Việt 7- tienve org Chủ nghĩa hậu hiện đại: những khái niệm căn bản


Tri Thức Dưới Quan Điểm Hậu Hiện Đại



tải về 0.57 Mb.
trang2/6
Chuyển đổi dữ liệu11.09.2017
Kích0.57 Mb.
#33071
1   2   3   4   5   6

Tri Thức Dưới Quan Điểm Hậu Hiện Đại

Khai triển từ luận văn của J.F. Lyotard, Sarup [29] đã phân tích một cách khá chi tiết về tổ chức của tri thức theo lý thuyết của chủ nghĩa hậu hiện đại. Trong xã hội hậu hiện đại, tri thức không những được đặc trưng bởi tính chất ứng dụng, mà còn có thể phân phối, dự trữ, và sắp xếp: Tri Thức thuần tuý là một hiện tượng, một sản phẩm, do đó nó mang đầy đủ tính chất của một vật thể có giá trị trao đổi. Đi xa hơn, như Sarup đã nhấn mạnh theo lý luận của Lyotard, trong xã hội hậu hiện đại, bất cứ một loại tri thức nào mà không được mã hoá để nhận biết và lưu trữ bởi máy điện toán, thì không còn được xem là tri thức. Dựa theo khuôn mẫu này, đối lập với tri thức không còn là sự dốt nát như các cặp đối lập nhị phân trong chủ nghĩa hiện đại, mà là tạp hiệu (noise). Tạp hiệu được dùng để chỉ một cái gì đó không nhận thức được trong khuôn mẫu hậu hiện đại, tín hiệu không chuyên chở một thông tin có nghĩa nào.

Theo chủ nghĩa hậu hiện đại, tri thức không phải chỉ thuần tuý làm giàu kiến thức cá nhân, mà nhấn mạnh đến khía cạnh chức năng, tri thức học hỏi để hành động chứ không phải chỉ để biết. Vì vậy, trong các xã hội tây phương chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại, chính sách giáo dục thường được chú ý đến phương diện thực tiễn, tạo một sự liên kết chặt chẽ giữa giáo dục và hướng nghiệp.

Sau hết, làm thế nào để xác định tri thức và tạp hiệu? Chủ nghĩa hậu hiện đại không đưa ra một định nghĩa rõ ràng làm thế nào để phân biệt hai lãnh vực này, thay vào đó, dựa vào Ký Hiệu Học hậu hiện đại, tri thức là một hành động giải trình ngôn ngữ trước một hiện tượng, một sự kiện, một tạo vật…, còn đối với Lyotard, tri thức là một "trò chơi ngôn ngữ" (language game). Từ cách đặt vấn đề như thế chúng ta có thể phân biệt rõ ràng sự khác biệt giữa hai quan niệm tri thức hiện đại và hậu hiện đại. Tri thức theo quan niệm của chủ nghĩa hiện đại là sự phản ánh sự thật khách quan từ một hiện tượng, được làm rõ bản chất thông qua phương tiện khoa học. Nó trở thành tấm gương soi cho sự thật của vật thể và thế giới. Dưới lăng kính của chủ nghĩa hậu hiện đại, tri thức tự thân của nó cũng là một hiện tượng, được diễn dịch một cách chủ quan bằng giải trình ngôn ngữ, một quá trình hoàn toàn phụ thuộc vào kinh nghiệm cá nhân. Nói khác đi, không có tri thức khách quan và có trở thành tri thức cho một cá nhân hay không là dựa vào kinh nghiệm cá nhân cảm nhận hiện tượng. Lấy ví dụ, đối với một nhà phê bình văn học, hiểu biết những vấn đề về văn chương là điều tối cần thiết, nên sự ra đời một tác phẩm có thể loại hoàn toàn mới, sẽ trở thành một tri thức vì chưa bao giờ anh ta gặp một thể loại như thế từ trước, trái lại, tác phẩm đó rơi vào tay một anh lái buôn, anh ta không thấy hứng thú đọc tiếp, đối với bản thân anh ta nó là thứ anh ta không cần phải biết, tác phẩm biến thành một tạp hiệu.


Mỹ Học Theo Quan Điểm Hiện Đại và Hậu Hiện Đại

Theo một nghĩa rất hạn hẹp, chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại gắn liền với những khuynh hướng mỹ học có tính chất đặc trưng cho thời kỳ hiện đại thời kỳ hậu hiện đại. Như đã khảo sát ở phần đầu, chủ nghĩa hiện đại xuất hiện vào giai đoạn sau cùng của thời kỳ hiện đại (cuối thế kỷ thứ 19) với những đại diện tiêu biểu như: Joyce, Yeats, Gide, Proust, Rilke, Kafka, Mann, Musil, Lawrence và Faulkner (Văn Chương); Rilke, Pound, Eliot, Lorca, Valéry (Thi Ca); Strindberg, Pirandelo và Wedekind (Kịch); Matisse, Picasso, Braque, Cézanne và những trường phái Vị Lai, Biểu Hiện, Đa Đa, Siêu Thực, trong hội hoạ; Stravinsky, Schoenberg và Berg (Âm Nhạc). Những đặc điềm mỹ học của chủ nghĩa hiện đại có thể tóm tắt như sau (2): nhấn mạnh đến sự diễn tả quá trình nhận thức xảy ra như thế nào hơn là những gì được cảm nhận, sử dụng hình thức ấn tượng và nêu bật vai trò chủ thể trong hành văn, như trường hợp lối viết của thể loại dòng ý thức (stream of consciousness) trong tác phẩm của James Joyce; loại trừ lối viết tự sự, bắt nguồn từ một ngôi thứ ba thông suốt hết mọi sự, có cảm quan cố định và một làn ranh rõ ràng về đạo đức; xoá nhoà sự tách biệt giữa các thể loại, do đó thơ đến gần với văn xuôi (trường hợp Eliot) và văn xuôi đến gần với thơ (trường hợp của Woof và Joyce); tác phẩm mỹ thuật có dạng thức phân đoạn, không liên tục và là một kết hợp ngẫu nhiên nhiều chất liệu; tác phẩm mang nhiều sắc thái nội hướng, ý thức bản ngã của tác giả, để mỗi sáng tác mang một ý nghĩa mỹ học tự thân; và sau cùng là sự chối bỏ các lý thuyết mỹ học khuôn sáo để tiến đến sự ngẫu hứng và khám phá sự sáng tạo, phủ nhận sự phân biệt các dạng thức cao thấp trong mỹ học.

Quan điểm mỹ học hậu hiện đại mang những đặc điểm như: xoá nhoà ranh giới giữa nghệ thuật và đời sống thường ngày; phá bỏ những giai tầng văn hoá quý phái và văn hoá đại chúng; phủ nhận tính chất nguyên thuỷ của một tác phẩm nghệ thuật và cho rằng nghệ thuật cũng chỉ là một hiện tượng lập lại; nhấn mạnh đến phong cách trộn lẫn giữa nhân vật và sự can thiệp của chính tác giả vào tác phẩm; tính chất kết dính nhiều mảng kết cấu khác nhau trong cùng một tác phẩm, tựa như một bức tranh khảm có nhiều chất liệu dị biệt, là điều khá phổ biến trong các tác phẩm hậu hiện đại. Nghệ thuật hậu hiện đại cũng có nhiều điểm tương đồng với quan niệm mỹ học hiện đại, như sự soi rọi nội tâm, ý thức bản ngã, cách đoạn và không liên tục, tính đồng diễn… Nhưng ngược lại, thái độ của chủ nghĩa hậu hiện đại trong mỹ học là phi cấu trúc, phi tâm hoá và từ chối vai trò chủ thể của con người, một sự tiếp nhận, mô tả hiện tượng không suy diễn, không chú ý đến chiều sâu, không diễn dịch bản chất sự vật theo chủ quan tác giả; thay vào đó, tác giả cũng tham gia vào một trò chơi ngoại biểu, tạo ra những đối kháng có tính chất mỉa mai và châm biếm để người đọc tự tìm thấy trong tác phẩm và nếu cần tác giả sẽ chủ động lôi kéo người đọc vào trò chơi đó.

Quan điểm mỹ học hiện đại vẫn còn mang nặng tính chất đại tự sự, khi nhiều công trình nghệ thuật được sáng tác để mang một thông điệp cho loài người biết rằng, nghệ thuật hiện đại có khả năng tạo ranhững tác phẩm có sự đồng nhất, kết cấu chặt chẻ và mang những ý nghĩa của đời sống mà chính sự phát triển các phương tiện hiện đại đã làm chúng biến mất. Nghệ thuật hiện đại tự khoác cho nó một vai trò lịch sử to lớn để tái tạo lại những gì mà các thể chế khác của nhân loại đã bó tay. Nói chung, nền mỹ học hiện đại, giống như chủ thuyết khai sinh ra nó, vẫn bị ảnh hưởng nặng nề bởi những niềm tin vào khả năng vô hạn của con người, một khả năng dựa hẳn vào tính chất tuyệt đối của sự thật phát hiện bởi các phương tiện khoa học.

Chủ nghĩa hậu hiện đại, trái lại, xem mỹ học cũng như các vật thể giả tạo khác mà hiện thực hoàn toàn bị khuất lấp sau những hiện tượng, những Simulacrum. Càng nhiều hiện tượng, “hiện thực” càng được làm đầy thêm (hyper-reality) và vai trò của nghệ thuật chỉ thuần tuý là tham gia vào trò chơi hỗn loạn giữa các vật thể giả tạo đó, và việc có tin tưởng vào hiện thực biểu hiện hay không là hoàn toàn tuỳ thuộc vào kinh nghiệm cá nhân của người đọc, tuỳ thuộc vào nền văn hoá mà họ đang sinh hoạt và tuỳ vào khả năng phản ánh hiện thực thông qua hành động giải trình ngôn ngữ, và cứ như thế mà mỹ học hậu hiện đại cứ kéo dài sự diễn dịch ra ngoài mọi biên cương để tiến về nơi bất tận.

Đối với văn học Việt Nam, sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại gần như chưa có một dấu ấn nào đáng kể (xem thêm bài viết của Nguyễn Hưng Quốc trong số này). Cũng có một số “đại học giả” kiến nghị rằng chúng ta nên giữ một thái độ bao dung và thể tất tối đa với văn học nước nhà, không nên vì cái mới mà xoá bỏ cái cũ. Tôi đồng ý, bảo vệ nền văn học (và rộng hơn là văn hoá) truyền thống của dân tộc là chuyện nên làm; nhưng tôi cảm thấy bị lạc trong “cao trào văn hoá truyền thống” đó. Truyền thống là một giải trình ngôn ngữ văn hoá, chúng ta sẽ không bao giờ mất, bởi tự thân giải trình ngôn ngữ văn hoá này xuất phát từ quan điểm cá nhân rất Việt Nam đã thâm căn cố đế trong máu huyết của mỗi một chúng ta (có ai nhìn tà áo dài Việt Nam mà bảo rằng đó là cái váy đâu). Cái còn lại mà chúng ta sẽ mất là đà tiến hoá của nhân loại. Khi thế giới đang vượt lên trên mọi giới hạn của dân tộc và biên giới quốc gia để tạo nên một cách nhìn đa nguyên về cuộc sống, để tạo nên một sự hoà trộn giữa các nền văn hoá nói chung và văn học nói riêng, lẽ nào chúng ta cứ ôm giữ mãi một đại tự sự “độc tôn”: Việt nam là đỉnh cao của trí tuệ và lương tri của loài người. Một đại tự sự đã làm cho những trí óc siêu việt chứng minh một cách rất “khoa học và biện chứng” rằng củ mì có chất đạm cao hơn thịt bò. Một đại tự sự đã làm cho ai đó ở Tây ba năm, ở Mỹ nửa đời niên thiếu, vẫn nặng lòng với dân tộc, để hô hào bảo vệ nền văn hoá truyền thống dân tộc, vì e rằng văn hoá Âu Mỹ sẽ ăn tươi nuốt sống nền văn học Việt Nam. Chủ nghĩa hậu hiện đại không những không phá huỷ nền văn hoá dân tộc mà ngược lại, còn cổ xuý cho sự phát triển tính đa dạng của các nền văn hoá (và văn học) nhỏ bé đó. Chỉ có điều nên thể hiện nó dưới một quan điểm mới hơn, lạ hơn và thú vị hơn. Để làm được như vậy, không phải chúng ta có nên bao dung với nền văn học nước nhà hay không, mà thực ra những kẻ hô hào bao dung đó phải từ bỏ những Đại Tự Sự kiểu như: dân tộc ta thông minh có thừa… Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng vân vân. May ra văn học Việt có được một lối đi mới mẻ trong kỷ nguyên tới.



_________________________

[1]Mary Klages, Postmodernism đăng trên trang web: http://www.colorado.edu/English/ENGL2012Klages/pomo.htm

[2]Baudrilla, J. (1996) Disneyworld Company đăng trên nhật báo xuất bản tại Paris: Liberation ngày 4 tháng 5 năm 1996, bản dịch Anh ngữ của Francois Debris.

[3]Epstein, M. On the place of Postmoderism in Postmordernity in the book Russian Postmodernism: New perspectives on Post-Soviet Culture. New York, Oxford: Berghalm Books (1999), pp. 456-468.

[4]Bell, D. (1976) The Cultural Contradictions of Capitalism. London: Heinemann, p. 50.

[5]Oden, T. C. (1992) Two Worlds: Notes on the Death of Modernity in America and Russia. Downers Grove, Illinois: InterVarsity Press. P32.

[6]Bock, K. (1979) Theory of Progress, Development, Evolution in Bottomore, T. and Nisbet, R. A history of Sociological Analysis. London: Heinemann. Calinescu, M. (1977) Faces of Modernity. London: Indiana University Press. Habermas, J. (1981) Modernity versus Postmodernity. New German Critique, 22:9.

[7]Smart, B. (1990) Modernity, Postmodernity and Present in Turner, B. S. (1991) Theories of Modernity and Postmodernity. London: SAGE Publ, p17.

[8]Benjamin, W. (1973) Illumination. London: Fontana, p196.

[9]Harbemas, J (1987) The Philosophical Discourse of Modernity. Cambridge: Polity, p8.

[10]Berman, M. (1983) All that is Solid Melts in Air. London: Verso, p40.

[11]Calinescu, M. (1977) Faces of Modernity. London: Indiana University Press, p4.

[12]Sách đã dẫn trong (14), p41.

[13]Lash, S. (1987) Modernity or Modernism: Weber and contemporary social theory, in Whimster, S. and Lash, S (eds) Max Weber, Rationality and Modernity. London: Allen and Unwin.

[14]Flax, J. (1990) Thinking Fragments: Psychoanalysis, Feminism, and Postmodernism in the Contemporary West. California: The University of California Press, p41.

[15]Featherstone, M. In Pursuite of the Postmodern: An Introduction. In Theory, Culture & Society Volume 5, 195-215. London: SAGE Publication, 1988.

[16]Toynbee, A. (1939) A Study of History. Volume 5. Oxford: Oxford University Press, p43.

[17]Best, S. and Kellner, D. (1991) Postmodern Theory: Critical Interrogations. New York: Guiford Press. Introduction of Chapter 1.

[18]Lyotard, J. F. (1979) The Postmodern Condition: A Report on Knowledge. Translated by Geoff Bennington and Brian Massumi, Manchester: Manchester University Press (1984).

[19]Hassan, I. (1985) Theory, Culture and Society. Postmodern Culture, 2(3): 119-131.

[20]Huyssen, F. (1984) Mapping the Postmodern. New German Critique 33.

[21]Jameson, F. (1984) Postmodernism, or the Cultural Logic of Late Capitalism. New Left Review 146.

[22]Lemke, J. L. (1994) Semiotics and the Deconstruction of Conceptual Learning. J. Soc. For Accelerative Learning and Teaching.

[23]Lyotard, J. F. (1979) The Postmodern Condition: A Report on Knowledge. Translated by Geoff Bennington and Brian Massumi, Manchester: Manchester University Press, 1984).

[24]Beinstein, R. (1985) Habermas and Modernity. Oxford: Polity and Richters, A. (1988) Habermas and Foucault. Theory, Culture & Society: Vol 5, No. 4.

[25]Foucault, M. (1969) The Archaeology of Knowledge and The Discourse on Language. New York: Pantheon Books, 1972. Chapter 1: The Unities of Discourse.

[26]Lemke, J. L. (1989) Social Semiotics: A new model for literacy education. In D. Bloome Edition. Classrooms and Literacy, pp 289-309. Norwood, New Jersey: Ablex Publishing.

[27]Lemke, J. L. (1985) Ideology, Intertexuality, and The Notion of Register. In Benson, J. D. and Greaves, W. S. Editions: Systemic Perspectives on Discourse, pp 275-294. Norwood, New Jersey: Ablex Publishing.

[28]Woolley, M. (1996) Beyond Simulation: Production and the Nostalgia Industry. SSPP.net Vol.2, No.1, Sep. 1999.

[29]Sarup, M. (1993) An Introduction Guide to Post-Structuralism and Postmodernism. Atlanta: University of Georgia Press.

Chủ nghĩa hậu hiện đại là gì? (Jencks, Charles)
Phan Việt Thuỷ chuyển ngữ
Thời Hiện Đại, cái từ có âm hưởng chừng như sẽ tồn tại mãi mãi, đã nhanh chóng trở thành một điều thuộc về quá khứ. Kỹ nghệ hoá đã nhanh chóng nhường bước cho Hậu-kỹ nghệ hoá, lao động trong nhà máy đã chuyển về tư gia và văn phòng; trong lãnh vực nghệ thuật, truyền thống của Cái Mới đang dẫn đến sự kết hợp của nhiều truyền thống. Ngay cả những người tự cho mình là những nghệ sĩ và kiến trúc sư hiện đại cũng đang nhìn ngoái ra sau hay hai bên cạnh để quyết định xem những phong cách và giá trị nào họ sẽ tiếp tục.

Thời hậu hiện đại là thời đại của sự lựa chọn không ngừng. Đó là một thời đại không có sự chính thống nào có thể được tiếp nhận mà không có sự tự ý thức và châm biếm (irony), bởi vì tất cả mọi truyền thống dường như đều có những giá trị nhất định. Điều này phần nào là hệ quả của cái gọi là sự bùng nổ thông tin, sự tiếp cận của những kiến thức được hệ thống hoá, hệ thống truyền thông và điều khiển học toàn cầu. Đó là một thời đại không phải chỉ thuộc về những người giàu có, những kẻ chỉ biết thu thập, những kẻ du hành chiết trung qua thời gian với thật nhiều khả năng lựa chọn, nhưng hầu như thuộc về mọi cư dân ở thành thị. Chủ nghĩa đa nguyên, cái "chủ nghĩa" của thời đại chúng ta, vừa là một vấn đề lớn vừa là một cơ hội lớn: nơi mỗi người đàn ông trở thành một công dân thế giới và mỗi người đàn bà là một cá nhân được giải phóng; nơi sự lẫn lộn và lo âu trở thành tâm thế chủ đạo và sự bắt chước trở thành một hình thức phổ thông của nền văn hoá đại chúng. Đây là cái giá mà chúng ta phải trả cho thời hậu hiện đại, nó cũng nặng nề như tính chất đơn điệu, giáo điều và nghèo nàn của thời hiện đại. Nhưng, mặc dù có nhiều nỗ lực ở Iran và nhiều nơi khác trên thế giới, người ta không thể trở lại với nền văn hoá và hình thức kỹ nghệ trước đây, nhằm áp đặt một tôn giáo duy bản luận hay ngay cả một thứ chính thống giáo hiện đại được. Một khi hệ thống truyền thông toàn cầu và hình thức sản xuất điều khiển học đã xuất hiện, chúng sẽ sáng tạo nên nhu cầu của chúng và ngay cả chiến tranh nguyên tử cũng không thể đảo ngược được.

Thách đố đối với những Hamlet hậu hiện đại, đương đầu bởi một sự giàu có đến choáng ngợp, là lựa chọn và kết hợp những truyền thống tinh tuyển, là chiết trung (động từ "chiết trung", "to eclet" xuất phát từ danh từ "chủ nghĩa chiết trung", eclecticism) những khía cạnh của quá khứ và hiện đại, những khía cạnh có vẻ thích hợp nhất đối với công việc chúng ta đang làm. Những sự sáng tạo như là hệ quả của việc làm này, nếu thành công, sẽ là một sự tổng hợp đặc sắc của truyền thống; còn không thì cũng giống như thêm một món vào bữa ăn. Giữa sự kết hợp đầy tính phát minh và sự nhai lại lộn xộn, những nhà hậu hiện đại ra khơi, thường bị lạc hướng và thất bại, nhưng thỉnh thoảng họ cũng nhận ra sự hứa hẹn lớn lao của một nền văn hoá đa nguyên với rất nhiều tự do. Chủ nghĩa hậu hiện đại trên căn bản là một thứ hỗn hợp mang tính chiết trung của bất cứ truyền thống nào với những gì vừa mới qua: nó vừa là sự kế tục vừa là sự siêu việt hoá của chủ nghĩa hiện đại. Những tác phẩm xuất sắc nhất của nó có đặc điểm là mang tính lưỡng mã (double-coded) và tính châm biếm (irony), tạo thành một đặc điểm của sự lựa chọn rộng rãi, xung đột và bất liên tục của truyền thống, bởi vì tính đa tạp này tô đậm rất rõ nét chủ nghĩa đa nguyên của chúng ta. Phong cách lai ghép của chủ nghĩa hậu hiện đại đối lập với chủ nghĩa thiểu tố (minimalism) của ý thức hệ hậu kỳ hiện đại chủ nghĩa (Late-modernism) và phục hồi những gì vốn dựa trên một thị hiếu hay một tín điều độc đoán.

Ít nhất đây là những gì làm tôi xem chủ nghĩa hậu hiện đại là một trào lưu văn hoá và là một thời kỳ lịch sử. Nhưng, như bạn đọc sẽ khám phá, từ và khái niệm [hậu hiện đại chủ nghĩa] thay đổi trong suốt năm mươi qua và chỉ sáng tỏ dần trong khoảng mười năm vừa qua mà thôi. Chủ nghĩa hậu hiện đại được xem là tiến bộ trong một số lãnh vực, bị kết án là phản động và hoài cổ trong một số lãnh vực khác; nó được ủng hộ vì tính chất hiện thực trong kỹ thuật và xã hội, nhưng nó lại bị kết tội là có tính chất thoát ly. Thậm chí, thỉnh thoảng chủ nghĩa hậu hiện đại bị lên án vì tính chất hoang tưởng của nó nhưng những người bảo vệ nó lại xem chính sự thất bại ấy là một ưu điểm. [...]

Rõ ràng Leslie Fiedler là nhà văn đầu tiên đã sử dụng tiếp đầu ngữ 'hậu' (post) một cách tích cực vào năm 1965 khi ông lặp đi lặp lại như một thứ bùa chú và gắn nó với nhiều khuynh hướng cấp tiến đương thời như: "hậu nhân văn, hậu nam tính, hậu da trắng, hậu anh hùng... hậu Do Thái". Những điểm xuất phát vô chính phủ và sáng tạo từ thuyết chính thống cũng như những sự tấn công vào tính đặc tuyển, tính kinh viện và những sự đàn áp mang tính thanh giáo của chủ nghĩa hiện đại đã dẫn đến cuộc phiêu lưu hào hứng đầu tiên của văn hoá hậu hiện đại như Andreas Huyssen đã chỉ ra vào năm 1984, mặc dù Fiedler và những người khác vào thập niên 60 đã không bao giờ đưa ra lập luận này và cũng không bao giờ ý niệm hoá truyền thống. Điều này phải chờ đến thập niên 70 và những bài viết của Ihab Hassan, trong thời kỳ các phong trào cấp tiến mà Fiedler cổ vũ, oái oăm thay, đã trở thành lỗi thời, phản động, hoặc chết hẳn.

Vào giữa thập niên 1970, Ihab Hassan tự xem mình như là phát ngôn viên của chủ nghĩa hậu hiện đại (một thuật ngữ thường bị lược bỏ trong phê bình văn học). Ông gắn liền danh hiệu này với những tư tưởng thử nghiệm trong nghệ thuật và tính chất siêu kỹ thuật trong kiến trúc - như của William Burroughs và Buckminster Fuller, "Tính chất vô chính phủ, Cạn kiệt / Im lặng... Giải-sáng tạo / Giải cơ cấu / Phản đề... Liên văn bản...", nói tóm những khuynh hướng mà tôi, cùng với nhiều người khác sau này xem như là đặc trưng của thời hậu kỳ hiện đại (Late-Modern). Trong văn chương và rồi trong triết học, vì những bài viết của Jean-Francois Lyotard và khuynh hướng lược bỏ giải cơ cấu với thời Hậu hiện đại, thuật ngữ hậu hiện đại thường bị buộc chặt vào với những gì Hassan gọi là 'tính bất liên tục, tính bất định và tính nội tại'. Cái tựa đề kỳ lạ trong cuốn sách ERRING, A Postmodern A/Theology của Mark C. Taylor là đặc trưng của thể loại này vốn xuất phát từ Derrida và giải cơ cấu. Trong giới triết gia cũng có khuynh hướng xem tất cả các nhà tư tưởng hậu thực chứng như là những nhà hậu hiện đại bất kể họ có hay không có điều gì chung ngoài sự bài bác chủ nghĩa thực chứng logic hiện đại. Như vậy có hai ý nghĩa khá khác nhau đối với thuật ngữ [hậu hiện đại] và có một sự lẫn lộn phổ quát không được xác định đối với công chúng. Chính điều này và những tiền đề của một vài cuộc hội thảo gần đây về vấn đề liên hệ đã dẫn đến đề tài [bài viết này]: "Chủ nghĩa hậu hiện đại là gì?" Nó là câu hỏi và cũng là câu trả lời mà tôi muốn đưa ra và người ta phải nhìn thấy sự phát triển và vận động liên tục của câu trả lời ấy bao hàm ý nghĩa là không có câu trả lời xác định nào có thể khả hữu, ít nhất là cho đến khi nó ngừng vận động.

Trong thời niên thiếu của nó, vào thập niên 1960, văn hoá hậu hiện đại mang tính duy lý và phê phán, một vị trí thiểu số được thiết lập, chẳng hạn, bởi các nghệ sĩ nhạc Pop và các lý thuyết gia chống lại quan điểm giảm trừ nghệ thuật hiện đại, chống lại chủ nghĩa duy mỹ đang thống trị các thiết chế như Viện Bảo tàng Nghệ Thuật Hiện đại. Trong kiến trúc, Team Ten, Jane Jacobs, Robert Venturi và nhóm Advocacy Planners đã tấn công nền kiến trúc hiện đại chính thống vì tính chất đặc tuyển, sự phá huỷ đô thị, tính chất quan liêu và ngôn ngữ giản dị hoá của nó. Khoảng thập niên 1970, khi những truyền thống này lớn mạnh và thay đổi và chủ nghĩa hậu hiện đại trở thành một thuật ngữ chỉ một loạt các khuynh hướng, phong trào trở thành bảo thủ, duy lý và kinh viện hơn. Nhiều thủ lãnh của thập niên 1960 như Andy Warhol đánh mất chức năng phê phán và bị đồng hoá vào thị trường nghệ thuật hay các hoạt động thương mại. Trong thập niên 1980, tình hình lại thay đổi. Chủ nghĩa hậu hiện đại cuối cùng đã được giới chuyên môn, giới kinh viện và xã hội nói chung chấp nhận. Nó đã trở thành một phần của những thành tựu [văn hoá] như là bố mẹ của nó, chủ nghĩa hiện đại, và người anh kề cận của nó, chủ nghĩa hiện đại hậu kỳ, và trong phê bình văn học, nó cũng nổi lên trong ý nghĩa tương tự như là trong kiến trúc và các truyền thống nghệ thuật.

John Barth (1980) và Umberto Eco (1983), cùng với nhiều tác giả khác, định nghĩa chủ nghĩa hậu hiện đại như một cách viết trong đó người ta có thể dùng các hình thức truyền thống một cách châm biếm (irony) hay hoán vị (displaced) để diễn tả các chủ đề bất diệt. Nó ghi nhận tính chất vững chắc của chủ nghĩa hiện đại – sự thay đổi trong thế giới quan do Nietzsch, Einstein, Freud, v.v... mang lại - nhưng, như John Barth đã nói, nó hy vọng vượt thoát khỏi những phương tiện và độc giả giới hạn vốn là những đặc trưng của tiểu thuyết hiện đại: "Tác giả hậu hiện đại lý tưởng của tôi không bài bác mà cũng không bắt chước các bậc phụ huynh hiện đại của họ trong thế kỷ 20 hay các bậc tổ phụ tiền hiện đại của họ trong thế kỷ 19. Hắn có nửa đầu của thế kỷ dưới dây nịt chứ không phải trên lưng. Không sa vào sự đơn giản hoá đạo lý hay nghệ thuật, những cách viết vụng về, thói hối lộ, những sự ngây thơ thực sự hay giả vờ, hắn khao khát nhắm tới một thứ hư cấu mang tính chất dân chủ hơn là những kỳ quan nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa (theo định nghĩa và sự phán đoán của tôi) như Stories and Texts for Nothing của Beckett hay Pale Fire của Nabokov. Hắn có thể không hy vọng vươn tới và làm xúc động những người sùng mộ James Michener và Irving Wallace, đừng nói gì đến những kẻ mù chữ do bị tràn ngập bởi các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên hắn nên hy vọng vươn tới và làm vui mừng, ít nhất một phần thời gian, vượt ra ngoài phạm vi của cái Mann thường gọi là những tín đồ Ky tô giáo sơ khởi (Early Christians): những kẻ sùng mộ chuyên nghiệp nền nghệ thuật cao cấp. [...]

Nhưng bởi vì ý nghĩa và truyền thống của nó [chủ nghĩa hậu hiện đại] thay đổi, người ta không những chỉ xác định khái niệm mà còn phải chỉ ra thời điểm và bối cảnh chung quanh khái niệm ấy. Có thể nói lại thế này: tôi gọi chủ nghĩa hậu hiện đại là một thứ chủ nghĩa nhị nguyên đầy nghịch lý, hay một cái mã kép (double coding), một tên gọi lai ghép cho thấy chủ nghĩa hậu hiện đại là một sự kế tục của chủ nghĩa hiện đại và những sự siêu việt hoá của nó. Chủ nghĩa hậu hiện đại theo quan điểm của Hassan, theo cách nhìn này, hầu như chỉ là hậu kỳ hiện đại, sự tiếp nối của chủ nghĩa hiện đại trong hình thức tận cùng hay phóng đại của nó mà thôi. Vài nhà văn và nhà phê bình, như Barth và Eco, đồng ý với định nghĩa này trong khi nhiều người khác, gồm cả Hassan và Lyotard, sẽ không đồng ý. Trong cả sự đồng ý hay không đồng ý, sự hiểu biết và tranh luận này, có một tính chất biện chứng mềm dẻo giống nhau thể hiện trong phong trào mà người ta nghi ngờ là sẽ có những bước ngoạt bất ngờ trước khi nó kết thúc. Một điều chúng ta có thể chắc chắn là: bất cứ lời khai tử nào cũng quá sớm trước khi các chủ nghĩa hiện đại bị biến mất.

(Dịch theo bài "What is Post-Modernism?" của Charles Jencks in trong cuốn The Fonta Postmodernism Reader do Walter Truett Anderson biên tập, Fonta Press xuất bản, 1996, tr. 26-30)




tải về 0.57 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương