công việc kiểm tra xác nhận về tính tuân thủ, thông tin liên quan đến nội dung kiểm toán có thể là một báo cáo về tuân thủ được lập và trình bày phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo theo quy định.

30. Nội dung và phạm vi của kiểm toán tuân thủ thường rất đa dạng. Nội dung của một cuộc kiểm toán có thể tổng quát hoặc cụ thể, có thể mang tính định lượng (ví dụ những khoản thanh toán không thỏa mãn một số điều kiện), hoặc định tính (ví dụ thái độ hoặc sự tôn trọng các yêu cầu về thủ tục).

Sự đảm bảo trong kiểm toán tuân thủ

31. Kiểm toán viên nhà nước thực hiện các thủ tục kiểm toán để giảm thiểu hoặc quản lý rủi ro đưa ra các kết luận kiểm toán không phù hợp, mặc dù không một cuộc kiểm toán nào có thể cung cấp một sự đảm bảo tuyệt đối về toàn bộ tình hình về nội dung được kiểm toán do những hạn chế nhất định trong mọi cuộc kiểm toán.. Trong hầu hết các trường hợp, không thể thực hiện kiểm toán tuân thủ cho tất cả các yếu tố của nội dung kiểm toán mà thông thường sẽ dựa vào một mức độ chọn mẫu định tính hoặc định lượng, tuy nhiên sự đảm bảo phải được thể hiện rõ ràng, minh bạch.

32. Kiểm toán tuân thủ được thực hiện bằng việc đạt được sự đảm bảo làm tăng độ tin cậy của những đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán vào những thông tin mà kiểm toán viên nhà nước hoặc các bên liên quan cung cấp.

Trong kiểm toán tuân thủ, có hai mức độ đảm bảo:



  1. Đảm bảo hợp lý: Là sự đảm bảo ở mức độ cao nhưng không phải tuyệt đối. Ý kiến kiểm toán được đưa ra dưới dạng: Theo ý kiến của Kiểm toán nhà nước, xét trên các khía cạnh trọng yếu nội dung kiểm toán là tuân thủ (hoặc không tuân thủ) với các tiêu chí đã nêu.

  2. Đảm bảo hạn chế: Là sự đảm bảo ở mức độ thấp hơn đảm bảo hợp lý. Ý kiến kiểm toán được thể hiện dưới dạng: không có yếu tố nào khiến Kiểm toán nhà nước tin rằng, xét trên các khía cạnh trọng yếu, nội dung kiểm toán không tuân thủ với các tiêu chí.

Trong kiểm toán tuân thủ, cả đảm bảo hợp lý và đảm bảo hạn chế đều có thể xảy ra trong cả 2 dạng công việc: kiểm tra xác nhận và kiểm tra đánh giá.

Các nguyên tắc của kiểm toán tuân thủ

33. Một cuộc kiểm toán tuân thủ là một quá trình thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán một cách có hệ thống và khách quan xem nội dung kiểm toán có tuân thủ với các qui định hiện hành được coi là các tiêu chí kiểm toán không. Các nguyên tắc sau là nền tảng cho việc thực hiện một cuộc kiểm toán tuân thủ:

(i) Các nguyên tắc chung mà kiểm toán viên nhà nước phải xem xét trước khi bắt đầu kiểm toán cũng như trong suốt quá trình kiểm toán;

(ii) Các nguyên tắc liên quan đến quá trình kiểm toán.



Các nguyên tắc chung

Đạo đức nghề nghiệp và tính độc lập

34. Kiểm toán viên nhà nước phải tuân thủ các nguyên tắc về đạo đức nghề nghiệp và đảm bảo tính độc lập. Khi thực hiện kiểm toán tuân thủ, kiểm toán viên nhà nước phải hiểu và tuân thủ các nguyên tắc về đạo đức nghề nghiệp được quy định tại CMKTNN 30 - Bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp.



Kiểm soát chất lượng kiểm toán

35. Tất cả các cuộc kiểm toán tuân thủ đều phải thực hiện các thủ tục kiểm soát chất lượng nhằm đảm bảo hợp lý rằng các cuộc kiểm toán đã tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp và các quy định có liên quan; báo cáo kiểm toán phát hành phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.

Kiểm toán viên nhà nước phải hiểu và tuân thủ các quy định, các thủ tục kiểm soát chất lượng theo quy định tại CMKTNN 40 – Kiểm soát chất lượng kiểm toán.

Xét đoán chuyên môn và thái độ hoài nghi nghề nghiệp

36. Trong quá trình lập kế hoạch, thực hiện kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên nhà nước phải thực hiện các xét đoán chuyên môn và duy trì thái độ hoài nghi nghề nghiệp.

Thuật ngữ “Xét đoán chuyên môn” và “thái độ hoài nghi nghề nghiệp” được kiểm toán viên nhà nước sử dụng khi thiết lập các yêu cầu trước khi đưa ra quyết định về thủ tục kiểm toán các hành động phù hợp với từng vấn đề của cuộc kiểm toán.

Xét đoán chuyên môn được kiểm toán viên nhà nước sử dụng trong suốt quá trình kiểm toán bằng việc áp dụng các kỹ năng và kinh nghiệm phù hợp để đưa ra các quyết định phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của cuộc kiểm toán.

Kiểm toán viên nhà nước cần lập kế hoạch và thực hiện cuộc kiểm toán với thái độ hoài nghi nghề nghiệp để nhận biết các trường hợp có thể dẫn đến nội dung được kiểm toán có chứa đựng sai sót trọng yếu. Hoài nghi nghề nghiệp là thái độ mà kiểm toán viên nhà nước đưa ra đánh giá nghiêm túc với thái độ luôn nghi ngờ về sự đầy đủ và thích hợp của các bằng chứng kiểm toán đã thu thập được.

“Xét đoán chuyên môn” và “thái độ hoài nghi nghề nghiệp” được sử dụng trong suốt cuộc kiểm toán tuân thủ để xem xét các yếu tố của kiểm toán, nội dung kiểm toán, các tiêu chí phù hợp, phạm vi kiểm toán, rủi ro, trọng yếu và các thủ tục kiểm toán được áp dụng để ứng phó với rủi ro đã xác định. Hai khái niệm này được sử dụng trong việc đánh giá các bằng chứng kiểm toán và các dẫn chứng về việc không tuân thủ cũng như trong việc xác định cách thức, nội dung và tần suất của việc trao đổi thông tin trong quá trình kiểm toán.

Để đảm bảo cho việc xét đoán chuyên môn và thái độ hoài nghi nghề nghiệp trong kiểm toán tuân thủ, kiểm toán viên nhà nước phải có khả năng phân tích nguồn gốc, căn cứ, kết cấu và nội dung của các quy định được sử dụng làm cơ sở để xác định các tiêu chí kiểm toán thích hợp hoặc xác định các kẽ hở về luật pháp, hoặc trường hợp không có hoặc còn thiếu luật và các quy định. Kiểm toán viên nhà nước sử dụng xét đoán chuyên môn và thái độ hoài nghi nghề nghiệp trong việc đánh giá các loại bằng chứng kiểm toán khác nhau thông qua nguồn gốc của bằng chứng và sự liên quan đến phạm vi và nội dung kiểm toán. Kiểm toán viên nhà nước cũng cần có khả năng đánh giá tính đầy đủ và thích hợp của các bằng chứng đã thu thập được trong quá trình kiểm toán.

Các kỹ năng cần thiết

37. Kiểm toán viên nhà nước phải có kỹ năng cần thiết hoặc có khả năng tiếp cận với những kỹ năng cần thiết để hoàn thành cuộc kiểm toán tuân thủ

Các kỹ năng này bao gồm: sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tiễn tham gia các cuộc kiểm toán có nội dung và mức độ phức tạp tương đương, am hiểu về các chuẩn mực nghề nghiệp và quy định hiện hành, hiểu biết về hoạt động của đơn vị được kiểm toán, khả năng áp dụng các xét đoán chuyên môn. Tất cả các cuộc kiểm toán tuân thủ cần bố trí nhân sự có chuyên môn phù hợp, tạo cơ hội cho họ phát triển và đào tạo. Kiểm toán viên nhà nước cần duy trì năng lực chuyên môn thông qua việc phát triển nghề nghiệp liên tục.

Trong trường hợp cuộc kiểm toán tuân thủ đòi hỏi các kỹ thuật, phương pháp, kỹ năng chuyên ngành mà Kiểm toán nhà nước không có, Kiểm toán nhà nước có thể sử dụng chuyên gia cung cấp kiến thức hoặc thực hiện một số công việc cụ thể, khi đó cần đánh giá liệu các chuyên gia có đầy đủ năng lực, khả năng và sự khách quan cần thiết hay không và liệu công việc của họ có đáp ứng được mục đích của cuộc kiểm toán hay không.



Rủi ro kiểm toán

38. Kiểm toán viên nhà nước cần xem xét rủi ro kiểm toán trong suốt quá trình kiểm toán.

Rủi ro kiểm toán là rủi ro do kiểm toán viên nhà nước đưa ra ý kiến kiểm toán không phù hợp khi báo cáo và thông tin đã được kiểm toán còn chứa đựng sai sót trọng yếu. Kiểm toán viên nhà nước phải thực hiện các thủ tục kiểm toán để giảm thiểu và quản lý rủi ro đưa ra các kết luận kiểm toán không phù hợp.

Việc xem xét rủi ro kiểm toán là thích hợp trong cả hai dạng công việc kiểm tra xác nhận và kiểm tra đánh giá. Kiểm toán viên cần xem xét cả 3 yếu tố của rủi ro kiểm toán: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện trong mối quan hệ với nội dung kiểm toán và thể thức báo cáo (ví dụ nội dung kiểm toán là định tính hay định lượng, báo cáo kiểm toán đưa ra kết luận hay làm rõ những vấn đề hoặc nội dung kiểm toán cụ thể). Mối tương quan của các yếu tố của rủi ro kiểm toán này phụ thuộc vào bản chất của nội dung kiểm toán, liệu cuộc kiểm toán cung cấp sự đảm bảo hợp lý hay đảm bảo hạn chế và liệu đó là dạng công việc kiểm tra đánh giá hay dạng công việc kiểm tra xác nhận.



Trọng yếu

39. Kiểm toán viên nhà nước phải xem xét tính trọng yếu trong suốt quá trình kiểm toán.

Một sai sót được coi là trọng yếu khi xét riêng lẻ hoặc tổng hợp lại nếu sai sót đó có thể gây ảnh hưởng tới quyết định của người sử dụng thông tin, báo cáo. Trong kiểm toán tuân thủ, trọng yếu thường được xem xét dưới cả hai khía cạnh định tính và định lượng, trong đó khía cạnh định tính của trọng yếu thường đóng vai trò lớn hơn trong lĩnh vực công. Khi xét đoán tính trọng yếu của sai sót, kiểm toán viên nhà nước không chỉ dựa vào quy mô của sai sót (khía cạnh định lượng) mà còn phải xem xét bản chất của sai sót trong từng hoàn cảnh cụ thể (khía cạnh định tính).

Trọng yếu cần được xem xét trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán, đánh giá các bằng chứng kiểm toán thu thập được và trong quá trình lập báo cáo kiểm toán. Một phần quan trọng của việc xác định trọng yếu là đánh giá xem liệu quyết định của đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán có bị ảnh hưởng bởi các trường hợp được báo cáo là tuân thủ hay không tuân thủ không (trường hợp khẳng định chắc chắn không tuân thủ hoặc trường hợp chỉ đưa ra khả năng không tuân thủ). Các yếu tố cần xem xét trong việc đánh giá trọng yếu là yêu cầu về nhiệm vụ, mối quan tâm hoặc kỳ vọng của công chúng, những lĩnh vực cụ thể mà các cơ quan lập pháp quan tâm hoặc sử dụng kinh phí lớn. Tuy nhiên, trong một số hoàn cảnh cụ thể, sai sót có thể được coi là trọng yếu mặc dù giá trị của sai sót đó thấp hơn mức trọng yếu (ví dụ như gian lận). Việc đánh giá mức trọng yếu phải phù hợp với phạm vi kiểm toán và đòi hỏi kiểm toán viên cần có những xét đoán chuyên môn một cách đầy đủ, toàn diện.



Hồ sơ kiểm toán

40. Kiểm toán viên nhà nước cần lập đầy đủ hồ sơ kiểm toán.

Hồ sơ kiểm toán phải được lập đầy đủ, kịp thời và phải cung cấp một sự hiểu biết rõ ràng về các tiêu chí đã được sử dụng, phạm vi của cuộc kiểm toán, các đánh giá, những bằng chứng đã thu thập được và các kết luận kiểm toán. Hồ sơ kiểm toán cần chi tiết để một kiểm toán viên có kinh nghiệm, dù không tham gia kiểm toán vẫn có thể hiểu được những điều sau: Mối liên hệ giữa nội dung kiểm toán, các tiêu chí kiểm toán, phạm vi kiểm toán, rủi ro kiểm toán và những nội dung khác trong kế hoạch kiểm toán của cuộc kiểm toán, kế hoạch kiểm toán chi tiết với cách thức, thời gian, phạm vi và kết quả của các thủ tục đã thực hiện; bằng chứng đã thu thập được làm cơ sở cho kết luận hoặc ý kiến của kiểm toán viên; nguyên nhân của tất cả các vấn đề nghiêm trọng đòi hỏi cần xét đoán chuyên môn; và những kết luận có liên quan. Kiểm toán viên nhà nước cần lập hồ sơ liên quan đến cuộc kiểm toán trước khi phát hành báo cáo kiểm toán và lưu trữ theo quy định.

Trao đổi thông tin

41. Kiểm toán viên nhà nước phải trao đổi thông tin cần thiết trong các giai đoạn của cuộc kiểm toán tuân thủ

Việc trao đổi thông tin diễn ra trong các giai đoạn của cuộc kiểm toán tuân thủ: Khảo sát thu thập thông tin, lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán. Bất kỳ khó khăn nào trong quá trình kiểm toán, cũng như những trường hợp không tuân thủ trọng yếu cần được trao đổi với những đối tượng chịu trách nhiệm quản lý và quản trị ở cấp thích hợp. Kiểm toán viên nhà nước cần thông báo cho đối tượng chịu trách nhiệm về tiêu chí kiểm toán.



Các nguyên tắc liên quan đến quá trình kiểm toán

Lập kế hoạch cuộc kiểm toán tuân thủ

Phạm vi kiểm toán

42. Kiểm toán viên nhà nước xác định phạm vi kiểm toán

Phạm vi kiểm toán là sự thể hiện rõ ràng về trọng tâm, quy mô và giới hạn của cuộc kiểm toán liên quan đến việc đánh giá sự tuân thủ của nội dung kiểm toán so với các tiêu chí kiểm toán. Việc xác định phạm vi kiểm toán bị ảnh hưởng bởi trọng yếu, rủi ro và xác định các quy định nào, nội dung cụ thể nào của quy định đó sẽ được sử dụng làm tiêu chí kiểm toán. Cuộc kiểm toán tuân thủ phải được thiết kế sao cho bao quát được toàn bộ phạm vi kiểm toán.

Nội dung kiểm toán và tiêu chí kiểm toán

43. Kiểm toán viên nhà nước phải xác định nội dung kiểm toán và các tiêu chí kiểm toán phù hợp

Xác định nội dung kiểm toán và tiêu chí kiểm toán là một trong những bước đầu tiên trong kiểm toán tuân thủ. Riêng đối với dạng công việc kiểm tra xác nhận có thể liên quan đến việc xác định thông tin do đối tượng chịu trách nhiệm trình bày về sự tuân thủ của nội dung kiểm toán so với tiêu chí nhất định.

Khi xác định nội dung kiểm toán, kiểm toán viên nhà nước cần vận dụng những xét đoán chuyên môn và thái độ hoài nghi nghề nghiệp để phân tích các thông tin, dữ liệu về đơn vị được kiểm toán và đánh giá mức trọng yếu và rủi ro.

Nội dung kiểm toán cần phải nhận biết được và có thể đánh giá được theo các tiêu chí kiểm toán phù hợp. Về bản chất, nội dung kiểm toán phải cho phép kiểm toán viên nhà nước có thể thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để chứng minh cho ý kiến, kết luận và báo cáo kiểm toán.

Kiểm toán viên nhà nước cần xác định các tiêu chí kiểm toán phù hợp làm cơ sở cho việc đánh giá các bằng chứng kiểm toán và đưa ra các phát hiện và kết luận kiểm toán. Các tiêu chí cần được thông báo cho đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán cũng như những đối tượng phù hợp khác. Các tiêu chí cũng cần được trao đổi với đối tượng chịu trách nhiệm.

Hiểu biết về đơn vị được kiểm toán

44. Kiểm toán viên nhà nước cần hiểu biết về đơn vị được kiểm toán trong môi trường pháp luật có liên quan

Kiểm toán viên nhà nước cần có sự hiểu biết về cơ cấu, tổ chức và hoạt động của đơn vị được kiểm toán, các thủ tục để đạt được sự tuân thủ. Kiểm toán viên nhà nước sử dụng những kiến thức này để xác định trọng yếu và đánh giá rủi ro không tuân thủ. Các nội dung liên quan được hướng dẫn cụ thể tại CMKTNN 4100 và CMKTNN 4200.

Hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ và môi trường kiểm soát

45. Kiểm toán viên nhà nước cần hiểu biết về môi trường kiểm soát và hệ thống kiểm soát nội bộ có liên quan và đánh giá xem liệu chúng có đảm bảo việc tuân thủ không.

Sự hiểu biết về đơn vị được kiểm toán, nội dung kiểm toán liên quan đến phạm vi của cuộc kiểm toán tùy thuộc vào kiến thức của kiểm toán viên về môi trường kiểm soát. Môi trường kiểm soát bao gồm văn hóa về tính trung thực và ứng xử có đạo đức; các quan điểm, nhận thức và hành động của lãnh đạo đơn vị liên quan đến kiểm soát nội bộ. Môi trường kiểm soát tạo cơ sở cho sự hoạt động hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ, đảm bảo hoạt động của đơn vị được kiểm toán tuân thủ với các quy định. Trong kiểm toán tuân thủ, một môi trường kiểm soát chú trọng vào việc đạt được tuân thủ là rất quan trọng.

Để hiểu được về đơn vị được kiểm toán và nội dung kiểm toán, kiểm toán viên nhà nước cũng cần có hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ. Tùy thuộc vào nội dung kiểm toán và phạm vi của cuộc kiểm toán mà kiểm toán viên nhà nước sẽ tập trung vào sự kiểm soát nội bộ về mặt định tính hoặc về mặt định lượng hoặc cả hai. Khi đánh giá về hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên nhà nước phải đánh giá rủi ro mà hệ thống không ngăn ngừa hoặc phát hiện được những trường hợp không tuân thủ mang tính trọng yếu. Kiểm toán viên nhà nước cần xem xét thủ tục kiểm soát nội bộ có tương thích với môi trường kiểm soát để có thể đảm bảo tuân thủ với các quy định xét trên các khía cạnh trọng yếu không.

Đánh giá rủi ro kiểm toán

46. Kiểm toán viên nhà nước cần đánh giá rủi ro để xác định rủi ro không tuân thủ

Trên cơ sở các tiêu chí kiểm toán, phạm vi kiểm toán và đặc điểm của đơn vị được kiểm toán, kiểm toán viên nhà nước cần thực hiện đánh giá rủi ro để xác định cách thức, thời gian và phạm vi của các thủ tục kiểm toán cần thực hiện. Kiểm toán viên nhà nước cần xem xét đến rủi ro mà nội dung kiểm toán không tuân thủ các tiêu chí kiểm toán. Không tuân thủ có thể do gian lận, sai sót, bản chất của nội dung kiểm toán hoặc hoàn cảnh cụ thể của cuộc kiểm toán. Kiểm toán viên nhà nước cần xem xét việc xác định rủi ro không tuân thủ và tác động của nó lên các thủ tục kiểm toán trong suốt quá trình kiểm toán. Kiểm toán viên nhà nước cần đánh giá mọi trường hợp không tuân thủ đã được nhận biết để xác định xem liệu chúng có trọng yếu không.

Rủi ro do gian lận

47. Kiểm toán viên nhà nước cần xem xét rủi ro do gian lận

Nếu kiểm toán viên nhà nước đã xem xét các trường hợp không tuân thủ và có thể cho rằng có gian lận, thì kiểm toán viên nhà nước phải thận trọng trong việc thu thập và lưu trữ bằng chứng kiểm toán để không gặp trở ngại cho bất cứ thủ tục pháp lý hoặc điều tra nào sau này.

Gian lận trong kiểm toán tuân thủ chủ yếu liên quan đến việc lạm dụng công quyền, tuy nhiên gian lận cũng liên quan đến việc báo cáo sai sự thật những vấn đề về tuân thủ. Các trường hợp không tuân thủ theo các quy định có thể cấu thành việc cố ý sử dụng sai quyền lực công để thu lợi bất hợp pháp.

Việc thi hành quyền lực công bao gồm đưa ra hoặc không đưa ra các quyết định, các công việc chuẩn bị, tư vấn, xử lý thông tin và các hoạt động khác trong các dịch vụ công. Lợi ích bất hợp pháp là những lợi ích mang tính kinh tế hoặc phi kinh tế thu được bằng những hành động có chủ ý không phù hợp với quy định pháp luật của một cá nhân hay tập thể trong số những người có trách nhiệm quản lý, quản trị, nhân viên hoặc bên có liên quan.

Mặc dù tìm kiếm gian lận không phải là mục tiêu chính của kiểm toán tuân thủ, kiểm toán viên nhà nước vẫn cần tính đến các yếu tố rủi ro do gian lận trong việc đánh giá rủi ro và luôn cảnh giác với các dấu hiệu gian lận khi thực hiện kiểm toán.

Kế hoạch kiểm toán của cuộc kiểm toán tuân thủ

48. Đơn vị chủ trì cuộc kiểm toán phải tổ chức khảo sát, lập kế hoạch kiểm toán đối với tất cả các cuộc kiểm toán, đảm bảo hiệu quả và hiệu lực. Việc lập kế hoạch kiểm toán của cuộc kiểm toán phải xác định được mục tiêu, phạm vi, nội dung, phương pháp kiểm toán và khung thời gian, nhân sự; làm căn cứ để lập Kế hoạch kiểm toán chi tiết và chỉ đạo, tổ chức thực hiện cuộc kiểm toán một cách tiết kiệm, hiệu quả và giảm thiểu rủi ro kiểm toán.

49. Kế hoạch kiểm toán của mỗi cuộc kiểm toán tuân thủ bao gồm kế hoạch kiểm toán tổng quát của cuộc kiểm toán và kế hoạch kiểm toán chi tiết.

50. Khi xây dựng kế hoạch kiểm toán tổng quát, đơn vị chủ trì cuộc kiểm toán phải:



  1. Tổ chức khảo sát, thu thập thông tin có liên quan về đơn vị được kiểm toán và cuộc kiểm toán;

  2. Phân tích thông tin thu thập để làm cơ sở xây dựng kế hoạch kiểm toán tổng quát;

  3. Xác định nội dung trọng tâm, lịch trình và các nguồn lực cần thiết để thực hiện cuộc kiểm toán;

51. Kế hoạch kiểm toán tổng quát thông thường bao gồm những nội dung chính sau:

        1. Mục tiêu kiểm toán;

        2. Phạm vi kiểm toán;

        3. Nội dung kiểm toán;

        4. Tiêu chí kiểm toán;

        5. Đánh giá rủi ro kiểm toán dự kiến; Xác định trọng yếu kiểm toán;

        6. Xác định phương thức tổ chức và lịch trình thực hiện cuộc kiểm toán;

52. Kế hoạch kiểm toán tổng quát phải được lập và phê duyệt trước khi thực hiện mỗi cuộc kiểm toán của Kiểm toán nhà nước.

53. Khi xây dựng kế hoạch kiểm toán chi tiết, Tổ trưởng Tổ kiểm toán và kiểm toán viên nhà nước phải:

(i) Nắm bắt chung về khung pháp lý và các quy định được áp dụng đối với đơn vị được kiểm toán và trong phạm vi của cuộc kiểm toán;

(ii) Tìm hiểu về đánh giá của ban lãnh đạo đơn vị đối với các luật và quy định hiện hành, bao gồm hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm đảm bảo sự tuân thủ với pháp luật hiện hành.

(iii) Đối với kiểm toán tính đúng đắn, cần tìm hiểu về các nguyên tắc liên quan về quản lý tài chính công lành mạnh và các kỳ vọng liên quan đến ứng xử của công chức, viên chức nhà nước;

(iv) Phân tích thông tin đã thu thập được để làm cơ sở xác định trọng yếu kiểm toán, rủi ro kiểm toán, phương pháp chọn mẫu và quy mô mẫu kiểm toán; các phương pháp kiểm toán cho từng nội dung kiểm toán.

54. Nội dung kế hoạch kiểm toán chi tiết thường bao gồm:

(i) Mục tiêu kiểm toán chi tiết;

(ii) Phạm vi kiểm toán;

(iii) Nội dung kiểm toán chi tiết;

(iv) Tiêu chí kiểm toán và căn cứ xây dựng tiêu chí kiểm toán;

(v) Rủi ro, trọng yếu kiểm toán và quy mô mẫu kiểm toán được xác định cho từng nội dung kiểm toán;

(vi) Các phương pháp, thủ tục kiểm toán áp dụng cho từng nội dung kiểm toán

55. Kế hoạch kiểm toán tổng quát và kế hoạch kiểm toán chi tiết phải được ghi chép, lưu giữ và cần phải được cập nhật, điều chỉnh khi cần thiết trong suốt quá trình kiểm toán.

56. Các yêu cầu và hướng dẫn cụ thể về lập kế hoạch kiểm toán tuân thủ được quy định tại CMKTNN 4100, CMKTNN 4200.

Thực hiện kiểm toán

Bằng chứng kiểm toán

57. Kiểm toán viên nhà nước phải thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để bao quát được phạm vi kiểm toán.

Kiểm toán viên nhà nước cần thu thập đầy đủ các bằng chứng thích hợp làm cơ sở cho ý kiến hoặc kết luận kiểm toán. Tính đầy đủ là tiêu chuẩn đánh giá về số lượng bằng chứng kiểm toán, còn tính thích hợp liên quan đến tiêu chuẩn đánh giá về chất lượng của các bằng chứng kiểm toán, bao gồm sự phù hợp, có giá trị và đáng tin cậy của bằng chứng. Số lượng của bằng chứng kiểm toán cần thu thập chịu ảnh hưởng bởi đánh giá của kiểm toán viên nhà nước đối với rủi ro có sai sót trọng yếu và chất lượng của mỗi bằng chứng kiểm toán. Rủi ro càng lớn thì thường đòi hỏi nhiều bằng chứng kiểm toán và chất lượng của bằng chứng càng cao thì có thể cần ít bằng chứng hơn. Do đó, tính đầy đủ và thích hợp của bằng chứng có mối tương quan với nhau. Tuy nhiên, việc đơn thuần chỉ thu thập nhiều bằng chứng kiểm toán không bù đắp lại được chất lượng thấp của bằng chứng. Độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán bị ảnh hưởng bởi nguồn gốc, nội dung và hoàn cảnh cụ thể mà bằng chứng được thu thập.

Kiểm toán viên nhà nước cần xem xét cả tính thích hợp và mức độ tin cậy của thông tin được sử dụng làm bằng chứng kiểm toán.

Các thủ tục kiểm toán cần thích hợp trong từng trường hợp cụ thể và phù hợp với mục đích thu thập được đầy đủ các bằng chứng kiểm toán. Do nội dung kiểm toán có thể mang tính định tính hoặc định lượng, nên kiểm toán viên nhà nước sẽ căn cứ vào phạm vi kiểm toán để chú trọng vào khía cạnh định tính hoặc định lượng của bằng chứng kiểm toán, hoặc cả định tính và định lượng. Do đó, kiểm toán tuân thủ bao gồm rất nhiều các thủ tục khác nhau để thu thập các bằng chứng kiểm toán, cả về định tính và định lượng.

Kiểm toán viên nhà nước thực hiện kiểm toán tuân thủ cần phối hợp và so sánh bằng chứng kiểm toán từ các nguồn khác nhau để đạt được yêu cầu về tính đầy đủ và thích hợp của bằng chứng kiểm toán.

Đánh giá bằng chứng kiểm toán để hình thành ý kiến, kết luận kiểm toán

58. Kiểm toán viên nhà nước cần đánh giá tính đầy đủ và thích hợp của các bằng chứng kiểm toán thu thập được và hình thành các ý kiến, kết luận kiểm toán.

Sau khi đã kết thúc công việc kiểm toán theo đúng cách thức, kiểm toán viên nhà nước cần xem xét lại các bằng chứng kiểm toán đã thu thập được để đưa ra ý kiến hoặc kết luận kiểm toán.

Kiểm toán viên nhà nước cần đánh giá liệu những bằng chứng thu thập được đã đầy đủ chưa, có thích hợp không để giảm rủi ro kiểm toán đến mức thấp có thể chấp nhận được. Quá trình đánh giá đòi hỏi vừa xem xét những bằng chứng chứng minh, vừa phải xem xét những bằng chứng mâu thuẫn với kết luận hoặc ý kiến kiểm toán về việc tuân thủ hoặc không tuân thủ. Việc đánh giá bằng chứng kiểm toán cũng bao gồm cả những suy xét về mức trọng yếu. Sau khi đánh giá liệu những bằng chứng thu thập được có đầy đủ, thích hợp để đưa ra mức độ đảm bảo của cuộc kiểm toán không, kiểm toán viên nhà nước cần xem xét để đưa ra ý kiến, kết luận kiểm toán thích hợp nhất trên cơ sở các bằng chứng đã thu thập được.

Nếu các bằng chứng thu thập được từ các nguồn khác nhau lại mâu thuẫn, hoặc nếu có bất kỳ một sự nghi ngờ nào về độ tin cậy của thông tin được dùng làm bằng chứng kiểm toán, kiểm toán viên nhà nước cần xác định việc thay đổi hoặc bổ sung thủ tục kiểm toán để có thể giải quyết được vấn đề.

Sau khi đã kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên nhà nước sẽ xem xét lại hồ sơ, tài liệu kiểm toán để xác định xem nội dung kiểm toán đã được kiểm tra một cách đầy đủ và thích hợp chưa. Kiểm toán viên nhà nước cũng cần xác định xem việc đánh giá rủi ro và trọng yếu ban đầu có phù hợp trên cơ sở các bằng chứng đã thu thập được không, có cần điều chỉnh lại đánh giá về rủi ro và trọng yếu không.

Lập báo cáo kiểm toán

59. Kiểm toán viên nhà nước lập báo cáo kiểm toán dựa trên các nguyên tắc về tính đầy đủ, khách quan, kịp thời và xem xét các ý kiến giải trình của đơn vị được kiểm toán và các bên liên quan khác.

Nguyên tắc về tính đầy đủ đòi hỏi kiểm toán viên nhà nước phải kiểm tra, xem xét lại tất cả các bằng chứng kiểm toán liên quan trước khi lập báo cáo kiểm toán.

Nguyên tắc về tính khách quan đòi hỏi kiểm toán viên nhà nước phải áp dụng các xét đoán chuyên môn và thái độ hoài nghi nghề nghiệp để đảm bảo rằng tất cả các báo cáo là đúng sự thật và các phát hiện hoặc kết luận kiểm toán được trình bày theo cách thích hợp và công bằng.

Nguyên tắc về tính kịp thời là việc lập báo cáo kiểm toán được thực hiện theo đúng thời gian quy định.

Để đạt được các yêu cầu đó trong quá trình lập báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên nhà nước cần lưu ý việc kiểm tra xem xét lại tính chính xác của các sự kiện với đơn vị được kiểm toán, xem xét và tổng hợp lại ý kiến của đơn vị được kiểm toán và những người có trách nhiệm một cách phù hợp.

60. Yêu cầu, nội dung và kết cấu của báo cáo kiểm toán

Báo cáo kiểm toán phải tuân thủ các yêu cầu như: phản ánh đầy đủ, chính xác, trung thực, khách quan, có tính xây dựng, có tính thuyết phục, rõ ràng, súc tích, không gây ra nhiều cách hiểu khác nhau cho người sử dụng báo cáo kiểm toán. Mọi giới hạn về phạm vi kiểm toán cần được mô tả. Báo cáo kiểm toán cần nêu rõ sự liên quan của các tiêu chí được sử dụng và mức độ đảm bảo mà báo cáo cung cấp. Báo cáo kiểm toán thường bao gồm kết luận kiểm toán trên cơ sở các công việc kiểm toán đã thực hiện. Báo cáo kiểm toán cũng có thể cung cấp những kiến nghị mang tính tư vấn để cải thiện tình hình.

Nội dung và kết cấu của Báo cáo kiểm toán phải tuân thủ quy định về mẫu biểu, hồ sơ kiểm toán của Kiểm toán nhà nước, trong đó nội dung của báo cáo kiểm toán thường bao gồm: thông tin về đơn vị được kiểm toán, kết quả kiểm toán (cơ sở lập báo cáo kiểm toán, căn cứ hình thành ý kiến kiểm toán, ý kiến kiểm toán, các vấn đề cần nhấn mạnh và các vấn đề khác, các kết luận, kiến nghị và các nội dung khác nếu có), chữ ký, đóng dấu, ngày ký báo cáo kiểm toán và các thuyết minh, phụ biểu (nếu có)

Kết luận kiểm toán có thể được trình bày rõ ràng dưới dạng văn bản ý kiến khẳng định về sự tuân thủ. Kết luận kiểm toán cũng có thể được biểu thị dưới dạng làm rõ những vấn đề hoặc những nội dung kiểm toán cụ thể. Dạng công việc kiểm tra xác nhận thường đưa ra ý kiến khẳng định về sự tuân thủ, ý kiến dưới dạng làm rõ những vấn đề hoặc những nội dung kiểm toán cụ thể thường được sử dụng đối với dạng công việc kiểm tra đánh giá. Trong trường hợp đưa ra ý kiến khẳng định về sự tuân thủ, kiểm toán viên cần nêu rõ rằng ý kiến đó là không điều chỉnh hoặc đã được điều chỉnh trên cơ sở đánh giá mức trọng yếu và mức độ ảnh hưởng đến tổng thể nội dung được kiểm toán.

Kiểm tra thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán

61. Kiểm toán nhà nước phải theo dõi, kiểm tra thực hiện kiến nghị kiểm toán.

Kiểm tra tình hình thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán nhằm đánh giá việc thực hiện các kiến nghị kiểm toán của đơn vị được kiểm toán, đồng thời cung cấp những ý kiến đánh giá về đơn vị được kiểm toán đến đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán và cũng để phục vụ cho việc lập kế hoạch kiểm toán lần sau.

Đối với cuộc kiểm toán được thực hiện thường niên, thủ tục kiểm tra thực hiện kiến nghị có thể được thực hiện ngay trong quá trình thực hiện kiểm toán tiếp theo.



Đối với kiểm toán tuân thủ, kiểm toán viên nhà nước cần tiếp tục theo dõi các trường hợp không tuân thủ, tùy thuôc vào tính chất và mức độ không tuân thủ mà việc theo dõi có thể được thực hiện thường xuyên hoặc yêu cầu báo cáo theo định kỳ. Đây là một yếu tố quan trọng để đánh giá rủi ro, xác định trọng yếu cho lần kiểm toán tiếp theo./.


Каталог: Data -> hant -> File
File -> C dự thảO ĐĂng website huẩn mực kiểm toán nhà NƯỚc số 1230 (cmktnn 1230)
File -> DỰ thảo huẩn mực kiểm toán nhà NƯỚc số 1320 (cmktnn 1320) XÁC ĐỊnh và VẬn dụng trọng yếu kiểm toán I. Quy đỊnh chung
File -> Chuẩn mực kiểm toán nưỚc số 1330 (cmktnn 1330) biện pháp xử LÝ RỦi ro kiểm toán trong kiểm toán tài chính quy đỊnh chung
File -> Chuẩn mực kiểm toán nhà NƯỚc số 1500 (cmktnn 1500)
File -> Chuẩn mực kiểm toán nhà NƯỚc số 1510 (cmktnn 1510) kiểm toán số DƯ ĐẦu kỳ TRONG kiểm toán tài chính quy đỊnh chung
File -> Chuẩn mực kiểm toán nhà NƯỚc số 1520 (cmktnn 1520) thủ TỤc phân tích trong kiểm toán tài chính quy đỊnh chung
File -> Chuẩn mực kiểm toán nhà NƯỚc số 1560 (cmktnn 1560) CÁc sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ KẾ toán quy đỊnh chung
File -> Chuẩn mực kiểm toán nhà NƯỚc số 1620 (cmktnn 1620) SỬ DỤng công việc của chuyên gia trong kiểm toán tài chính quy đỊnh chung
File -> Chuẩn mực kiểm toán nhà NƯỚc số 1705 (cmktnn 1705) Ý kiến kiểm toán không phảI Ý kiến chấp nhận toàn phần trong báo cáo kiểm toán tài chính quy đỊnh chung
File -> KIỂm toán nhà NƯỚc cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam

tải về 143.95 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương