UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ BẢY quốc hội khoá XII



tải về 4.57 Mb.
trang17/60
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích4.57 Mb.
#16071
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   60

Trả lời: (Tại Công văn số 689/BTP-VP ngày 18/3/2010 của Bộ Tư pháp)

Với tư cách là cơ quan giúp Chính phủ xây dựng dự thảo Luật Xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:

Dự án Luật Xử lý vi phạm hành chính là một trong các dự án Luật quan trọng vì các nội dung của dự án liên quan trực tiếp đến quyền, tự do cơ bản của công dân như các vấn đề về xử phạt vi phạm hành chính, tạm giữ người theo thủ tục hành chính, khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm,... do đó, việc nghiên cứu soạn thảo dự án Luật này cần phải được nghiên cứu nghiêm túc, thận trọng; nhiều vấn đề đã và đang được tiến hành nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực tiễn thi hành một cách kỹ lưỡng để có cơ sở cho việc xử lý toàn diện tại dự án Luật. Trong đó có vấn đề thẩm quyền ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Hiện nay, theo Nghị quyết số 27/2008/QH12 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh thì dự án Luật xử lý vi phạm hành chính đã được đưa vào chương trình chuẩn bị của nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII (2007-2011); các cơ quan có thẩm quyền đang tiến hành các công việc theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 để sớm trình Chính phủ và Quốc hội.



125. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Theo quy định của Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV của liên Bộ Tư pháp - Nội vụ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thì Sở Tư pháp được giao nhiệm vụ "theo dõi chung về tình hình thi hành pháp luật ở địa phương" nhưng hiện nay chưa có văn bản pháp luật quy định về nội dung, phạm vi, phương thức tổ chức thực hiện. Do đó việc triển khai nhiệm vụ này trên thực tế chưa có cơ sở. Đề nghị Chính phủ có văn bản quy định cụ thể công tác theo dõi tình thi hành pháp luật, trong đó xác định rõ nội dung, cách thực thực hiện cũng như mô hình tổ chức và điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ".

Trả lời: (Tại Công văn số 689/BTP-VP ngày 18/3/2010 của Bộ Tư pháp)

Theo quy định tại Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, thì Bộ Tư pháp là cơ quan được giao thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thi hành pháp luật với hai nhiệm vụ cụ thể là theo dõi chung tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước; hướng dẫn, đôn đốc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong công tác theo dõi, đánh giá, báo cáo về tình hình thi hành pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành, địa phương.

Theo dõi chung về tình hình thi hành pháp luật là một công tác mới, rất quan trọng và chưa có nhiều kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện, đây cũng là nhiệm vụ có ý nghĩa xã hội lớn và có liên quan đến tổ chức và hoạt động của tất cả các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Để công tác theo dõi thi hành pháp luật được triển khai một cách bài bản, nề nếp và có hiệu quả, phải có quá trình nghiên cứu và chuẩn bị các điều kiện cần thiết với những bước đi và lộ trình phù hợp, trong đó việc xây dựng một khung pháp lý dành cho công tác này là rất quan trọng và cần thiết. Ngày 30/11/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1987/QĐ-TTg phê duyệt Đề án triển khai thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật. Trên cơ sở kết quả thực hiện Đề án, Bộ Tư pháp sẽ trình Chính phủ dự thảo Nghị định quy định về theo dõi thi hành pháp luật. Hiện nay, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 03/2010/TT-BTP ngày 03/3/2010 hướng dẫn thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật.

126. Cử tri Thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Về phí thi hành án, kiến nghị Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan khi ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết Luật thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 ngày 14/11/2008, cần xem xét, bổ sung trường hợp tổ chức bảo hiểm xã hội - người được thi hành án không phải chịu phí thi hành án đối với khoản tiền nợ bảo hiểm xã hội được thu hồi".

Trả lời: (Tại Công văn số 689/BTP-VP ngày 18/3/2010 của Bộ Tư pháp)

Với tư cách là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:

Điều 34 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự quy định:

"Những trường hợp không phải chịu phí thi hành án

Người được thi hành án không phải chịu phí thi hành án khi được nhận các khoản tiền, tài sản thuộc các trường hợp sau đây:

1. Tiền cấp dưỡng; tiền bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm; tiền lương, tiền công lao động; tiền trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc; tiền bảo hiểm xã hội; tiền bồi thường thiệt hại vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động;

2. Khoản kinh phí thực hiện chương trình chính sách xã hội của Nhà nước xoá đói, giảm nghèo, hỗ trợ vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn, các khoản kinh phí trực tiếp phục vụ việc chăm sóc sức khoẻ, giáo dục của nhân dân không vì mục đích kinh doanh mà người được thi hành án được nhận;

3. Hiện vật được nhận chỉ có ý nghĩa tinh thần, gắn với nhân thân người nhận, không có khả năng trao đổi;

4. Số tiền hoặc giá trị tài sản theo các đơn yêu cầu thi hành án không vượt quá hai lần mức lương tối thiểu chung do nhà nước quy định;

5. Khoản thu hồi nợ vay cho Ngân hàng Chính sách xã hội."

Theo đó, khoản nợ bảo hiểm xã hội của tổ chức bảo hiểm xã hội được thu hồi không thuộc trường hợp phải chịu phí thi hành án.



127. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Đề nghị Chính phủ nghiên cứu, sửa đổi và có văn bản hướng dẫn quy định rõ về thời hiệu, thời hạn tuyên bố phá sản và có chế tài đối với người mắc nợ khi có tài sản nhưng không thi hành án.

Đề nghị quy định rõ trong trường hợp Tổ quản lý - thanh lý tài sản khi thực hiện nhiệm vụ được quy định tại các điểm đ, e, h, k, khoản 2, Điều 10 Luật phá sản thì có phải ra quyết định thi hành quyết định của Thẩm phán hay không".

Trả lời: (Tại Công văn số 689/BTP-VP ngày 18/3/2010 của Bộ Tư pháp)

Với tư cách là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật, thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:

a) Về đề nghị Chính phủ nghiên cứu, sửa đổi và có văn bản hướng dẫn quy định rõ về thời hiệu, thời hạn tuyên bố phá sản:

Theo Điều 86 và 87 Luật Phá sản năm 2004 thì Thẩm phán ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản đồng thời với việc ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản hoặc trong trường hợp đặc biệt mà doanh nghiệp không còn tiền và tài sản khác để nộp tiền tạm ứng phí phá sản, không còn tài sản hoặc còn nhưng không đủ để thanh toán phí phá sản. Luật không có quy định về thời hiệu, thời hạn tuyên bố phá sản, vì vậy Chính phủ không thể hướng dẫn vượt quá quy định của Luật.

b) Về đề nghị có chế tài đối với người mắc nợ khi có tài sản nhưng không thi hành án:

Chế tài đối với người mắc nợ khi có tài sản nhưng không thi hành án đã được quy định tại Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Bộ luật Hình sự năm 1999, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2009, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008, như: người phải thi hành án có tài sản mà không thi hành án thì có thể bị áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc phải thi hành án hoặc bị xử phạt hành chính.

c) Đề nghị quy định rõ trong trường hợp Tổ quản lý - thanh lý tài sản khi thực hiện nhiệm vụ được quy định tại các điểm đ, e, h, k, khoản 2, Điều 10 Luật phá sản thì có phải ra quyết định thi hành quyết định của Thẩm phán hay không:

Theo quy định của Luật Phá sản thì Tổ quản lý - thanh lý tài sản do Thẩm phán quyết định thành lập có nhiệm vụ giúp Thẩm phán thực hiện các hoạt động quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản (Điều 9). Vì vậy, trong các trường hợp trên, Tổ quản lý - thanh lý tài sản không phải ra quyết định thi hành quyết định của Thẩm phán. Hơn nữa, theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì: "Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự không ra Quyết định thi hành án đối với các Quyết định của Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản, kể cả quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, trừ trường hợp quy định tại Điều 139 của Luật này"; Điều 139 quy định: "Trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã chưa thanh toán nợ phát sinh sau khi có quyết định tuyên bố phá sản thì chủ nợ chưa được thanh toán nợ có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án giải quyết. Khi có quyết định giải quyết của Toà án, đương sự có quyền gửi đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành theo quy định của Luật này". Như vậy, Quyết định giải quyết tranh chấp sau khi có Quyết định tuyên bố phá sản là Quyết định mới, do đó, cơ quan thi hành án phải ra Quyết định thi hành án và tổ chức việc thi hành án đó để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.



128. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Trong thực tế ở tỉnh Phú Thọ, các quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức giám định tư pháp được thành lập theo Pháp lệnh Giám định tư pháp năm 2004 chưa phù hợp. Việc thành lập tổ chức giám định độc lập với tổ chức khám bệnh, chữa bệnh sẽ không tận dụng được lợi thế về trang thiết bị, cơ sở vật chất và một số điều kiện hành nghề khác. Bên cạnh đó, Sở Tư pháp không quản lý về con người và kinh phí đảm bảo cho hoạt động giám định tư pháp nên khi thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đã gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Đề nghị sớm hoàn thiện văn bản pháp luật quy định về giám định tư pháp một cách rõ ràng, cụ thể, nghiên cứu sửa đổi việc quy định về tổ chức, hoạt động của tổ chức giám định tư pháp ở các địa phương cho phù hợp với tình hình thực tế".

Trả lời: (Tại Công văn số 689/BTP-VP ngày 18/3/2010 của Bộ Tư pháp)

Với tư cách là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:

Đây là những khó khăn chung của công tác giám định tư pháp. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là những bất cập trong quy định của Pháp lệnh giám định tư pháp. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang chuẩn bị xây dựng dự án Luật Giám định tư pháp với một số nội dung chính: Nhà nước cần đầu tư cho một số lĩnh vực giám định (pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự) để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng; thực hiện xã hội hoá đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên; quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục trưng cầu và thực hiện giám định; xây dựng quy chuẩn chuyên môn phù hợp với từng lĩnh vực giám định; xác định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định, bảo đảm đúng đắn, khách quan để làm căn cứ giải quyết các vụ án. Vấn đề cử tri kiến nghị sẽ được nghiên cứu trong quá trình xây dựng Dự án Luật giám định tư pháp.

129. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Đề nghị cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi Bộ Luật Hình sự theo hướng tạo điều kiện cho lực lượng công an và các cơ quan pháp luật đủ khả năng xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường bằng các biện pháp hình sự. Theo đó, chủ thể của tội phạm: tội phạm thường được cấu thành sau khi đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng đối tượng vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường thường là tổ chức trong khi chủ thể phạm tội là con người và chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Từ đó, dẫn đến khó khăn cho việc xác định chủ thể của tội phạm. Về yếu tố khách quan, tác hại của các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường thường chỉ phát sinh sau thời gian tích luỹ và rất khó định lượng để xác định hậu quả, nhưng cấu thành tội phạm lại luôn đòi hỏi hậu quả (cấu thành vật chất) và thậm chí là hậu quả nghiêm trọng. Vì vậy, cần có sự bổ sung, sửa đổi phần các tội phạm về môi trường trong Bộ Luật Hình sự theo hướng quy định cấu thành hình thức đối với loại tội phạm này hoặc nếu giữ nguyên cấu thành vật chất như hiện nay thì sớm ban hành văn bản hướng dẫn

Trả lời: (Tại Công văn số 635/BCA-V11 ngày 24/3/2010 của Bộ Công an)

Theo quy định tại Điều 182, 183, 184 của Bộ luật Hình sự năm 1999, hành vi gây ô nhiễm môi trường chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn cả 3 dấu hiệu là thải, phát tán vào môi trường (không khí, nước, đất) các yếu tố độc hại, chất bức xạ, phóng xạ quá tiêu chuẩn cho phép, đã bị xử phạt hành chính mà cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền; gây hậu quả nghiêm trọng. Thực tiễn cho thấy, việc quy định điều kiện để truy cứu trách nhiệm như trên đã gây nhiều khó khăn cho hoạt động điều tra, xử lý hành vi phạm tôi gây ô nhiễm môi trường, hạn chế hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực này.

Để tháo gỡ những bất cập trong các quy định của Bộ luật Hình sự nói chung, tội phạm về môi trường nói riêng, ngày 19/6/2009, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung mốt ố điều của Bộ luật Hình sự, trong đó tội gây ô nhiễm môi trường (quy định tại Điều 182) đã được sửa đổi theo hướng bỏ dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính mà cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền” trong cấu thành cơ bản của tội phạm. Hành vi gây ô nhiễm môi trường sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này khi thải, phát tán vào môi trường các chất độc hại, chất bức xạ, phóng xạ quá tiêu chuẩn quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng hoặc làm môi trường ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác nếu thỏa mãn các dấu hiệu khác của cấu thành tội phạm.

Trả lời: (Tại Công văn số 689/BTP-VP ngày 18/3/2010 của Bộ Tư pháp)

Với tư cách là cơ quan giúp Chính phủ xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ Tư pháp có ý kiến như sau:

Việc pháp luật chưa quy định pháp nhân là chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực môi truờng nói riêng và chủ thể của tội phạm nói chung là một trong những rào cản về mặt pháp luật để xử lý hiệu quả các vi phạm nghiêm trọng về môi trường trong thời gian vừa qua. Trong quá trình xem xét, thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII (Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009), các đại biểu Quốc hội cũng đã phân tích và chỉ ra bất cập này. Tuy nhiên, đây là một vấn đề hết sức phức tạp, hiện còn nhiều ý kiến khác nhau, cần tiếp tục được nghiên cứu, làm rõ hơn. Do vậy, tại Nghị quyết số 33/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự, Quốc hội đã giao cho Chính phủ phối hợp với các cơ quan hữu quan tiếp tục nghiên cứu các điều khoản của Bộ luật Hình sự có vướng mắc, bất cập trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm mà chưa có điều kiện sửa đổi, bổ sung để chuẩn bị phương án cho việc sửa đổi, bổ sung cơ bản, toàn diện Bộ luật Hình sự.

Về ý kiến của cử tri đề nghị quy định cấu thành hình thức đối với các tội phạm về môi trường là hết sức xác đáng. Sự bất cập trong việc quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về cấu thành vật chất đối với các tội phạm môi trường đã gây khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng luật. Để góp phần khắc phục những khó khăn này, các tội phạm về môi trường trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự được sửa đổi một cách cơ bản về cấu thành theo hướng linh hoạt hơn, cụ thể là: quy định cấu thành tổng hợp (vừa cấu thành hình thức vừa cấu thành vật chất), nghĩa là, chỉ cần xác định được hành vi vi phạm xảy ra là có thể xử lý được, còn trong trường hợp nếu xác định được ngay hậu quả thì hậu quả cũng là một yếu tố độc lập của cấu thành tội phạm để xử lý tội phạm. Ví dụ: Điều 182 mới (Tội gây ô nhiễm môi trường) được xây dựng từ việc hợp nhất 03 tội gây ô nhiễm môi trường (không khí, nguồn nước và đất); theo quy định tại điều này thì người gây ô nhiễm môi trường có thể bị xử lý hình sự nếu thuộc một trong 3 trường hợp sau: một là, "thải vào không khí, nguồn nước, đất các chất gây ô nhiễm môi trường, phát tán bức xạ, phóng xạ vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng"; hai là, "làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng"; ba là, gây hậu quả nghiêm trọng khác,...



130. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Hiện nay, giữa các ngành chức năng còn nhiều ý kiến cho rằng do quy định hiện hành không cho phép truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân, nên việc xử lý hình sự các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường rất khó khăn. Đề nghị, trong khi chờ sửa các quy định có liên quan trong Bộ Luật Hình sự, các cơ quan chức năng cần hướng dẫn cụ thể vấn đề này theo hướng cá thể hoá trách nhiệm hình sự của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường để đấu tranh mạnh mẽ hơn nữa đối với tội phạm về môi trường đang gây bức xúc trong xã hội

Trả lời: (Tại Công văn số 635/BCA-V11 ngày 24/3/2010 của Bộ Công an)

Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999, trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng đối với cá nhân, không áp dụng đối với tổ chức, pháp nhân, trường hợp trong tổ chức, pháp nhân có hành vi vi phạm pháp luật nói chung, pháp luật về bảo vệ môi trường nói riêng đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì cá nhân thực hiện hành vi tổ chức, chỉ huy, điều hành và trực tiếp thực hiện hành vi vi phạm của tổ chức, pháp nhân đó phải chịu trách nhiệm hình sự. Để triển khai thực hiện thống nhất, có hiệu quả các quy định liên quan của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự, Chỉ thị số 1762/CT-TTg ngày 4/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự và Nghị quyết số 33/2009/QH12 của Quốc hội, Bộ Tư pháp được giao chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể, trong đó có việc áp dụng các quy định về loại tội phạm này.



131. Cử tri tỉnh Cần Thơ kiến nghị: Tình trạng nhiều dự án quy hoạch phát triển đô thị không đấu nối được với nhau, nhiều dự án không gắn với quy hoạch tổng thể, mỗi dự án làm theo một cách khác nhau, dẫn đến sự không thống nhất về kiến trúc, cảnh quan đô thị… Cử tri đề nghị Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần tăng cường quản lý hoạt động quy hoạch phát triển đô thị, nhằm đảm bảo chất lượng quy hoạch gắn với sự phát triển chung.

Trả lời (tại Công văn số 504/BXD-KTQH ngày 29/3/2010 của Bộ Xây dựng)

Trong thời gian qua, hệ thống văn bản pháp luật về quy hoạch xây dựng, quản lý đầu tư xây dựng và phát triển đô thị đã được ban hành khá đầy đủ, như: Luật Xây dựng năm 2003, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản (2006), Nghị định hướng dẫn thi hành Luật như Nghị định số 08/2005/NĐ-CP ngày 24/1/2005 của Chính phủ về Quy hoạch xây dựng, Nghị định số 29/2007/NĐ-CP ngày 27/2/2007 về quản lý kiến trúc đô thị; Nghị định 90/2006/NĐ-CP, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật nhà ở; Nghị định số 153/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh bất động sản; Nghị định số 02/2006/NĐ-CP ban hành Quy chế khu đô thị mới. Để triển khai và đưa các văn bản pháp luật trên vào thực tế cuộc sống, phù hợp với yêu cầu quản lý và phát triển của địa phương, Bộ Xây dựng cũng đã ban hành các Quyết định, Thông tư, hư­ớng dẫn cụ thể các Nghị định. Nhiều địa phương đã có văn bản pháp luật, quy định cụ thể phù hợp với tình hình quản lý của địa phương.

Tuy nhiên, trên thực tế nhiều dự án khu đô thị khi triển khai thực hiện còn không gắn với quy hoạch tổng thể, không đấu nối được hạ tầng kỹ thuật, không thống nhất về kiến trúc, cảnh quan như ý kiến của cử tri đã nêu. Nguyên nhân của những bất cập trên đó là:

- Việc lập quy hoạch còn chậm và thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển và yêu cầu quản lý của địa phương, chưa thực sự đi trước một bước để làm cơ sở đầu tư xây dựng;

- Chất lượng quy hoạch còn hạn chế, thiếu tính khả thi, phải điều chỉnh nhiều lần, chưa thu hút được các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư phát triển theo quy hoạch;

- Việc quản lý xây dựng theo quy hoạch còn hạn chế; công tác thanh kiểm tra thực hiện quy hoạch còn chưa được quan tâm;

- Nguồn lực của địa phương dành cho đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật khung của đô thị còn hạn chế;

- Các quy chế quản lý kiến trúc, cảnh quan chưa được lập và ban hành;

- Chế tài xử lý vi phạm đối với các chủ đầu tư về việc cam kết thực hiện đầu tư hạ tầng kỹ thuật và xã hội đảm bảo với tiến độ đầu tư nhà ở còn chưa được quy định.

Để khắc phục những tồn tại trên, nâng cao hơn nữa hiệu quản lý trong công tác quy hoạch xây dựng tại các đô thị, Bộ Xây dựng đang xây dựng kế hoạch hàng năm cho các dự án quy hoạch xây dựng phục vụ yêu cầu quản lý Nhà n­ước; xây dựng mẫu Quy chế quản lý kiến trúc, cảnh quan đô thị; tăng cường chỉ đạo, kiểm tra thực hiện và h­ướng dẫn các địa phư­ơng trong công tác lập và thực hiện quy hoạch; điều chỉnh các quy định, bổ sung các chế tài xử lý vi phạm trong công tác quản lý đầu tư xây dựng các khu đô thị. Đồng thời, Bộ Xây dựng cũng hoàn thành dự thảo các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Quy hoạch đô thị và đã trình Chính phủ ban hành, gồm Nghị định lập, thẩm định, phê duyệt và quản lý quy hoạch đô thị; Nghị định quản lý kiến trúc, cảnh quan đô thị, Nghị định quản lý xây dựng không gian ngầm đô thị; điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn về quy hoạch xây dựng phù hợp với thực tế phát triển, nhằm từng bước tạo hành lang pháp lý cho các dự án phát triển khu đô thị đồng bộ, có chất lượng tốt, gắn kết với với quy hoạch chung của toàn đô thị theo hướng bền vững.



132. Cử tri tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kiến nghị: Việc các đơn vị cấp nước sinh hoạt thu tiền tối thiểu sử dụng nước của khách hàng là các hộ gia đình với mức 04m3/tháng, trong khi các hộ gia đình này sử dụng ít hơn 04m3/tháng. Đề nghị Chính phủ tháo gỡ vấn đề trên theo hướng sửa đổi Điều 42 của Nghị định số 117/2007/NĐ-CP của Chính phủ là thu tiền sử dụng nước theo lượng nước sử dụng thực tế.

Trả lời (tại Công văn số 474/BXD-HTKT ngày 24/3/2010 của Bộ Xây dựng)

Trước hết, Bộ Xây dựng xin cám ơn sự quan tâm của các cử tri về việc triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là các văn bản về lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật đô thị. Nhằm quản lý thống nhất và đáp ứng các yêu cầu phát triển ổn định, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nói chung và văn bản lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật nói riêng đang dần được hoàn thiện.

Nghị định số 117/2007/NĐ-CP ngày 11/7/2007 của Chính phủ về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch là công cụ quản lý thống nhất có tính pháp lý cao, góp phần cải cách, thúc đẩy ngành cấp nước phát triển bền vững, ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lượng dịch vụ cấp nước, đáp ứng yêu cầu của cộng đồng. Việc ban hành Nghị định góp phần tham gia thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, trong đó các doanh nghiệp cấp nước chuyển đổi hoạt động từ cơ chế bao cấp sang kinh doanh, đồng thời khuyến khích, tạo hành lang pháp lý bình đẳng cho các thành phần kinh tế khác tham gia hoạt động trong lĩnh vực cấp nước.

Việt Nam hiện nay chưa có Luật riêng cho lĩnh vực cấp nước, vì vậy theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị định phải được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua trước khi Chính phủ ban hành. Quy định tại khoản 2, Điều 42 Nghị định số 117/2007/NĐ-CP (thu tối thiểu 4m3/hộ gia đình/tháng) cũng đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chất vấn và sau khi Chính phủ giải trình thì đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chấp thuận.

Việc quy định thu tối thiểu 4m3/hộ gia đình/tháng tại khoản 2, Điều 42 của Nghị định 117 có ý nghĩa quan trọng vì những lý do sau đây:

- Bảo đảm hài hòa lợi ích và trách nhiệm của người sử dụng nước và doanh nghiệp cấp nước: Doanh nghiệp cấp nước phải đầu tư đồng bộ đến điểm đấu nối với khách hàng sử dụng nước, bao gồm cả đồng hồ đo nước và phải bảo đảm duy trì hoạt động liên tục, thường xuyên của hệ thống cấp nước thì khách hàng (hộ gia đình) cũng phải có nghĩa vụ đóng góp nhằm duy trì hoạt động bình thường của hệ thống cấp nước. Do đó, cần thiết thu một mức phí tối thiểu trong trường hợp hộ gia đình không sử dụng nước hoặc sử dụng quá ít.

- Khắc phục những hạn chế, tồn tại trong thời gian trước đây như: Trong quá trình thực hiện dự án cấp nước, người dân đều cam kết đấu nối và chi trả tiền nước sạch, trên cơ sở có sự đồng thuận của đa số các hộ dân trong phạm vi dự án thì dự án mới được triển khai; nhưng thực tế sau khi đưa công trình vào hoạt động, nhiều hộ gia đình đã không thực hiện đúng như cam kết mà vẫn tiếp tục sử dụng những nguồn nước không hợp vệ sinh như nước giếng, ao, hồ..., đặc biệt tại các đô thị nhỏ và khu vực ven đô thị, làm ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư và tính bền vững của dự án cấp nước và ảnh hưởng không nhỏ đến tài nguyên, môi trường đặc biệt là nguồn nước ngầm. Quy định này cũng góp phần nâng cao nhận thức về sức khỏe cộng đồng và khuyến khích người dân sử dụng nước sạch.

Xuất phát từ thực tế sử dụng nước trung bình cho mỗi hộ gia đình (một đấu nối) là 16m3/tháng (mỗi hộ bình quân 4 người) thì việc xác định khối lượng tối thiểu 4m3/hộ gia đình/tháng chỉ bằng 1/4 so với mức sử dụng bình quân của một hộ gia đình và không cao hơn mức sử dụng bình quân cho trường hợp hộ độc thân. Giá nước sạch bình quân hiện nay khoảng 3.500 đồng/m3, theo quy định tại khoản 2, Điều 42 thì chi phí nước tối thiểu là 14.000 đồng/hộ gia đình/tháng, chiếm tỷ trọng không lớn so với thu nhập bình quân của hộ gia đình. Đối với một số đối tượng đặc biệt khó khăn, ngoài việc được hưởng các chính sách hỗ trợ, đãi ngộ hiện hành của Nhà nước, tùy theo từng địa phương còn có thể được hỗ trợ thêm thông qua cơ chế giá nước sạch như là bù chéo giữa công nghiệp, dịch vụ cho nước sinh hoạt, giá lũy tiến...

Nghị định số 117/2007/NĐ-CP từ khi ban hành đã và đang từng bước phát huy hiệu quả, Bộ Xây dựng vẫn đang tiếp tục theo dõi việc triển khai thực hiện. Dự kiến trong thời gian tới, Bộ Xây dựng sẽ tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá tình hình triển khai thực hiện Nghị định số 117/2007/NĐ-CP (bao gồm cả vấn đề nêu trên); nếu có vấn đề bất cập, Bộ Xây dựng sẽ kiến nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

133. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Theo Quyết định 167 của Chính phủ về việc hỗ trợ nhà ở cho người nghèo, khó khăn. Cử tri kiến nghị, những năm đầu Trung ương hỗ trợ cho tỉnh 11 tỷ và đến những năm sau này thì việc hỗ trợ rất chậm dẫn đến không đồng bộ giữa tiền vay ngân hàng và tiền hỗ trợ, việc cấp nhà cho dân thực hiện gặp khó khăn. Đề nghị Chính phủ sớm thúc đẩy điều tiết vốn cho những nơi có khả năng triển khai, không cần chờ lộ trình.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12

tải về 4.57 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   60




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương