UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ BẢY quốc hội khoá XII



tải về 4.57 Mb.
trang16/60
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích4.57 Mb.
#16071
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   60

Trả lời:(Tại Công văn số 1117/BTNMT-PC ngày 7/4/2010 của Bộ Tài nguyên và môi trường)

Bộ Tài nguyên và Môi trường với chức năng và nhiệm vụ được Chính phủ giao tại Nghị định số 25/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2008, thực hiện quản lý nhà nước về cơ chế chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất. Để nắm tình hình kết quả thực hiện, Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo Tổng cục Quản lý đất đai ban hành Công văn số 876/TCQLĐĐ-CKTPTQĐ ngày 18 tháng 6 năm 2009 và Công văn số 43/TCQLLĐĐ-CKTPTQĐ ngày 13 tháng 01 năm 2010 gửi Sở Tài nguyên và Môi trường các địa phương đề nghị báo cáo tình hình thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư 06 tháng đầu năm 2009 và cả năm 2009. Việc tổng kết đánh giá việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho nông dân bị thu hồi đất khi triển khai thực hiện đền bù giải tỏa như ý kiến của cử tri là cần thiết. Tuy nhiên, do Nghị định số 69/2009/NĐ-CP mới được Chính phủ ký ban hành và hiện nay các địa phương mới bắt đầu triển khai tổ chức thực hiện nên việc sơ, tổng kết đánh giá ngay tại thời điểm này là chưa phù hợp mà cần khoảng thời gian để các địa phương áp dụng thực hiện trong thực tế mới có đủ cơ sở để rà soát đánh giá sẽ có được kết quả tốt hơn.



116. Cử tri các tỉnh: Sơn La, Gia Lai kiến nghị: Đề nghị Chính phủ xem xét, bổ sung chính sách bồi thường, hỗ trợ về hộ tái định cư: Hộ dân sở tại bị thu hồi đất để xây dựng khu tái định cư tại khu vực đô thị, phải di chuyển nhà ở đến nơi ở mới và sắp xếp lại đất sản xuất đề nghị được bổ sung là đối tượng hộ tái định cư

Trả lời:(Tại Công văn số 1117/BTNMT-PC ngày 7/4/2010 của Bộ Tài nguyên và môi trường)

Theo quy định tại Điều 19 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư và Điều 18 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01 tháng 10 năm 2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất thì trường hợp được bố trí tái định cư là các hộ gia đình, cá nhân khi bị thu hồi đất (kể cả thu hồi đất thực hiện dự án hay hộ dân sở tại bị thu hồi đất để xây dựng khu tái định cư) nếu phải di chuyển chỗ ở do bị thu hồi hết đất ở hoặc thu hồi một phần diện tích đất ở mà phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi. Còn đối với hộ gia đình, cá nhân khi bị thu hồi đất nếu phải di chuyển chỗ ở do bị thu hồi hết đất ở hoặc thu hồi một phần diện tích đất ở mà phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nhưng còn chỗ ở trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi thì không thuộc đối tượng hộ tái định cư vì các hộ này vẫn còn chỗ ở.

Riêng đối với dự án đầu tư đặc biệt phải di chuyển cả một cộng đồng dân cư, làm ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống, kinh tế, xã hội, truyền thống văn hoá của cộng đồng (như dự án thủy điện Sơn La) thì Nhà nước có cơ chế đặc thù giao đất ở, đất sản xuất nông nghiệp cho các hộ dân tái định cư. Ngày 11 tháng 01 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 45/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung Điều 1 Quyết định số 246/QĐ-TTg ngày 29 tháng 02 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ quy định cơ chế đặc thù về thu hồi đất; giao đất ở, đất sản xuất nông nghiệp cho các hộ dân tái định cư Dự án Thủy điện Sơn La.

117. Cử tri Thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 132 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai theo hướng: đối với các cơ quan, tổ chức sử dụng đất có vi phạm, sử dụng đất không đúng mục đích giao hoặc thuê đất khi có đầy đủ chứng cứ thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quyết định thu hồi đất, không chờ kết luận thanh tra. Căn cứ vào quy hoạch của địa phương và tình hình thực tế sử dụng đất của đơn vị thuê lại, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định việc giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất đối với đơn vị thuê lại, hoặc tổ chức bán đấu giá quyền sử dụng đất để nhà đầu tư thực hiện đầu tư theo quy hoạch

Trả lời:(Tại Công văn số 1117/BTNMT-PC ngày 7/4/2010 của Bộ Tài nguyên và môi trường)

Vấn đề này, Bộ Tài nguyên và Môi trường xin ghi nhận để nghiên cứu và báo cáo Chính phủ để có những điều chỉnh, bổ sung phù hợp trong quá trình hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đất đai trong thời gian tới.



118. Cử tri tỉnh Nam Định kiến nghị: Đề nghị Chính phủ, các Bộ, ngành nghiên cứu, đề xuất điều chỉnh Quyết định số 391/QĐ-TTg ngày 18/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ đối với việc sử dụng đất nông nghiệp để phục vụ các công trình công cộng, như công trình nước sạch, bệnh viện, trường học, giao thông, thủy lợi… (các công trình thuộc hạ tầng kinh tế - kỹ thuật và hạ tầng xã hội)

Trả lời:(Tại Công văn số 1117/BTNMT-PC ngày 7/4/2010 của Bộ Tài nguyên và môi trường)

Để đảm bảo sử dụng đất hợp lý và quản lý chặt chẽ quỹ đất nông nghiệp của cả nước, đặc biệt là đất trồng lúa nước và trồng cây lương thực để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và bảo đảm sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngày 18 tháng 4 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 391/QĐ-TTg nhằm hạn chế việc chuyển đất trồng lúa nước sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp; không xét duyệt quy hoạch chuyển đất trồng lúa nước sang sử dụng vào mục đích sản xuất phi nông nghiệp ở những địa phương có điều kiện sử dụng các loại đất khác.

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phân khai các chỉ tiêu sử dụng đất trồng lúa cho các tỉnh nhằm quản lý chặt chẽ việc quy hoạch và sử dụng quỹ đất sản xuất nông nghiệp nói chung và đất chuyên trồng lúa nước nói riêng, trên cơ sở đó các địa phương xây dựng phương án quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2011-2015 trình cấp có thẩm quyền xét duyệt trong đó bố trí đủ quỹ đất cho việc xây dựng các công trình công cộng như công trình nước sạch, bệnh viện, trường học, giao thông, thủy lợi… cho giai đoạn đến năm 2020.

119. Cử tri tỉnh Nam Định kiến nghị: Đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục nghiên cứu, đề xuất điều chỉnh một số điều của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009, vì áp dụng vào thực tiễn tính khả thi không cao lại gây khó cho cơ sở

Trả lời:(Tại Công văn số 1117/BTNMT-PC ngày 7/4/2010 của Bộ Tài nguyên và môi trường)

Nghị định số 69/2009/NĐ-CP về cơ bản đã đưa ra giải pháp tháo gỡ vướng mắc một cách toàn diện trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất bằng biện pháp điều tiết lợi ích từ nguồn thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất của địa phương để bù đắp cho công tác này, giải quyết được tận gốc vấn đề, đáp ứng mong mỏi của người dân, giải quyết hài hòa 3 lợi ích của người dân, Nhà nước và nhà đầu tư.

Đất đai luôn là vấn đề phức tạp, nhạy cảm và nhất là đối với công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Việc giải quyết các tồn tại trong quản lý và sử dụng đất đai đòi hỏi phải có thời gian. Nghị định số 69/2009/NĐ-CP bước đầu đã giải quyết được căn bản các vướng mắc trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư so với các văn bản trước đây. Tuy nhiên, với nhiều nội dung quy định mới, chắc chắn sẽ có một bộ phận người dân, cán bộ và nhà đầu tư chưa nắm bắt được tinh thần của Nghị định nên có những phản ánh, đánh giá khác nhau. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Công văn gửi các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc báo cáo khó khăn, vướng mắc trong khi thực hiện Nghị định số 69/2009/NĐ-CP để có hướng dẫn chung, thống nhất khi thực hiện các quy định của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP trên phạm vi cả nước.

120. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Đề nghị Chính phủ tăng cường chỉ đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh về công tác kiểm tra ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp

Trả lời:(Tại Công văn số 1117/BTNMT-PC ngày 7/4/2010 của Bộ Tài nguyên và môi trường)

Trước tình hình ô nhiễm môi trường ngày càng có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, các vi phạm pháp luật về môi trường ngày càng nhiều, với quy mô và tính chất nghiêm trọng, trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan tổ chức kiểm tra, thanh tra công tác bảo vệ môi trường đối với nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế và một số điểm nóng về môi trường trên phạm vi cả nước; chỉ đạo, đôn đốc Ủy ban nhân dân các cấp kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường.

Ngày 23 tháng 01 năm 2009, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Công văn số 249/BTNMT-TCMT gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đề nghị tập trung chỉ đạo quyết liệt các nhiệm vụ bảo vệ môi trường, trong đó có chính sách phòng ngừa, hạn chế cấp phép đầu tư (mới, mở rộng) đối với các loại hình công nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; nâng cao chất lượng công tác thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, xác nhận bản cam kết bảo vệ môi trường đối với các dự án đầu tư; yêu cầu các chủ dự án phải đầu tư các công trình xử lý chất thải và bảo vệ môi trường theo như cam kết trước khi đưa dự án vào hoạt động chính thức; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra với khu công nghiệp; yêu cầu chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp phải đầu tư xây dựng ngay các hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải, lắp đặt thiết bị đo lưu lượng và quan trắc tự động các thông số ô nhiễm đặc trưng trong nước thải sau xử lý,…

Năm 2009, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã triển khai thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường đối với 793 cơ sở, khu công nghiệp trên phạm vi cả nước, tập trung vào các ngành nghề có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Kết quả thanh tra, kiểm tra cho thấy nhiều cơ sở đã có ý thức chấp hành tốt các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, tuy nhiên vẫn còn nhiều cơ sở vi phạm và bị đề nghị xử phạt hành chính với số tiền phạt lên đến trên 07 tỷ đồng, truy thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp với tổng số tiền 1.088.000.000 đồng.

Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã ban hành Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT quy định quản lý và bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu công nghiệp và cụm công nghiệp, trong đó quy định cụ thể, chi tiết về quản lý và bảo vệ môi trường đối với khu công nghiệp từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư xây dựng đến giai đoạn triển khai thi công xây dựng và giai đoạn hoạt động của khu công nghiệp; việc quan trắc, thông tin và báo cáo môi trường của khu công nghiệp; trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong khu công nghiệp. Thông tư cũng quy định lộ trình cho các khu công nghiệp đã đi vào hoạt động nhưng chưa có nhà máy xử lý nước thải tập trung phải tiến hành xây dựng và đưa vào sử dụng trước ngày 31 tháng 12 năm 2010.

Để đáp ứng yêu cầu xử lý các hành vi vi phạm, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2009 về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 3 năm 2010), trong đó nâng mức phạt tiền tối đa đối với một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là 500.000.000 đồng. Trong thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tiếp tục chỉ đạo tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và đặc biệt tập trung triển khai thanh tra diện rộng đối với các khu công nghiệp trên địa bàn cả nước nhằm thực hiện tốt các mục tiêu đã đặt ra trong Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.



121. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đất là tư liệu sản xuất chủ yếu của người nông dân, nhưng khi Nhà nước thu hồi, người nông dân không còn tư liệu để sản xuất, phát triển kinh tế, trong khi chính sách đền bù, trợ cấp chuyển đổi nghề nghiệp, cấp, đổi lại thửa đất chưa được quan tâm đúng mức, đời sống người nông dân mất đất gặp nhiều khó khăn. Đề nghị Chính phủ nghiên cứu, có giải pháp phù hợp

Trả lời:(Tại Công văn số 1117/BTNMT-PC ngày 7/4/2010 của Bộ Tài nguyên và môi trường)

Chính sách bồi thường, hỗ trợ, giải quyết việc làm cho người nông dân bị mất đất sản xuất luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Ngày 13 tháng 8 năm 2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2009/NĐ-CP quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; theo đó, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng; nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền tính theo giá đất cùng mục đích sử dụng (khoản 1 Điều 16). Ngoài phần bồi thường, người nông dân có đất sản xuất bị thu hồi còn được hưởng một số khoản hỗ trợ như hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo một trong các hình thức bằng tiền hoặc bằng đất ở hoặc nhà ở hoặc đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp (hỗ trợ bằng tiền từ 1,5 đến 5 lần giá đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi).

Với những quy định tại Nghị định số 69/2009/NĐ-CP sẽ giúp người nông dân bị mất đất sản xuất ổn định được cuộc sống, ổn định sản xuất.

122. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị: Nghị định số 64 về giao ruộng đất cho các hộ nông dân trong thời hạn 20 năm. Từ khi giao ruộng đất đến nay, nhiều hộ nông dân phát sinh thêm nhân khẩu, không đủ ruộng để sản xuất, ngược lại có không ít hộ có ruộng nhưng thiếu lao động. Đề nghị Nhà nước nghiên cứu sửa đổi, điều chỉnh lại cho phù hợp

Trả lời:(Tại Công văn số 1117/BTNMT-PC ngày 7/4/2010 của Bộ Tài nguyên và môi trường)

Theo quy định của pháp luật về đất đai thì Nhà nước giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng để trồng cây hàng năm với thời hạn sử dụng là 20 năm; khi hết thời hạn, người sử dụng đất được Nhà nước tiếp tục giao đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng, chấp hành đúng pháp luật về đất đai trong quá trình sử dụng và việc sử dụng đất đó phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt. Mục tiêu của việc giao đất như trên là để người dân yên tâm đầu tư sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, việc giao đất ổn định với thời hạn 20 năm như đã nêu trên cũng bộc lộ một số hạn chế như các cử tri phản ánh.



123. Cử tri các tỉnh Bắc Kạn, Kiên Giang, Tuyên Quang, Long An, Thái Bình, Trà Vinh, Đắk Lắk, Khánh Hoà, Đồng Nai, Cao Bằng, Ninh Bình, Bà Rịa - Vũng Tàu và thành phố Hải Phòng kiến nghị: Đề nghị Chính phủ tiếp tục có giải pháp chấn chỉnh công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ nhằm hạn chế tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, khắc phục tình trạng chậm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Luật, Pháp lệnh của Quốc hội (Luật An ninh Quốc gia, Luật Bảo hiểm y tế,...) để đảm bảo tính kịp thời, chính xác và phù hợp với thực tiễn;

Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri kiến nghị Chính phủ và các cơ quan liên quan sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, nhất là việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật thanh niên, Luật hoạt động chữ thập đỏ.

Trả lời: (Tại Công văn số 689/BTP-VP ngày 18/3/2010 của Bộ Tư pháp)

Với tư cách là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:

a) Về tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ, cơ quan ngang Bộ ban hành:

Trong thời gian qua, các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã cơ bản chấp hành tốt trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có yêu cầu về tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến văn bản quy phạm pháp luật cần ban hành; khảo sát đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến nội dung chính của dự thảo văn bản.

Các cơ quan chủ trì soạn thảo đã cố gắng đưa những quy định cụ thể vào trong luật, pháp lệnh để luật, pháp lệnh có thể áp dụng ngay vào cuộc sống khi có hiệu lực. Đối với các văn bản cần phải có hướng dẫn, quy định chi tiết, trong quá trình soạn thảo, các cơ quan chủ trì soạn thảo cũng đã cố gắng dự liệu những điều, khoản, điểm cụ thể nào cần phải có văn bản hướng dẫn, hình thức văn bản và cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo. Khi trình dự thảo luật, pháp lệnh nhiều Bộ, ngành đã đồng thời chuẩn bị kèm theo cả văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết các điều, khoản, điểm đó để trình Chính phủ, Quốc hội.

Tuy nhiên, nhìn chung tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ vẫn chưa được khắc phục triệt để. Thực trạng này là do một số nguyên nhân sau:

- Nguyên nhân khách quan:

+ Việc xây dựng các đạo luật chuyên ngành thường được giao cho các Bộ, ngành thực hiện quản lý nhà nước đối với lĩnh vực đó chủ trì thực hiện, do đó, trong nội dung của các đạo luật không tránh khỏi cách nhìn nhận có nơi, có lúc còn mang tính riêng biệt của từng Bộ, ngành; bên cạnh đó, việc tổ chức, đánh giá về tình hình thực hiện và phương thức xử lý những vấn đề phát sinh, mang tính chất liên ngành và hệ thống của một văn bản quy phạm pháp luật chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, khi các Bộ, ngành ban hành văn bản để hướng dẫn luật, pháp lệnh, nghị định đã nảy sinh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, ngành.

+ Trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, có nhiều văn bản mang tính chất chuyên ngành nhưng phạm vi điều chỉnh, mức độ ảnh hưởng và việc tổ chức, quản lý liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Sự đan xen về thẩm quyền giữa cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực và cơ quan quản lý tổng hợp như hiện nay dẫn đến sự cồng kềnh, chồng chéo của hệ thống văn bản pháp luật.

+ Hệ thống pháp luật Việt Nam có nhiều luật khung, trong khi các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành nhiều khi không được ban hành một cách đồng bộ và kịp thời, trong khi đó có một số lĩnh vực cụ thể, các cơ quan có thẩm quyền lại ban hành quá nhiều văn bản để điều chỉnh.

- Nguyên nhân chủ quan:

+ Một số Bộ, ngành chưa nhận thức đầy đủ và quán triệt sâu sắc việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nói chung và việc hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết nói riêng là hoạt động chủ yếu, trọng tâm của quản lý nhà nước, là chức năng cơ bản của bộ máy hành chính nhà nước nên chưa đầu tư thích đáng về mặt thời gian, công sức và nguồn lực cho nhiệm vụ quan trọng này. Chất lượng hoạt động của một số Ban soạn thảo chưa cao.

+ Trong thời gian qua, hoạt động xây dựng pháp luật vừa được thực hiện theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002 với nhiều điểm bất cập, vừa phải thực hiện theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 với yêu cầu cao hơn về chất lượng và tiến độ trình dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, trong khi lại chưa đủ thời gian để tập huấn về các quy định mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 cho cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật.

Trong thời gian tới, để khắc phục tình trạng này, Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu, tham mưu với Chính phủ một số giải pháp như sau:



Thứ nhất, tiếp tục quán triệt đến các Bộ, ngành tầm quan trọng đặc biệt của công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước; triển khai thực hiện nghiêm túc các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, trong đó có quy định về việc lập dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động của văn bản quy phạm pháp luật, tổng kết thi hành pháp luật, đánh giá tác động của dự thảo văn bản.

Thứ hai, nghiên cứu đổi mới phương thức và tăng cường kỷ luật trong hoạt động của các Ban soạn thảo luật, pháp lệnh; nâng cao chất lượng thẩm định, thẩm tra dự thảo luật, pháp lệnh; kiên quyết chưa trình Chính phủ và Quốc hội những dự án, dự thảo chưa đạt chất lượng, hạn chế tình trạng các văn bản được ban hành chồng chéo, mâu thuẫn nhau.

Thứ ba, các Bộ, ngành cần tăng cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, rà soát văn bản quy phạm pháp luật để từng bước tạo sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ tư, kiện toàn tổ chức pháp chế Bộ, ngành; tăng cường năng lực cho đội ngũ trực tiếp làm công tác soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật; tăng kinh phí thích đáng cho công tác xây dựng pháp luật.

b) Về tình trạng chậm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện luật, pháp lệnh của Quốc hội:

Theo Báo cáo của Chính phủ, tính đến ngày 05/11/2009, còn 44 văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh đã có hiệu lực chưa được ban hành. Trong đó, các luật có hiệu lực từ 01/7/2008 còn nợ 07 văn bản; các luật có hiệu lực từ ngày 01/01/2009 còn 19 văn bản (riêng Luật Năng lượng nguyên tử có 16 văn bản hướng dẫn nhưng đến nay chưa ban hành được văn bản nào). Tính đến ngày 01/7/2009, 06 luật bắt đầu có hiệu lực thi hành là: Luật Quốc tịch Việt Nam, Luật Thi hành án dân sự, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Giao thông đường bộ, Luật Công nghệ cao, Luật Đa dạng sinh học, trong đó cần tổng số 24 văn bản hướng dẫn, nhưng mới ban hành được 06 văn bản, còn lại 18 văn bản (riêng Luật Công nghệ cao có 12 văn bản hướng dẫn nhưng hiện nay chưa ban hành được văn bản nào).

Đối với Luật An ninh quốc gia, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Thanh niên, Luật Hoạt động chữ thập đỏ: Sau khi các dự án Luật này được Quốc hội thông qua, Chính phủ đã yêu cầu các Bộ, ngành tập trung thoả đáng nguồn lực để khẩn trương hoàn thành việc soạn thảo văn bản hướng dẫn thi hành. Kết quả thực hiện của các Bộ, ngành như sau:

- Về Luật An ninh quốc gia: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các văn bản: (1) Chỉ thị số 16/2005/CT-TTg ngày 11/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai thực hiện Luật An ninh quốc gia; (2) Nghị định số 151/2005/NĐ-CP ngày 14/12/2005 quy định về quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia; (3) Nghị định số 16/2006/NĐ-CP ngày 25/01/2006 quy định việc khôi phục danh dự, đền bù, trợ cấp cho cơ quan, tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do tham gia bảo vệ an ninh quốc gia.

- Về Luật Bảo hiểm y tế: Chính phủ đã ban hành Nghị định số 62/2009/NĐ-CP ngày 27/7/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế.

- Về Luật Thanh niên: Bộ Nội vụ đang khẩn trương chuẩn bị dự thảo Nghị định quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật này để trình Chính phủ ban hành trong Quý I/2010.

- Về Luật Hoạt động chữ thập đỏ: Hội Chữ thập đỏ Việt Nam đang chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan soạn thảo văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Hoạt động chữ thập đỏ để trình Chính phủ ban hành trong Quý II/2010.

Trong thời gian qua, mặc dù Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các Bộ, ngành chủ trì và phối hợp soạn thảo văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh nói chung, đặc biệt là các luật có hiệu lực từ ngày 01/7/2009 và các Bộ, ngành đã có nhiều nỗ lực, nhưng hiện nay vẫn còn một số văn bản hướng dẫn chưa được ban hành đúng tiến độ. Tồn tại này là do một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:

- Nguyên nhân khách quan:

+ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 đặt ra yêu cầu cao hơn so với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, đặc biệt là các nội dung liên quan đến chất lượng soạn thảo và thời hạn trình dự thảo văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh. Tuy nhiên, vì Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 mới có hiệu lực được hơn một năm nên việc hướng dẫn cũng như thực hiện các quy định mới chưa thực sự đi vào nề nếp.

+ Số lượng văn bản hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh đã nêu ở phần trên là rất lớn.

+ Các vấn đề cần phải hướng dẫn có nội dung phức tạp, đòi hỏi phải đầu tư thời gian, công sức nghiên cứu kỹ lưỡng, thấu đáo, trong khi các Bộ chủ trì soạn thảo lại đồng thời phải đầu tư nhiều thời gian để thực hiện nhiệm vụ quản lý, điều hành công việc hàng ngày. Nhiều vấn đề cần hướng dẫn lại liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của nhiều Bộ, ngành kể cả các cơ quan ngoài Chính phủ như Toà án, Viện kiểm sát... Do đó, để đạt được sự đồng thuận của các cơ quan là việc không đơn giản. Đó cũng là một trong những nguyên nhân làm kéo dài tiến trình soạn thảo, trình và ban hành văn bản hướng dẫn.

+ Nhiều Bộ, ngành vừa phải soạn thảo nghị định của Chính phủ vừa phải xây dựng các quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc các thông tư thuộc thẩm quyền ban hành của của mình; do đó, mất nhiều thời gian cho việc soạn thảo, ban hành văn bản. Mặt khác, việc soạn thảo, trình, thông qua văn bản quy phạm pháp luật nếu bảo đảm chặt chẽ, tuân thủ theo đúng quy trình cũng đòi hỏi không ít thời gian.

- Nguyên nhân chủ quan:

+ Các cơ quan chủ trì soạn thảo vẫn chưa thực sự chủ động và chậm triển khai việc xây dựng và trình Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành.

+ Cơ chế phối hợp giữa các Bộ chuyên ngành chủ trì xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh với Văn phòng Chính phủ còn chưa chặt chẽ; tình trạng xin lùi tiến độ gây ra nhiều khó khăn cho công tác lập chương trình xây dựng Nghị định của Chính phủ vẫn còn tồn tại.

Để khắc phục tình trạng chậm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ đề xuất với Chính phủ quán triệt đến các Bộ, ngành:

- Thực hiện nghiêm chỉnh Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Nghị định số 24/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Chỉ thị số 636/CT-TTg ngày 20/5/2009 về việc triển khai thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về công tác soạn thảo và ban hành văn bản.

- Các cơ quan chủ trì soạn thảo cần chủ động, tích cực hơn nữa; tập trung thời gian, đầu tư nhân lực, kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn thi hành để tránh tình trạng luật đã có hiệu lực thi hành mà vẫn chưa được thi hành vì chưa có văn bản hướng dẫn dưới luật như ý kiến phản ánh của cử tri.

- Tăng cường phối hợp giữa các Bộ hữu quan với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp để đẩy nhanh tiến độ trình dự thảo văn bản hướng dẫn thi hành các luật theo đúng yêu cầu của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với Văn phòng Chính phủ thường xuyên đôn đốc các Bộ trong việc soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là các văn bản còn "nợ".



124. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị:

- Đề nghị Quốc hội sớm ban hành Luật Xử lý vi phạm hành chính để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, pháp điển hoá hệ thống pháp luật xử phạt vi phạm hành chính và tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý.

- Trước mắt, đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội nghiên cứu bổ sung Điều 2 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, giao cho HĐND cấp tỉnh quy định hình thức, biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm hành chính phát sinh thực tế tại địa phương, trong khi chưa có quy định của Chính phủ về vấn đề đó; đồng thời nghiên cứu, sửa đổi các Điều 28, 29, 56 (Khoản 1) của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính nhằm bảo đảm yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các cơ quan có thẩm quyền khi thực hiện nhiệm vụ xử lý vi phạm hành chính.

- Để tổng kết, đánh giá kết quả thi hành Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính từ năm 2002 đến nay, đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, tổ chức giám sát việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong năm 2010.

Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12

tải về 4.57 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   60




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương