Xin chân thành cảm ơn ! Hà Nội, ngày tháng năm Tác giả Trần Thị Xuân


Hình 9: Đồ thị so sánh chỉ số H’ , D động vật đáy tại các điểm thu mẫu



tải về 1.7 Mb.
trang8/17
Chuyển đổi dữ liệu13.07.2016
Kích1.7 Mb.
#1692
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   17

Hình 9: Đồ thị so sánh chỉ số H’ , D động vật đáy tại các điểm thu mẫu


Nhận xét:

Dựa vào đồ thị ta thấy 1

So sánh với kết quả năm 2011 của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật chỉ số Shannon – Weiner (H’) tại các điểm khảo sát trong hồ dao động trong khoảng từ 0,2 – 1,7 và tại các điểm W5, W6, W7 gần cống Trúc Bạch, W4 gần cống Đõ, 3, 4 gần cống Xuân La là những điểm có chỉ số đa dạng loài Shannon – Weiner (H’) dưới 1, các điểm này đang bị ô nhiễm nặng. Qua đây cho thấy có sự tương đồng về kết quả nghiên cứu, tuy nhiên chỉ số đa dạng loài tại các điểm này theo viện sinh thái tính toán giá trị nhỏ hơn so với đề tài. Nguyên nhân có thể do đợt thu mẫu của chúng tôi vào lúc hồ không bị ô nhiễm nặng.


    1. Phân tích các ngyên nhân ảnh hưởng đến Đa dạng sinh học và môi trường nước của Hồ Tây.

Sự suy giảm Đa dạng sinh học hiện nay có cả các nguyên nhân như: sự phá vỡ và mất nơi cư trú, sự ô nhiễm, sự biến đổi khí hậu toàn cầu và các hoạt động nông nghiệp lâm nghiệp, sự gia tăng dân số loài người, sự mở rộng nơi cư trú sinh thái của con người và sử dụng ngày càng nhiều năng suất sinh học của trái đất, khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hệ thống kinh tế thiếu sự định giá thích hợp cho môi trường. Có 2 loại nguyên nhân suy giảm Đa dạng sinh học:

Nguyên nhân trực tiếp: là tác động trực tiếp đến sự còn hay mất một loài cụ thể. Các nguyên này có thể là: Sự biến đổi khí hậu, sự xâm nhập của các loài ngoại lai, xây dựng cơ sở hạ tầng...

Nguyên nhân gián tiếp: là những nguyên nhân không tác động ngay đến sự còn hay mất của một loài cụ thể nào, song nó đóng vai trò quan trọng nhất trong việc gia tăng sự suy thoái Đa dạng sinh học bởi các nguyên nhân này chính là cơ sở của các nguyên nhân trực tiếp và phạm vi ảnh hưởng rất lớn trên nhiều vùng địa lý sinh học khác nhau. [4]

Mất và phá hủy nơi cư trú: là nguyên nhân quan trọng bậc nhất và trên thực tế là một nhóm các nguyên nhân cụ thể hơn.

Mất và phá hủy nơi cư trú bởi các hoạt động của con người: đó chính là tác động của việc thay đổi mục đích sử dụng tài nguyên sinh học như: sự pháp triển nông nghiệp đô thị, sản xuất công nghiệp thải lượng cacbon dioxit và các khí khác vào khí quyển, đốt các nhiên liệu có nguồn gốc cacbon như than, dầu và gas.... dẫn đến sự hủy hoại hoặc làm thay đổi điều kiện sinh thái, nơi cư trú của các loài sinh vật và kéo theo sự tuyệt chủng hoặc sự suy giảm số lượng và chất lượng quần thể sinh vật, kéo theo sự tan rã của cấu trúc quần xã và Hệ sinh thái. Việc cải tạo các Hệ sinh thái cho các mục đích kinh doanh có tính chuyên hóa cao hay việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ, các hóa chất công nghiệp đều góp phần phá hủy môi trường sống dẫn đến sự tiêu diệt của các loài côn trùng và vi sinh vật bản địa.

Sự gia tăng dân số

Đe dọa lớn nhất đối với Đa dạng sinh học là số lượng và tốc độ gia tăng dân số của loài người. Việc phá hủy các quần xã sinh học xảy ra nhiều nhất trong vòng 150 năm trở lại đây, trong thời gian này dân số loài người tăng từ 1 tỷ vào năm 1850 đến 2 tỷ vào năm 1930 và đến 5,9 tỷ vào năm 1995, tính đến tháng 7 năm 2013 dân số thế giới là hơn 7 tỷ người. Con người cũng khai phá, chuyển đổi rất nhiều diện tích đất đai vốn là những nơi cư trú tự nhiên của sinh vật hoang dã thành đất đai sử dụng cho nông nghiệp và làm nhà ở, xây dựng thành phố, khu công nghiệp cơ sở hạ tầng.

Riêng thành phố Hà Nội sau khi được mở rộng địa giới hành chính, năm 2008, dân số của thủ đô là 6,3 triệu người, đến tháng 12/2011 đã ở mức 6,87 triệu người. Còn tính đến thời điểm hiện nay, căn cứ theo mức biến động thì dân số Hà Nội lên tới 7,1 triệu người. Nếu theo tốc độ tăng dân số như hiện tại, đến năm 2015 dân số Hà Nội có thể lên đến 7,6 triệu người. Xét việc tăng dân số ở Hà Nội cho thấy, trong 4 năm (2008 – 2011) tăng khoảng 43 vạn. Trong đó, dân số tăng tự nhiên của Hà Nội khoảng 9 vạn người/năm. Tăng dân số cơ học cũng lên tới 5 vạn người/năm. Phân bố dân cư cho thấy khu vực nông thôn chỉ tăng lên gần hơn 12 vạn nhưng khu vực thành thị tăng lên hơn 31 vạn. Hiện nay, bình quân mật độ dân số chung của thành phố trung bình là 2,600 người/km2 .

Việc dân số Hà Nội tăng sẽ làm tăng nhân tố tiêu dùng đặc biệt các hàng hóa công nghiệp như: giao thông, nhà ở, trường học, trật tự xã hội và đặc biệt là ô nhiễm môi trường (ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước).

Để phục vụ cho đời sống của mình. Con người đã khai phá, chuyển đổi nhiều diện tích đất đai vốn là những nơi cư trú tự nhiên của sinh vật hoang dã thành đất đai sử dụng cho nông nghiệp và nhà ở, xây dựng thành phố, khu công nghiệp.

Theo số liệu của Ban quản lý Hồ Tây và quá trình thực địa của chúng tôi cho thấy có hơn 200 đơn vị, tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh xung quanh Hồ Tây (kể cả trên bờ ven hồ và trên mặt nước) . Số lượng tăng đáng kể so với kết quả điều tra năm 2011 của Viện Sinh thái và Tài nguyên môi trường[25]. Số lượng tăng lên đáng kể đặc biệt là các quán cafe.Trong đó, hầu hết các cơ sở hoạt động kinh doanh nêu trên đều có hiện tượng chiếm dụng vỉa hè quanh hồ. Hình thức chiếm dụng: kê bàn ghế, để xe máy, bán hàng nước, hàng ăn.Các đơn vị, cá nhân và tổ chức hoạt động kinh doanh ven Hồ Tây hầu hết là không có giấy phép kinh doanh hoặc có thì hầu hết là hết hạn sử dụng, rất ít các đơn vị kinh doanh đảm bảo điều kiện kinh doanh [25]. Các loại hình kinh doanh bao gồm: Khách sạn (từ 3-5 sao), nhà nghỉ, cửa hàng kinh doanh ăn uống giải khát, cơ sở dịch vụ giải trí, tham quan, mua sắm, ăn uống, công viên nước Hồ Tây, bể bơi Sao Mai, Câu lạc bộ Đua thuyền Hồ Tây, nhà hàng nổi,cửa hàng tạp hóa. Ngoài số lượng các đơn vị kinh doanh ven Hồ Tây (ở trên bờ) còn có một số doanh nghiệp có tàu du lịch, xuồng, thuyền hoạt động trên hồ: các du thuyền, nhà hàng nổi. Trong khi đó có rất ít các cơ sở kinh doanh có giấy xác nhận đăng kí đề án bảo vệ môi trường, giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, hợp đồng phục vụ vệ sinh môi trường, hợp đồng vận chuyển và xử lỷ rác thải sinh hoạt cho cơ quan có trách nhiệm (Ban quản lý Hồ Tây). [25]. Có thể nói tất cả các đơn vị doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh xung quanh Hồ Tây trực tiếp hoặc giám tiếp gây ảnh hưởng không ít thì nhiều đến chất lượng nước, đất, không khí khu vực Hồ Tây.



Ô nhiễm môi trường

Cho dù nơi sống không bị ảnh hưởng một cách trực tiếp do việc phá hủy hay chia cắt, nhưng các quần xã và các sinh vật sống trong đó có thể bị ảnh hưởng sâu sắc do các hoạt động khác của con người. Dạng nguy hiểm nhất của phá hủy môi trường là sự ô nhiễm. Có thể liệt kê một số nguyên nhân sau:

Ô nhiễm do thuốc trừ sâu: thuốc trừ sâu là nhân tố gây ô nhiễm nặng nề và được khuyến cáo từ năm 1962 (Rachel Carson, 1962). Thuốc trừ sâu DDT (Diclorodiphenyltricloroethene) và các loại thuốc trừ sâu có chất Clo hữu cơ khác là những chất không phân hủy hoàn toàn và được tích lũy tăng lên theo các bậc tháp của chuỗi thức ăn.

Trong nông nghiệp người nông dân dụng thuốc bảo vệ thực vật để diệt các loại côn trùng gây hại cho cây trồng, diệt ấu trùng cho các loài muỗi trong nước. Tuy nhiên thuốc bảo vệ thực vật không chỉ diệt côn trùng mà đồng thời giết hại những sinh vật có ích. Mặt khác, theo thời gian do các sinh vật gây hại bị nhờn hóa chất người nông dân sử dụng thuốc trừ sâu thường phải tăng nồng độ. Vì vậy lượng thuốc bảo vệ thực vật đưa vào không khí và môi trường nước càng lớn gây ô nhiễm không khí, ô nhiễm các yếu tố khác trong môi trường sống của con người.

Qua điều tra cho thấy khu vực xung quanh Hồ Tây có diện tích đất nông nghiệp 26,24 ha. Diện tích đất nông nghiệp xung quanh Hồ Tây được sử dụng chủ yếu để trồng rau màu, đặc biệt là các loại cây cảnh như đào, quất và các loại hoa ở Nhật Tân, Nghi Tàm, Quảng An. Hàng năm có một số lượng khá lớn phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật từ các hoạt động nông nghiệp đổ xuống hồ. Theo kết quả điều tra tình hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở đây cho thấy có nhiều loại thuốc diệt côn trùng được sử dụng như Monitor, Wofatox, Bassa, Pulichin...và các loại phân bón hóa học thường dùng CO(NH2)2 (phân Urê), phân tổng hợp NPK (là loại phân bón chứa cả Nitơ, Photpho và Kali) những hóa chất này sẽ ngấm vào nước ngầm và đổ vào hồ. Theo nghiên cứu của Viện sin thái và Tài nguyên sinh vật năm 2011 cho thấy những nhóm thuốc bảo vệ thực vật như HBC, DDE và DDT đều đã có mặt trong hồ tuy nhiên vẫn đang ở tiêu chuẩn cho phép [25]. Ngoài ra, làng Trích Sài với nghề dệt những hóa chất nhuộm đổ trực tiếp vào hồ gây ô nhiễm môi trường nước.

Ngoài chất thải do nông nghiệp, còn có chất thải do công nghiệp và chất thải sinh hoạt không được qua xử lý được đổ trực tiếp vào hồ trong các chất thải này ngoài ô nhiễm do các hợp chất hữu cơ, nó còn chứa một lượng kim loại nặng gây độc cho sinh vật.

Chúng tôi đã tiến hành điều tra các cống thải ở Hồ Tây cho thấy số lượng cống thải của Hồ Tây tương đối lớn như ở bảng 9.


Каталог: files -> ChuaChuyenDoi
ChuaChuyenDoi -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
ChuaChuyenDoi -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
ChuaChuyenDoi -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
ChuaChuyenDoi -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
ChuaChuyenDoi -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
ChuaChuyenDoi -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Văn Cường

tải về 1.7 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương