Xin chân thành cảm ơn ! Hà Nội, ngày tháng năm Tác giả Trần Thị Xuân



tải về 1.7 Mb.
trang6/17
Chuyển đổi dữ liệu13.07.2016
Kích1.7 Mb.
#1692
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

3.1.4.Kết quả điều tra khu hệ cá


Khu hệ cá Hồ Tây trước đây chịu ảnh hưởng của khu hệ cá sông Hồng. Theo GS. Mai Đình Yên (1999) [21], số loài cá có mặt ở Hồ Tây đều có thể gặp ở Sông Hồng là 27 loài chiếm 75%. Một số loài cá có thể khẳng định chắc chắn là di nhập từ sông Hồng vào là cá lành canh, cá chạch sông, cá vền, cá nhàng, vì những loài cá này không có mặt trong hồ. Nhưng những loài cá tự nhiên có những nét đặc trưng theo từng điều kiện sinh thái thích ứng. Có 3 nhóm cá thích ứng sinh thái chính:

  • nhóm cá tầng đáy hồ như cá trê thuộc họ cá trê, lươn thuộc họ mang liền sông ớ đáy bùn.

  • Nhóm cá tầng đáy và giữa thường là các loài cá diếc, cá dầu.

  • Nhóm cá tầng mặt thường là các loài cá ăn thực vật như cá mè, cá mương.

Đến mùa sinh sản, nhiều loài cá tập trung thành đàn chủ yếu ở tầng mặt như cá diếc... song hầu hết các loài cá Hồ Tây khó tập trung thành đàn vì hồ luôn bị khuấy động. Chỉ ở những khu vực tương đối yên tĩnh, đáy hồ tương đối bằng phẳng như chùa Trấn Quốc đôi khi còn gặp đàn cá mè, cá trôi. Trong khu hệ cá Hồ Tây có một số loài thuộc sách đỏ như cá vền, cá trắm đen... Có một số loài mới mô tả như cá bống, cá dầu...

So sánh các kết quả nghiên cứu trước đây của Đào Văn Tiến, Đặng Ngọc Thanh (2002)[14], Vũ Đăng Khoa (1996) [13], Mai Đình Yên (2001)[21] thành phần cá tự nhiên của Hồ Tây càng ngày càng bị thu hẹp, trong khi đó thành phần cá nuôi ngày một tăng lên. Do việc nuôi thả và đánh bắt nên thành phần loài luôn bị thay đổi.

Theo Mai Đình Yên (2001) [21] khu hệ cá Hồ Tây có 39 loài thuộc 13 họ, trong đó họ cá chép Cyprinidae chiếm ưu thế với 23 loài (gần 50%). Các họ cá rô (anabantidae), cá quả (Ophiocephalidae), cá bống ao (Eleotridae), cá rô phi (Cichlidae) mỗi họ có 2 loài (chiếm 5,13%). Các loại cá còn lại như cá trê (Clarridae), họ cá nheo (Siluridae), họ cá sóc (Cyprinodonlidae), họ cá ngạnh (Bagridae), họ cá mang liền (Flutidae), họ chạch (Cobitidae), họ chạch sông (Mastacembelidae) và họ cá trổng (Engranlidae) mỗi họ có 1 loài (chiếm tỷ lệ 2,56%) thành phần và số lượng từng loài như sau[21]:



Hình 7: Khu hệ cá ở Hồ Tây (nguồn: Mai Đình Yên năm 2001)[21]

Tuy nhiên qua kết quả điều tra của đề tài chúng tôi hiện tại Hồ Tây có 48 loài cá thuộc 14 họ. Số lượng và thành phần loài cá được thể hiện ở phục lục 5. Trong đó họ cá chép Cyprinidae chiếm ưu thế với 29 loài (chiếm 60,43%), họ cá rô phi 3 loài chiếm (6,25%), 4 họ gồm: họ cá bống đen, họ cá nheo, họ cá rô, họ cá quả mỗi họ có 2 loài (chiếm 4,17%), 8 họ còn lại họ cá trổng, họ chạch, họ cá ngạnh, họ cá trê, họ mang liền, họ chạch sông, họ cá bống trắng, họ cá sóc mỗi họ có 1 loài chiếm (2,08%). Được thể hiện như hình 8.





Hình 8: Khu hệ cá Hồ Tây năm 2013

Qua kết quả cho thấy các loài cá của Hồ Tây có tăng so với trước đây. Nhưng chủ yếu là các loài ngoại lai không phải là loài bản địa. Các loài cá này được thả vào với mục đích nuôi trồng thủy sản. Trong khu hệ cá Hồ Tây, cơ cấu đàn cá nuôi bao gồm các loài cá mè trắng, mè hoa, chép, trắm, trôi Ấn Độ chiếm ưu thế. Cá là nguồn lợi thủy sản lớn của Hồ Tây. Tại Hồ Tây, Công ty khai thác cá Hồ Tây đã tiến hành nuôi trồng và đánh bắt thủy sản với sản lượng cá bình quân hàng năm khoảng 300 – 600 tấn.

Hàng năm, cá con được thả vào hồ từ 2,6 – 5,3 triệu cá giống các loại với mật độ trung bình là 6.822 con/ ha hoặc 46kg/ ha. Tổng số ước tính 2.200.000 – 2.500.000 con.

Thống kê sản lượng cá khai thác và tiêu thụ hàng năm từ 267 đến 438 tấn đạt năng suất 646 – 1170 kg/ha. Trong vòng 20 năm (từ 1979 – 1998) là 6579 tấn, trung bình 346 tấn/ năm: trong đó 16 năm (từ 1978 – 1994) là 4771 tấn, bình quân 298 tấn/ năm và 3 năm (1995 – 1998) đạt 1808 tấn, trung bình 600 tấn/ năm. Từ đó có thể thấy sản lượng cá khai thác từ năm 1979 đến 1998 tăng lên đáng kể.Tuy nhiên, hiện nay Hồ Tây đã và đang trở thành trung tâm du lịch của Hà Nội, là nơi danh lam thắng cảnh vì vậy nước hồ phải được giữ trong sạch. Nguồn lợi thủy sản của hồ theo thống kê ngày càng giảm, nó được thể hiện ở sản lượng khai thác cá Hồ Tây trong vòng 11 năm trở lại đây.



Bảng 6: Kết quả khai thác thuỷ sản ở hồ Tây trong vòng 11 năm trở lại đây

(Đơn vị tính: kg)



Năm

Tổng Sản phẩm

Các loại cá

Cá mè

Cá Trôi

Cá chép, trắm đen

Dầu

Tôm

2001

706846

686995

596766

11083

55274

23872

19851

2002

701546

677488

578386

14128

43379

41235

24418

2003

553791

533606

444916

16100

39216

33374

20185

2004

594896

580120

497515

15156

30519

37030

14676

2005

456104

442557

379894

5565

40476

16622

13547

2006

228086

209853

181859

4668

18535

14791

8233

2007

302769

289320

245922

25414

12708

5276

13449

2008

311884

306245

257245

28773

14333

5894

5639

2009

353894

350725

263045

55327

27732

6321

3169

2010

320288

316832

221782

67144

22382

5524

3456

2011

306863

306863

285510

17568

3785

0

0

2012

301283

301283

282040

16670

3567

0

0

(Nguồn: Công ty khai thác cá hồ Tây, 2012)

Theo kết quả bảng 6 cho thấy trong các loại cá nuôi ở Hồ Tây, cá mè (bao gồm cả mè hoa và mè trắng) cho năng suất cao hơn cả chiếm khoảng 70-85% sản lượng cá trong hồ, tiếp đến là cá trôi, cá trắm cỏ, cá chép và hiện nay cá trắm đen trong hồ còn rất ít. Sự ô nhiễm môi trường nước ở Hồ Tây những năm gần đây ngày càng tăng dẫn đến hiện tượng cá chết hàng loạt và đặc biệt là trai ốc giảm đáng kể. Do ốc là nguồn thức ăn chính của cá trắm đen bị cạn kiệt nên rất hiếm gặp cá trắm đen, đặc biệt là trắm đen loại to.



      1. Kết quả điều tra về thành phần loài thực vật bậc cao

Thực vật thủy sinh Macrophyta ở Hồ Tây trước đây có khoảng 18 loài phát triển mạnh ở vùng ven bờ [9]. Những thực vật này có thể chia thành 3 nhóm sinh thái: nhóm trôi nổi tự do, nhóm sống trong nước, nhóm có lá nổi trên mặt nước. Đến nay thành phần về loài của thực vật thủy sinh Macrophyta cũng bị giảm đi. Theo một số tác giả thì nguyên nhân chủ yếu của việc các loài thực vật thủy sinh Macrophyta giảm có lẽ là do sự khai thác quá mức của con người và cũng có thể đồng thời do tảo phát triển mạnh, làm cho mật độ tảo và vi khuẩn lớn, độ đục cao vì vậy đã cản trở độ xuyên sâu của ánh sáng khiến cho các loài thực vật nhạy cảm với ánh sáng bị chết, dẫn đến số lượng của chúng giảm dần đi. Mặt khác để làm trong sạch lòng hồ, tránh ô nhiễm nên hàng ngày Xí nghiệp môi trường vẫn cử người đi thu dọn, vét hết bèo và rong rêu ở lòng hồ vì vậy hiện nay thực vật thủy sinh lớn ở Hồ Tây còn rất ít. Trong đó, thực vật thủy sinh lớn chủ yếu ở khu vực phía đông của hồ, Súng trước năm 2011 còn rất ít [10], ở phía cạnh Khách sạn Thắng Lợi, tuy nhiên hiện nay đã không còn nữa. Còn lại Bèo Tây và rong, còn không đáng kể. Ngoài ra có một số thực vật ngoại lai như cây Thủy Trúc... mới xuất hiện do đề án của Viện Sinh thái và Nguyên sinh vật thực hiện năm 2011 [25].

Theo kết quả điều tra của chúng tôi, trong vùng lân cận và ven hồ đã xác định có 33 loài thực vật thủy sinh thuộc khu vực hồ Tây và xung quanh nằm trong 19 họ thuộc hai ngành: Dương xỉ (Polypodiophyta) và Thực vật hạt kín (Angiospermae)(số lượng và thành phần loài được trình bày ở phụ lục 4). Trong thành phần Thực vật thủy sinh, đáng kể nhất là các loài thuộc Ngành thực vật hạt kín với 3 dạng sống:

1/ các loài nửa ngập nước (emergent) bao gồm các loài sen, súng, sậy…

2/ các loài ngập nước hoàn toàn (subergent) như các loài rong,...

3/ các loài sống trôi nổi (floating) như các loài bèo.

Các loài trước đây có mật độ số lượng cao như các loài Rong đuôi chó (Ceratophyllum demersum), Rong đuôi chồn (Myrriophyllum verticillatum), Rong mái chèo (Vallisneria spiralis), Rau muống (Ipomoea aquatica), Bèo Nhật Bản (Eichhornia crassipes) đến nay còn rất ít, chỉ còn sót lại ở một vài điểm ven hồ, còn phần lớn đã bị các nhân viên của Xí nghiệp Môi trường dọn sạch trong khu vực lòng hồ. Các loài tạo cảnh quan đẹp như Sen (Nenumbo nucifera), Súng (Nuphar pumilum), Rong đuôi chó (Ceratophyllum demersum)..., làm rau ăn như Rau muống (Ipomoea aquatica Forsk.) cũng còn rất ít trong phạm vi nhỏ ở ven hồ.

Khu vực các loài thực vật thuỷ sinh còn tồn tại không nhiều, tập trung ở phần phía Bắc hồ nơi không bị tác động mạnh của dòng nước thải của các khu dân cư đổ ra. Như trên đã nêu cây Sen chỉ còn tồn tại ở khu vực phủ Tây hồ đến công viên nước với diện tích không lớn. Các nghiên cứu đã cho thấy thực vật ngập nước là một thành phần tự dưỡng trong hệ sinh thái thuỷ vực nước đứng dạng đầm, hồ, ao. Việc xuất hiện các nhóm thực vật ở nước ở một giới hạn nhất định sẽ không gây cảm giác trống trải, đơn điệu mà còn góp phần tạo một cảnh quan đẹp hài hoà cho thuỷ vực. Do đặc tính dinh dưỡng, thực vật ngập nước hấp thụ các chất dinh dưỡng vô cơ có nguồn gốc ni tơ và phốt pho từ lớp trầm tích đáy (các nhóm rau, sen, súng, sậy, rong...) hoặc hấp thụ dinh dưỡng hoà tan trong tầng nước mặt (các nhóm thực vật sông trôi nổi như các loài bèo) bởi vậy hầu hết các nhóm thực vật ngập nước được xem như có khả năng làm sạch môi trường thuỷ vực rất tốt thông qua thu nạp các chất dinh dưỡng, các kim loại nặng và nhiều chất gây ô nhiễm khác, làm giảm hàm lượng các chất này trong nước, trong trầm tích của thuỷ vực.

Một năm trở lại đây, khu vực Hồ Tây cũng đã có một số cơ quan nghiên cứu như Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật [25] đến đặt một vài bè thủy sinh vật gồm nhiều loại thực vật khác nhau có vai trò làm sạch nước hồ. Tuy nhiên số lượng đó rất ít, chỉ mang tính chất nghiên cứu chứ chưa đem lại hiệu quả đáng kể.





      1. Kết quả điều tra về thành phần loài chim ở Hồ Tây

Qua tổng hợp thông tin Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật [25], thu thập mới số liệu từ điều tra và phỏng vấn. Thành phần loài chim đang có mặt tại Hồ Tây xác định được 24 loài thuộc 15 họ và 6 bộ. (Thành phần loài theo phụ lục 6)

Số lượng loài giảm đi đáng kể so với năm 2002 đã xác định được 43 loài, 26 họ, thuộc 10 bộ. Sự giảm đi đáng kể các loài chim do chúng mất đi nơi cư trú. Qua phỏng vấn người dân cho biết trước đây vào mùa xuân từng đàn chim sâm cầm về đậu trên các cây bụi ở bờ Hô Tây với số lượng rất lớn. Tuy nhiên giờ đây số lượng sâm cầm chỉ vài cá thể riêng lẻ. Do khi kè bờ đã phá hết tất cả các cây bụi ven bờ Hồ Tây. Mặt khác, do sự đô thị hóa, du lịch, con người xuất hiện rất nhiều và rất ồn ào vì vậy không phù hợp với môi trường sống của các loài chim.



      1. Kết quả điều tra về thành phần loài lưỡng cư bò sát

Qua khảo sát của chúng tôi đã xác định lưỡng cư bò sát gồm 8 loài thuộc 4 họ. Thành phần loài và số lượng lưỡng cư – bò sát không nhiều (thành phần loài theo phụ lục 7). Trong đó sự xuất hiện của rùa tai đỏ là mới có mấy năm gần đây chủ yếu là do người dân phóng sinh vào những dịp ngày lễ tết. Rùa tai đỏ là loài ngoại lai nên cần được lưu ý đặc biệt.

Số lượng lưỡng cư và bò sát ở Hồ Tây rất ít cả về số loài lẫn số lượng cá thể. Nguyên nhân môi trường sống không phù hợp, số lượng cây thủy sinh ở Hồ Tây không đáng kể. Mặt khác, Hồ Tây đã kè bờ toàn bộ hồ và không có cây bụi trên bờ do vậy không có nơi ẩn náu cho các cá thể trưởng thành.



    1. Каталог: files -> ChuaChuyenDoi
      ChuaChuyenDoi -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
      ChuaChuyenDoi -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
      ChuaChuyenDoi -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
      ChuaChuyenDoi -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
      ChuaChuyenDoi -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
      ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
      ChuaChuyenDoi -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
      ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN
      ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Văn Cường

      tải về 1.7 Mb.

      Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương