Việt 7- tienve org Chủ nghĩa hậu hiện đại: những khái niệm căn bản



tải về 0.57 Mb.
trang4/6
Chuyển đổi dữ liệu11.09.2017
Kích0.57 Mb.
#33071
1   2   3   4   5   6

Hoàng Ngọc-Tuấn

I.

Trong suốt mấy thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, mặc dù nền nghệ thuật hậu hiện đại mỗi lúc càng trở nên lớn mạnh về cả số lượng lẫn chất lượng, và tầm ảnh hưởng mỹ học tích cực của nó vào đời sống văn hoá đương đại là điều khó chối cãi, chúng ta dường như vẫn cứ luôn luôn nghe văng vẳng đó đây những lời ta thán về nó và kết án nó. Đây không phải là điều khó hiểu: thời nào cũng có những người dị ứng trước những điều mới lạ. Chúng ta hẳn còn nhớ, vào năm 1937, Adolf Hitler đã kết án tác phẩm của những trường phái lập thể, dada và vị lai là "những giọng nói lập cập giả dối của những kẻ mà Thượng Đế đã từ chối ban cho ân sủng để có một tài năng nghệ thuật thực sự, và thay vào đó đã thưởng cho họ cái tài nói năng lảm nhảm và sự lừa dối."[1] Sự việc Hitler tuyên bố như thế vào thời ấy hẳn không phải là điều đáng ngạc nhiên: là một "con thú chính trị", ông không màng đến những sáng tạo nghệ thuật; hơn thế nữa, là nhà độc tài, tất nhiên ông cần phải phủ định tất cả những phong cách nghệ thuật không có lợi cho đường lối chính trị của ông. Điều hơi đáng ngạc nhiên là, mãi đến hôm nay, trong giới nghệ sĩ Việt Nam, không chỉ ở nội địa, mà ngay cả ở hải ngoại, vẫn còn có người tiếp tục dị ứng trước tác phẩm của những trường phái lập thể, dada và vị lai (những trường phái thuộc hệ mỹ học hiện đại chủ nghĩa, một hệ mỹ học đã bắt đầu lạc hậu từ những năm 60, tức là không còn gì đáng gọi là mới nữa).

Nếu ngay cả đối với một hệ mỹ học đã cũ đến gần nửa thế kỷ mà vẫn còn có người dị ứng, thì đối với một hệ mỹ học mới hơn và đang còn vận động, chúng ta hẳn không phải ngạc nhiên gì khi nghe những lời ta thán về nó và kết án nó.

Thực ra, không riêng gì đối với quần chúng bình thường, ngay cả đối với những nhà tư tưởng thời danh như Fredric Jameson và Terry Eagleton, vào những năm 80, nghệ thuật hậu hiện đại vẫn còn là những gì khiến họ khó chịu. Khi đối diện với những tác phẩm nghệ thuật tạo hình của Andy Warhol, Jameson không thể hiểu nổi. Ông cho rằng Warhol "chẳng nói với chúng ta điều gì cả."[2] Cũng thế, Eagleton xem tác phẩm của Carl Andre chỉ là "đống gạch trong Tate Gallery" và vội vã viết "lời cáo phó" cho chủ nghĩa hậu hiện đại.[3]

Thái độ dị ứng của Jameson và Eagleton là điều không mấy khó giải thích. Trước hết, họ là những lý thuyết gia chuyên về xã hội học và văn hoá học chứ không phải về mỹ học hay nghệ thuật sáng tạo. Hơn thế nữa, ngay trong phạm vi xã hội học và văn hoá học, bản chất của chủ nghĩa hậu hiện đại chứa đựng những điều đi ngược lại chính thế giới quan của Jameson và Eagleton. Là những người tả phái, tầm mắt của họ ít nhiều bị giới hạn bởi cái "đại tự sự" của chủ nghĩa Marx, trong khi chủ nghĩa hậu hiện đại là thái độ chối từ tất cả những "đại tự sự" sẵn có từ thời tiền hiện đại đến hiện đại.[4] Năm 1984, trên tạp chí tả phái New Left Review, Jameson nhìn chủ nghĩa hậu hiện đại như một thứ "diễn văn trong một ngôn ngữ chết" biểu lộ "một loại mới của sự nông cạn hay sự thiếu bề sâu" và là "một loại mới của sự giả tạo đúng nghĩa nhất."[5] Tương tự như thế, vào năm 1985, cũng trên cùng tạp chí ấy, Eagleton cho rằng chủ nghĩa hậu hiện đại là thái độ đánh mất "sự trung thực", là "thiếu bề sâu, thiếu phong cách, phi sử tính."[6] Những nhận định ấy của Jameson và Eagleton có thể đúng đối với văn hoá hậu hiện đại trên nhiều góc cạnh. Tuy nhiên, nếu áp dụng vào phạm vi nghệ thuật, những nhận định như thế chỉ có thể đúng ít nhiều đối với những sản phẩm nghệ thuật thương mại của thế giới tư bản -- những sản phẩm chủ yếu nhằm mục đích giải trí nhanh chóng và không đòi hỏi những nỗ lực sáng tạo mang tính mỹ học triệt để. Đối với những tác phẩm nghệ thuật sáng tạo triệt để, những nhận định như thế trở nên nông nổi và lệch lạc.

Đến năm 1987, sau khi trải qua một số những cuộc tranh luận với những lý thuyết gia hậu hiện đại, Jameson đã có một cái nhìn tích cực hơn đôi chút về chủ nghĩa hậu hiện đại. Ông thú nhận rằng những ý tưởng tiên khởi của ông về chủ nghĩa hậu hiện đại "đã có khuynh hướng tiêu cực (ví dụ: nó không phải là thế này, nó không phải là thế kia, nó không phải là một loạt những điều mà chủ nghĩa hiện đại đã là)..."[7] Lần này, ông muốn quan sát chủ nghĩa hậu hiện đại với "một sự mô tả tích cực, không với một ý định đánh giá nào (nhằm cho thấy chủ nghĩa hậu hiện đại "tốt hơn" chủ nghĩa hiện đại) mà nhằm nắm bắt chủ nghĩa hậu hiện đại như một lô-gích văn hoá mới trong vị trí của chính nó."[8] Tuy nhiên, cùng lúc ấy, khi chạm đến phạm vi nghệ thuật sáng tạo, Jameson vẫn còn nhiều lúng túng và tự mâu thuẫn. Ông vẫn chưa vất bỏ được thái độ đánh giá nông nổi, và vẫn chưa nắm bắt được nghệ thuật hậu hiện đại như một lô-gích mỹ học mới trong vị trí của chính nó. Ông tuyên bố:

Tôi không biết Rauschenberg[]vĩ đại đến chừng nào, nhưng tôi đã có xem một cuộc trưng bày tuyệt vời của ông ấy ở Trung Quốc, một loạt vật thể lấp lánh đem đến cho người xem tất cả những thứ kinh nghiệm mang tính cách hậu hiện đại chủ nghĩa. Nhưng khi cuộc trưng bày chấm dứt, nó cũng hết chuyện.[9]

Ông xem tác phẩm của Rauschenberg không phải là tác phẩm nghệ thuật đúng nghĩa, một loại 'kiệt tác' như những tác phẩm hoành tráng của chủ nghĩa hiện đại; và ông phát biểu:

Bạn bước vào một cuộc trưng bày của Rauschenberg và nghiệm thấy một tiến trình được thực hiện theo những đường lối rất chuyên môn và nhiều phát kiến; và khi bạn bước ra, nó cũng chấm dứt.[10]

Lời phát biểu này cho thấy, qua con mắt của Jameson, tác phẩm hậu hiện đại của Rauschenberg quả là "rất chuyên môn và nhiều phát kiến", nhưng ở đó ông không thể tìm thấy giá trị mỹ học nào ông cho là lớn lao và trường cửu, và không có ý tưởng nào khiến ông rung cảm. Jameson thất bại ở chỗ, cũng như nhiều người khác, ông đã vô tình đánh giá nghệ thuật hậu hiện đại trên cơ sở mỹ học hiện đại chủ nghĩa.

Có một điều rất hiển nhiên nhưng nhiều người vẫn không chịu lưu tâm, đó là: chúng ta không thể thưởng thức hay đánh giá một tác phẩm nếu chúng ta chưa nắm được "luật chơi" của nó (những nguyên tắc mỹ học của nó). Cũng như mọi nền nghệ thuật ở lúc mới xuất hiện, nghệ thuật hậu hiện đại không theo những nguyên tắc mỹ học sẵn có trước đó, và vì vậy, để đánh giá nó không phải là việc dễ dàng. Lyotard nhận định:

Một nghệ sĩ hay nhà văn hậu hiện đại đứng ở vị trí của một triết gia: văn bản y viết, tác phẩm y thực hiện, xét trên nguyên tắc, không chịu sự chi phối của những luật lệ sẵn có, và chúng không thể được đánh giá theo cách phán xét cứng nhắc, theo lối áp dụng những bảng xếp loại thông thường đối với văn bản hay tác phẩm. Những luật lệ và những bảng xếp loại là những gì chính tác phẩm nghệ thuật [hậu hiện đại] đang tìm kiếm. Nghệ sĩ và nhà văn, do đó, đang làm việc bên ngoài mọi luật lệ với mục đích xây dựng những luật lệ của những gì sẽ được thực hiện. Bởi vậy, mới có sự kiện rằng tác phẩm và văn bản mang những tính cách của một thứ biến cố. [11]

Như thế, trong khi nghệ thuật hậu hiện đại còn quá mới và chưa hình thành một cơ sở mỹ học rõ nét cho chính nó, để thưởng thức và đánh giá một tác phẩm, chúng ta cần phải nỗ lực truy tầm hành trình sáng tạo của nghệ sĩ, để qua đó chúng ta có thể tìm thấy những "luật chơi" của tác phẩm ấy.

Tôi tin rằng John Cage, một trong những nghệ sĩ hậu hiện đại sáng tạo triệt để nhất, là người có thái độ thưởng ngoạn nghệ thuật hết sức tích cực và đúng đắn. Sau lần đầu đến xem những hoạ phẩm màu trắng của Robert Ryman, Cage đã phát biểu:

Tôi chưa quen thuộc với tác phẩm của Ryman, mãi cho đến khi tôi đến xem cuộc triển lãm nhìn lại quá khứ sáng tác của ông. Và thật là đáng kinh ngạc khi nhìn thấy những gì đã xảy ra trong cuộc dấn thân của ông vào màu trắng.... Những vật liệu mà trên đó ông trét màu trắng, và những cách thế khác nhau khi ông làm điều đó, thì thực là lạ thường. Và tôi đã bước ra khỏi cuộc triển lãm đó với một tâm cảm hân hoan được làm mới lại, và ngay cả với một niềm vui sướng gần như một cuộc chuyển mình của tư tưởng.... những phát kiến ấy không làm cho bạn mất đi khả năng khám phá, mà đúng hơn, làm tăng thêm khả năng ấy... Bởi thế nó không chỉ là một điều gì đó được nhận biết, hay làm tăng thêm vốn tri thức -- nó còn làm tăng thêm cái bất khả tri ngay trong cùng một lúc![12]

Đối diện một tác phẩm hoàn toàn mới lạ đối với những nguyên tắc mỹ học sẵn có trong vốn tri thức của mình, chúng ta rất dễ cảm thấy chán nản vì không hiểu nổi. Trong trường hợp này, nhiều người hẳn sẽ gạt bỏ tác phẩm ấy, và thậm chí vội vã cho rằng nó "quá dở", hay "quá quái đản", v.v... Tuy nhiên, một người có ý thức sáng tạo cao độ như John Cage đã đến với nghệ thuật mới bằng cách khác. Ông nói:

Nếu một cái gì đó khiến bạn chán nản sau hai phút, hãy cố gắng trong bốn phút. Nếu vẫn còn chán nản, hãy cố gắng trong tám, mười sáu, ba mươi hai phút, và cứ thế. Rốt cuộc, chúng ta sẽ khám phá ra rằng nó chẳng nhàm chán tí nào mà lại hết sức thú vị.[13]

Từ bài học này về thái độ tích cực đối với những tác phẩm mới lạ, nhân có bản dịch Việt ngữ một truyện ngắn của nhà văn hậu hiện đại Hoa Kỳ Donald Barthelme được đăng trên tạp chí Việt kỳ này, nhan đề "Binh Nhì Cơ Giới Paul Klee để mất một chiếc phi cơ giữa Milbertshofen và Cambrai, tháng Ba 1916", chúng ta hãy thử cùng thưởng thức truyện ngắn ấy.



II.

Thưởng thức theo cách đọc đơn tuyến thông thường, truyện ngắn "Binh Nhì Cơ Giới Paul Klee để mất một chiếc phi cơ giữa Milbertshofen và Cambrai, tháng Ba 1916" có vẻ quá đơn giản. Chúng ta có thể tóm lược cốt chuyện rất dễ dàng, đại khái như sau:

Binh Nhì Cơ Giới Paul Klee được giao nhiệm vụ hộ tống cuộc chuyển vận ba chiếc phi cơ bằng phương tiện xe lửa từ Milbertshofen đến Cambrai, vào tháng Ba 1916. Trong suốt cuộc vận chuyển đó, anh bị Cảnh Sát Mật -- một tổ chức "có-mặt-khắp-mọi-nơi", "hiểu-biết-hết-mọi-việc", và "sở-hữu-tất-cả-quyền-năng" -- theo dõi từng giây phút. Tuy nhiên, sau khi ăn trưa tại một khách sạn ở ga Hohenbudberg, anh phát hiện một chiếc phi cơ đã biến mất hết sức bí mật. Ngay cả Cảnh Sát Mật cũng không thể biết chiếc phi cơ ấy biến mất bằng cách nào. Sau khi thử tìm kiếm qua loa, Paul Klee quyết định dùng tài vẽ của mình để làm giả cái chứng thư xác minh rằng anh chỉ vận chuyển hai chiếc phi cơ. Cảnh Sát Mật theo dõi rất rõ việc làm này, nhưng vì không biết phải giải quyết cách nào tốt hơn, họ im lặng chấp nhận. Sau đó, hai chiếc phi cơ còn lại được tiếp tục vận chuyển đến Cambrai an toàn, và không ai biết đến sự cố đã xảy ra.

Hiểu theo cách như thế, truyện ngắn này dường như chẳng có gì đáng lưu ý. Trước hết, nó vô vị: suốt cả truyện, dường như không có một chi tiết nào khiến người đọc hồi hộp, cảm động hay khoái trá. Kế đến, nó có vẻ quá khả đoán: sự cố chủ yếu của truyện - việc Binh Nhì Cơ Giới Paul Klee để mất một chiếc phi cơ giữa Milbertshofen và Cambrai, tháng Ba 1916 - đáng lẽ có thể được giấu đi suốt đoạn đầu để rồi được khai triển như điểm cao trào cho truyện, lại đã được tường thuật ngay ở nhan đề và, như thế, người đọc không còn gì để tiên đoán hay ngạc nhiên nữa.

Thêm vào đó, cốt chuyện có nhiều điểm vô lý: chiếc phi cơ trong thời Đệ Nhất Thế Chiến đang diễn ra chứ đâu phải là một đồ chơi mà biến mất quá dễ dàng trong một buổi ăn trưa như thế; anh binh nhì có nhiệm vụ hộ tống đoàn vận chuyển phi cơ, khi đi ăn trưa, lại không có một quân nhân nào khác thay thế nhiệm vụ canh giữ; cuộc vận chuyển ba chiếc phi cơ chỉ có một anh binh nhì canh giữ; sự chểnh mảng và nhẹ dạ quá độ của Cảnh Sát Mật - những kẻ tự xưng là "có-mặt-khắp-mọi-nơi", "hiểu-biết-hết-mọi-việc", và "sở-hữu-tất-cả-quyền-năng"; khi phát giác chiếc phi cơ bị mất, anh binh nhì có thể bình tĩnh ngồi xuống để thưởng lãm và vẽ phác thảo hình dạng "cám dỗ" của tấm bạt rũ xuống và mớ dây thừng; sau đó, anh chỉ thấy bực tức vì chuyện mất phi cơ, mà không hề hoảng sợ; để tìm chiếc phi cơ, anh ngước nhìn lên bầu trời qua loa, và Cảnh Sát Mật cho đó là "một bước truy tầm hết sức hợp lý"; anh binh nhì giả mạo chứng thư, Cảnh Sát Mật biết rõ, nhưng lại dễ dàng đồng tình thậm chí còn hãnh diện và cảm động về hành động ấy của anh binh nhì, v.v...

Bên cạnh đó, truyện thiếu hấp dẫn vì tác giả không trình bày câu truyện theo lối kể chuyện có tả cảnh, tả người, mà lại chỉ trình bày nó như một bản ghi chép lời phát biểu của hai nhân vật không diện mạo. Với cách viết này, truyện trông như một kịch bản rất ngắn chỉ ghi lời nói của các nhân vật, mà không hề có một mô tả nào về cảnh trí, nhân vật hay diễn xuất. Cấu trúc của truyện lại có vẻ quá đơn giản: toàn bộ chỉ là mười ba đoạn phát biểu ngắn (bảy đoạn cho Paul Klee, và sáu đoạn cho Cảnh Sát Mật), và những đoạn này được xếp xen kẽ và đổi vai giữa hai nhân vật: Paul Klee nói, rồi Cảnh Sát Mật nói, và cứ thế.

Với những nhận xét trên, chúng ta có thể dễ dàng phán quyết rằng truyện ngắn này là xoàng xĩnh, tẻ ngắt, và dở. Tuy nhiên, một phán quyết như vậy có thể làm chúng ta thiệt thòi. Biết đâu chừng chúng ta đã đánh mất cơ hội thưởng thức một tác phẩm hay. Có lẽ chúng ta nên tự hỏi: có phải truyện ngắn này của Donald Barthelme thực sự dở như vậy không? Tự hỏi như thế, chúng ta có cơ hội suy nghĩ về cách đọc của mình. Thực vậy, không phải chỉ có một cách đọc cho mọi văn bản trên đời mà, đúng hơn, mỗi loại văn bản đòi hỏi một cách đọc khác nhau. Đọc để thực sự thưởng thức văn chương, tốt nhất, phải là một hành động tích cực: người đọc phải làm sao, qua cuộc đọc của mình, khám phá cơ sở mỹ học của tác phẩm, thậm chí, tìm kiếm một phương cách để tái hiện quá trình sáng tạo của tác giả. Điều này không phải dễ thực hiện, vì chính cái "khẩu vị" thẩm mỹ sẵn có trong chúng ta làm hạn chế ý định tích cực và sáng tạo trong việc đọc. Một độc giả quen đọc văn chương đơn tuyến hẳn sẽ cảm thấy hết sức khó khăn khi phải đối diện với một tác phẩm đa tuyến và đa tầng. Một độc giả có bộ "tự điển bách khoa" của bản thân rất mỏng sẽ cảm thấy rất mệt mỏi trước sự đòi hỏi về kiến thức liên văn bản của một tác phẩm mà tác giả của nó là sở hữu chủ của một bộ "bách khoa toàn thư" quá dày. Trong những trường hợp đó, đức tính kiên nhẫn là điều trọng yếu, và thái độ thưởng thức của John Cage là điều đáng noi theo.

Vậy tốt nhất chúng ta hãy thử cùng nhau đọc lại truyện ngắn của Donald Barthelme theo một cách kiên nhẫn hơn.



III.

Vừa đọc nhan đề truyện, "Binh Nhì Cơ Giới Paul Klee để mất một chiếc phi cơ giữa Milbertshofen và Cambrai, tháng Ba 1916", nếu trong bộ "tự điển bách khoa" của bản thân chúng ta đã sẵn có một số danh tính của các hoạ sĩ quan trọng của thế kỷ 20, hẳn chúng ta sẽ lưu ý đến tên gọi của nhân vật chính của truyện: Paul Klee. Tất nhiên, không nhất thiết đây chỉ là tên của nhà danh hoạ Paul Klee (1879-1940), nhưng nếu độc giả đã theo dõi tiểu sử và, hơn nữa, đã đọc những cuốn nhật ký của Paul Klee, chắc chắn độc giả sẽ phải tin rằng đây không chỉ là tên của một nhân vật hư cấu, mà là tên của chính nhà danh hoạ.

Nếu chúng ta kiên nhẫn đọc kỹ và so sánh truyện ngắn này với nhật ký của Paul Klee, cuốn IV, trong bộ The Diaries of Paul Klee 1898-1918 (bản dịch Anh ngữ do Pierre B. Schneider, R.Y. Zachary và Max Knight thực hiện, với sự nhuận sắc của Felix Klee, con trai của nhà danh hoạ)[14], chúng ta có thể phát hiện những sự trùng hợp hết sức thú vị. Dưới đây, tôi xin trình bày một số những phát hiện ấy. Có rất nhiều những sự trùng hợp ở các chi tiết nhỏ (ví dụ: các địa danh, nhân vật, và sự kiện), nhưng để tránh rườm rà, tôi sẽ không liệt kê tất cả ở đây, mà chỉ nhấn mạnh vào một số điểm chính. Những chữ và câu in đậm và có gạch dưới là những điểm trùng hợp về chữ và ý. Những trích đoạn từ truyện ngắn của Donald Barthelme được ghi chú bằng ký hiệu DB và in chữ nghiêng. Những trích đoạn từ nhật ký của Paul Klee được đánh dấu bằng ký hiệu PK và in chữ thường. Sau ký hiệu PK là số đoạn và số trang căn cứ theo bản Anh ngữ của bộ The Diaries of Paul Klee 1898-1918.

DB: Now I have been transferred to the Air Corps . A kindly sergeant effected the transfer. He thought I would have a better future here, more chances for promotion. First I was assigned to aircraft repair, together with several other workers. We presented ourselves as not just painters but artist-painters. This caused some shaking of heads . We varnished wooden fuselages, correcting old number s and adding new ones with the help of templates . Then I was pulled off the painting detail and assigned to transport. I escort aircraft that are being sent to various bases in Germany and also (I understand) in occupied territory. It is not a bad life. I spend my nights racketing across Bavaria (or some such) and my days in switching yards . There is always bread and wurst and beer in the station restaurants. When I reach a notable town I try to see the notable paintings there, if time allows. There are always unexpected delays , reroutings, backtrackings. Then the return to the base. I see Lily fairly often. We meet in hotel rooms and that is exciting. I have never yet lost an aircraft or failed to deliver one to its proper destination . The war seems interminable . Walden has sold six of my drawings.

PK: (1050:363) But the sergeant promised me to see my well-being there . (1012:346) The sergeant was in excellent spirits. "Don't you want to fly?" "Who, me?" "Yes, didn't you request to be put in the air corps ?" [...] When I returned to the sergeant I had already been transferred . He congratulated me: "Be glad that you're getting out of the miserable infantry. [...]" He shook my hand. "Goodbye Klee, take care of yourself!" (1013:347) Since we felt safe, we presented ourselves as not just painters but artist-painters. This caused some shaking of heads. (1018:348) Varnished two wooden fuselages. Corrected old numbers on airplanes, painted on new ones in front with the help of templates. (1026a:352) I escort the transport to its final destination . (1026a:353) From Bavaria , eh? (1026a:352) Now a long delay , the proximity of the large city can be felt. The worst conditions exist in switchyards . (1051:364) One more adventure to prevent the war from becoming too boring .(1006:343) My dearest Lily . We are here. (1064:367) Walden wants six graphic works for his private collection. (995d:338) He has sold "The Anatomy of Venus," net gain: one hundred and sixty marks.



DB: One place we are is here watching Engineer -Private Klee, who is escorting three valuable aircrafts , B.F.W. 3054/16 -17-18, with spare parts , by rail from Milbertshofen to Cambrai .

PK: (1014:347) From: Engineer Klee, Air Force Reserve Unit, Schleissheim, Workshop Company. (1022a:349) At four p.m., walked, loaded with food, to Milbertshofen ; found three airplanes there almost loaded. (1026a:351) Planes B.F.W. 3054/16 and 3053/16 with spare parts . (1026a:356) I strolled to the main station at Cambrai .



DB: He is reading a book of Chinese short stories . He has removed his boots. His feet rest twenty-six centimeters from the baggage-car stove . [...] These Chinese short stories are slight and lovely. I have no way of knowing if the translation is adequate or otherwise . Lily will meet me in our rented room on Sunday, if I return in time. Our destination is Fighter Squadron Five . I have not had anything to eat since morning. The fine chunk of bacon given me along with my expense money when we left the base has been eaten. This morning a Red Cross lady with a squint gave me some very good coffee, however. Now we are entering Hohenbudberg.

PK: (1043:361) [...] where I have beer, soup. Roast, potatoes, and Chinese short stories (1026a:356) Take a last nap near the large stove (1054:365) I am able to read a great deal and am growing more and more Chinese . Li-T'ai-Pe's poems have been translated too playfully. Klabund goes about it somewhat thoughtlessly. The translation of the short stories is not reliable , either. (1026a:351) To Fighter Squadron 5 , with two airplanes. (1022:349) I was given a fine chunk of bacon and money for the journey. (1026a:352) I am not sent on, like a freight parcel, to Gereon, but to the staging area in Hohenbudberg , on train 6263 [...] thanks to a lady from the Red Cross .



DB: Engineer-Private Klee has taken himself into the station restaurant . He is enjoying a hearty lunch .

PK: (1026a:352) Again ate extremely well at the restaurant in the station .



DB: We arrive at Cambrai . The planes are unloaded , six men for each plane . The work goes quickly. No one questions my altered manifest. The weather is clearing . After lunch I will leave to begin the return journey. My release slip and travel orders are ready, but the lieutenant must come and sign them . I wait contentedly in the warm orderly room. The drawing I did of the collapsed canvas and ropes is really very good. I eat a piece of chocolate . I am sorry about the lost aircraft but not overmuch. The war is temporary . But drawings and chocolate go on forever.

PK: (1026a:356) I strolled to the main station at Cambrai . (1026a:357) The planes are unloaded [...] Six men for each plane . The weather is clearing . After lunch, I felt like leaving . I inquire about it at the office; my release slip and travel orders are ready, but the lieutenant must come and sign them first. (1065a:367) Thawing weather and chocolate quagmires. (1090:380) To be sure, I sit here safe and warm and feel no war within me . (1099:385) Peace might have been declared and we wouldn't know about it.

Những sự trùng hợp thú vị trên đây cho thấy rõ ràng Donald Barthelme đã sử dụng chính cuốn nhật ký của nhà danh hoạ Paul Klee để làm một chất liệu quan trọng trong việc viết truyện. Thật ra, trong số quá nhiều những điểm trùng hợp như thế (đó là không kể đến rất nhiều điểm trùng hợp khác chưa được liệt kê ở đây), chỉ cần vài điểm then chốt sau đây là đủ để chúng ta khẳng định nhân vật Binh Nhì Cơ Giới Paul Klee chính là nhà danh hoạ: vào năm 1916, quả thật Paul Klee mang quân hàm Binh Nhì và công tác trong ngành cơ giới, với nhiệm vụ hộ tống đoàn vận chuyển phi cơ; Lily là tên thật của vợ ông, và Walden là tên thật của người môi giới bán tranh cho ông.

Tuy nhiên, sự thú vị của truyện này không phải chỉ ở chỗ Barthelme dựa vào một số chi tiết có thực trong nhật ký của Paul Klee để thực hiện việc hư cấu. Sự thú vị của một tác phẩm hư cấu hậu hiện đại như truyện này chủ yếu nằm ở những chỗ khác và đòi hỏi nơi độc giả một cách đọc tích cực hơn nữa.




tải về 0.57 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương