Trương Dưỡng Một Cánh Hoa Dù Hồi Ký Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù


Trở Lại Vùng Phi Quân Sự (1967)



tải về 1.4 Mb.
trang8/17
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích1.4 Mb.
#27293
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   17

7. Trở Lại Vùng Phi Quân Sự (1967)

Khi về Sài gòn thì Tiểu đoàn xả trại 1 tuần lễ, riêng các sĩ quan trong đó có Thiếu tá Nguyễn Đình Bảo, Đại úy Mễ,...(vừa được thăng cấp đặc cách mặt trận trong cuộc hành quân Lam Sơn 60 vừa rồi) được Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng mời đi ăn tiệc ở nhà hàng Bồng Lai nằm trên đường Lê Lợi, gần chợ Bến Thành. Tại đây có ban tam ca Sao Băng, và ai nấy đều thích thú khi nghe giọng trầm ấm trong các bài hát về lính của ca sĩ Thanh Phong .

Sau khi hết phép, các đại đội lo báo cáo phúc trình tổn thất và được bổ sung kịp thời, để chuẩn bị cho cuộc hành quân tới. Lúc nầy tôi được chuyển qua làm trung đội trưởng ở Đại đội 92, dưới quyền của Trung uý Nguyễn Văn Thành.

Lợi dụng mấy ngày rảnh rỗi, tôi tập họp binh sĩ để huấn luyện bổ túc về cá nhân chiến đấu, và phản ứng cấp thời khi bị địch tấn công hay phục kích bất ngờ. Tôi cũng đem những lý thuyết học tại quân trường và kinh nghiệm đã học hỏi hơn một năm rưởi ở tiểu đoàn, chỉ cho các hạ sĩ quan và khinh binh thêm về bản đồ, kỷ thuật hành quân cấp tiểu đội, trung đội. Một tháng trôi qua thật nhanh, chúng tôi lại được bốc ra Huế và đóng quân tạm tại làng An Hoà để chờ nhận tiếp tế lương thực. Sau đó tiểu đoàn được đưa vào khu vực hành quân tại quận Quảng Điền, còn được gọi là Sịa (nhứt Huế nhì Sịa). Quận nầy ở gần biển và rất trù phú, nhưng du kích địa phương ưa gài mìn ở dưới ruộng nước, nếu không may đạp nhầm thì nhẹ nhất cũng bị cưa chân.

Mục đích của cuộc hành quân là làm chỗ an toàn cho bãi nhảy dù dã chiến. Vì mỗi năm ai cũng phải nhảy dù bồi dưỡng đủ 4 “Sô” mới được tiếp tục ăn lương không vụ (tương đương tiền bay của phi công bên không quân). Vì đa số ai cũng bận đi hành quân triền miên, nên sư đoàn chở dù ra để giúp cho những người còn thiếu Saut được nhảy dù bổ túc từ trên phi cơ trực thăng, vì bãi nhảy hơi chật hẹp.

Khoảng hai tuần sau, xe GMC chở tiểu đoàn đến Đông Hà, một quận nằm phía Nam Gio Linh, ở gần cực Bắc tỉnh Quảng Trị, để chuẩn bị cho cuộc hành quân lớn cấp chiến đoàn, vào vùng Phi Quân Sự một lần nữa!

Chúng tôi vừa tới chỗ đóng quân vào lúc trời mờ tối, thì được địch pháo hỏa tiễn 122 ly chào đón. Có lẽ bọn nằm vùng thấy chuyển quân rầm rộ quá, nên gọi pháo kích cảnh cáo. Vì ở đây cũng gần sông Bến Hải, có thể trong tầm của loại pháo binh nòng dài. Mặc dù trời đã tối, chưa kịp tắm rửa, nấu nướng, ai cũng lo ưu tiên đào hố chiến đấu, để có nơi trú ẩn vì địch thường pháo khuấy rối để mọi người bị mất ngủ.

Cuộc hành quân kỳ nầy cũng nhằm yểm trợ cho việc thiết lập hàng rào Mac Namara về phía Đông của Quốc Lộ 1. Đây là vùng trống trải, toàn động cát và đám rừng thông già trồng dọc theo bờ biển, do đó địch ở bên kia bờ sông Bến Hải, có thể nhìn thấy cuộc tiến quân một cách dễ dàng.

Tiểu đoàn định lừa địch, bằng cách chọn điểm xuất phát từ chợ Đông Hà, thay vì đi bờ Bắc, chúng tôi đi dọc theo bờ Nam của sông Đông Hà, để vào căn cứ hải quân ở Cửa Việt.

Đúng 1 giờ khuya (phải đi trong bóng đêm để tránh đài quan sát và pháo binh địch), chúng tôi được tàu lội nước của hải quân Mỹ (gọi là M. Track) đưa qua bờ Bắc của Cửa Việt.

Vậy mà cũng không dấu được hành tung, địch vẫn rải pháo đều đều, làm cuộc tiến quân thỉnh thoảng phải dừng lại, mỗi khi nghe tiếng pháo đề ba (départ) từ bên kia bờ Bắc.

Dù bị pháo liên tục vào đội hình, nhưng đơn vị vẫn cố gắng tiếp tục tiến tới bờ sông Bến Hải để yểm trợ cho nhân viên gài các dụng cụ khám phá địch bằng các cơ phận điện tử.

Tôi thấy các anh Phan Nhật Nam, Lê Văn Mễ, và đa số anh em binh sĩ, mỗi khi dừng quân 5, 10 phút là vội lấy nón sắt ra đào cát lên để ngồi trốn đạn pháo. Còn tôi thì nhờ đi theo hàng cây thông, nên khi nào nghe pháo thì nhảy vô gốc cây núp, nếu đạn pháo trúng ngọn cây sẽ nổ tung ra nhiều mảnh, tôi có nón sắt và áo giáp hy vọng sẽ bớt phần nào nguy hiểm! Thà đánh bằng đạn thẳng ít sợ hơn, chứ pháo rải rác kiểu nầy hoài thì khó mà tránh, đúng là trời bảo ai nấy dạ!

Khoảng 7 giờ sáng thì chúng tôi đã thấy bờ sông Bến Hải, nhìn về hướng Mục tiêu 4, là cái đồi cát cao nhất trong vùng (Căn cứ A1 sau nầy và còn có tên là Ocean view), tôi thấy các bóng đen của binh sĩ Tiểu Đoàn 6 Dù, mỗi lần bị pháo kích là họ vội nằm xuống; Rồi lo đào vội hố cá nhân. Cử động của họ hấp tấp vội vàng dưới làng mưa pháo của địch quân, họ lúc ấy thật tội nghiệp, như những con thú bị săn đuổi!

Sau khi dứt tiếng pháo họ lại đứng lên và tiếp tục tiến về hướng sông Bến Hải. Hình bóng họ hiện rõ trên đồi cát, di động giống như xem cinéma sống thực vậy!

Nghe giọng nói của Trung úy Tèo trong máy:

__ Bây giờ nó đã vượt lằn ranh khu phi quân sự, trình Sơn Thủy tôi bị ...(Xếp bấm chặt combiné im lặng)..Tèo hiểu ý nói tiếp :

__ Trình đích thân, nó ném đá trước mặt tôi 3 thước .

Có lẽ Việt Cộng đang theo dõi máy nên tưởng là trúng đích; và từ đó trở đi đạn đại bác từ bờ Bắc cứ nả đều trước mặt đoàn quân khoảng 3 cây số (mà Tèo đã ngụy tạo là 3 thước).

Vì tiểu đoàn đi sát bờ biển, nên tôi thấy có một chiếc phản lực quây lảo đảo như bị trúng đạn phòng không, nó từ miền Bắc bay trở về và rớt đâm đầu xuống biển. Cuộc hành quân nầy nhờ hải pháo từ các tuần dương hạm yểm trợ mạnh mẽ vào các ổ pháo địch; nếu không, có thể chúng tôi phải bị tổn thất rất nhiều. Sau khi xong nhiệm vụ, mọi đơn vị vội vã rút nhanh về hướng Nam, càng xa càng đỡ thiệt hại!

Khi về tới Đông Hà, tiểu đoàn được xe chở tới đóng quân tại bờ sông Thạch Hản, gần thị xã Quảng Trị. Trong mấy ngày nghỉ quân chờ bổ sung và tiếp tế lương thực, tôi đi thăm phố và cổ thành Đinh Công Tráng, ở ngay cạnh chợ. Cổ thành nầy rất kiên cố, xung quanh có hào sâu bao bọc, các bờ thành cao chừng 5 thước, dầy 5 thước, được xây bằng gạch rất kiên cố. Diện tích của thành nầy thì nhỏ bằng Hoàng cung Đại Nội ở Huế (hình vuông mỗi cạnh khoảng 500 thước).

Mấy ngày sau, tiểu đoàn được lệnh đi lục soát tìm và tiêu diệt địch (nếu có), ở dọc theo bờ biển phía Đông của thành phố. Sau 4 ngày lại được nghỉ quân 3 hôm, rồi tiếp tục cuộc hành quân kế tiếp, vào khu rừng núi, nằm phía Tây của thị trấn Quảng Trị. Khi đã càn quét xong 4 hướng trong đó có các quận Triều Phong, Hải Lăng của tỉnh lỵ Quảng Trị, đơn vị lại được điều động đi xuống phía Nam, ranh giới giữa 2 thành phố Huế và Quảng Trị.

Chúng tôi cứ đi dọc theo sông Mỹ Chánh về hướng Tây, vào sâu trong dãy Trường sơn, trèo đèo vượt suối, đủ 4 ngày ra lãnh lương thực, rồi trực thăng vận trở vô và tiếp tục leo những ngọn núi khác để tìm và diệt địch.

Sau đó tiểu đoàn trở về An Lỗ chờ tiếp tế và coi như được nghỉ dưỡng quân 4 ngày. Tại đây đại uý Mễ đã gọi các sĩ quan cấp đại đội trưởng và trung đội trưởng tới nhậu lai rai, rồi nghe anh ngâm bài thơ ruột tựa đề là Mòn Mỏi, như tôi đã kể ở phần trước.

Hôm sau trung đội tôi được chỉ định mở cuộc đột kích đêm, tại một làng xôi đậu, nằm trong khu vực xa xôi, ngoài tầm kiểm soát của địa phương quân. Ngôi làng ở về hướng Đông Bắc, cách chỗ tiểu đoàn đóng quân khoảng 5 cây số.

Chiều hôm đó tôi chỉ rõ cho binh sỉ trung đội về các chi tiết của cuộc hành quân đột kích đêm, và phân phối nhiệm vụ cho từng tổ một. Đúng 4 giờ khuya, trung đội bắt đầu xuất phát. Chúng tôi lặng lẽ và thận trọng đi xuyên qua đồng ruộng trống trải, dưới ánh trăng mờ ảo. Dạ hành mãi tới gần 5 giờ mới thấy ngôi làng hiện ra phía trước (tôi chọn giờ nầy vì đó là lúc gần hết phiên gác của địch, nếu có, và lúc ai cũng đang say sưa chập chờn trong giấc ngủ).

Đến cách bờ làng chừng 100 thước, trung đội dàn ngang theo bờ ruộng để yểm trợ cho 3 khinh binh, chạy zít zắt theo đội hình chân vạc, tiến vào bờ làng làm đầu cầu. Khi thấy các khinh binh vô được bờ làng, cả trung đội cùng tiến vào một cách lặng lẽ. Mọi người nhẹ nhàng đi qua từng căn nhà, xem có động tịnh gì không? Rồi trung đội tiếp tục lần lượt lục soát hết ngôi làng. Nhưng chúng tôi không thấy dấu vết gì về địch, nên lặng lẽ rút lui, trả lại sự yên tỉnh cho thôn xóm. Họ vẫn tiếp tục say sưa trong giấc điệp, để rồi sáng ra, không ngờ trong đêm có một đoàn quân Dù đã từng rình mò từng căn nhà của họ. Sau vụ đột kích đêm, Tiểu đoàn trưởng thưởng cho chai rượu Black & White, tôi tập họp trung đội và chia cho mỗi người uống một nắp, để thưởng công vất vả, và để họ được nếm mùi rượu ngoại quốc tuy thơm ngon, nhưng không đậm đà bằng rượu đế mà họ quen dùng. Riêng các khinh binh thì được uống gấp đôi, vì họ vừa cực khổ vừa lãnh phần nguy hiểm hơn đồng đội.

Có lần trung đội được lệnh đi đầu mở đường cho đoàn quân hơn 500 người, trong dãy Trường sơn, đầy những cây rừng rậm rạp cản đường tiến quân. Lúc đó tôi phải đích thân lên đi đầu để vừa đôn đốc các khinh binh Quảng, Cứ,.. phá đường vượt rừng băng suối, vừa để định đúng hướng mục tiêu bằng bản đồ và địa bàn. Đây là một trách nhiệm nặng nề, vì nếu tính sai tọa độ, pháo binh có thể bắn lầm lên đầu quân bạn. Tôi thấy các khinh binh người nào cũng mồ hôi chảy ướt đẫm cả áo, tay chân và cổ họ bị những gai và lá sậy sắc bén khứa đứt nhiều lằng rướm máu, nhìn họ mà tôi ứa nước mắt.

Khinh binh Cứ ngồi bẹp xuống và nói:

- Mệt quá Thiếu uý ơi, cho em nghỉ một chút đi!

Tôi quay ra sau quẹt vội nước mắt, sợ họ thấy rồi làm nư, sẽ làm chậm bước tiến của đoàn quân:

- Ráng chút nữa đi, tiểu đoàn đang trông cậy vào chúng ta đó.

Cứ và các khinh binh cũng ý thức trách nhiệm nặng nề, nên đứng lên tiếp tục dùng dao đi rừng dẹp các chướng ngại vật. Tôi rất thương mến họ, nên thường dành mọi ưu tiên về thăng cấp, huy chương, và đi phép thăm nhà cho họ (các khinh binh: Cứ, Quảng, Võ, Học,... quí mến của tôi)

Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh (các Tiểu đoàn Dù khi tăng phái thường được đặt dưới quyền điều động của vị Tư lênh Sư đoàn địa phương) thấy chúng tôi leo núi đã chán, lại điều động tiểu đoàn xuống hành quân tìm địch trong vùng bờ biển nổi tiếng nhiều du kích, thuộc huyện Phú Thứ, nằm ở phía Nam thành phố Huế. Tại đây tiểu đoàn chạm địch nhiều phen và bắt được một số du kích.

Xong miệt đồng bằng lại đổi qua vùng đồi hoa sim Nam Hoà, nơi đây tiểu đoàn lần đầu tiên tổ chức hành quân đột kích đêm với sự tham chiến của toàn đơn vị. Lúc ấy là đêm trăng rằm, toàn bộ tiểu đoàn chia quân làm hai cánh. Thiếu tá Bảo chỉ huy 2 đại đội đi theo đường đất đỏ tiến sâu vào hướng Tây chừng 3 cây số, rồi rải hàng ngang, bọc về hướng Nam chừng 1 cây số, làm tuyến án ngữ trong một làng thuộc quận Nam Hoà.

Tiểu đoàn trừ do Thiếu tá Nhã chỉ huy, cho hai đại đội dàn quân xuất phát từ chân núi Ngự Bình, tiến dọc về hướng Tây, thẳng vào các ngọn đồi trọc, nơi có tin tức tình báo là địch sẽ về đây tiếp thu lúa ruộng do các du kích địa phương từ các thôn xóm đưa ra. Khoảng một giờ khuya, các du kích địch như những con chuột, bắt đầu ló mặt ra, chúng không ngờ, toán quân Dù đã phục sẵn, cứ nghênh ngang đi giữa đường nên bị bắt gọn. Một số chạy ra hướng khu đồi trọc, định báo động cho toán bên ngoài. Nhưng ở đây chúng bị cùng chung số phận, vì đại đội của trung uý Tèo đã tóm sạch hết. Giữa đêm khuya tiếng nói của Tèo vang rền trong quảng không vô tận:

- Trình Sơn Thủy (mật hiệu truyền tin của tiểu đoàn trưởng), tôi tóm được khá nhiều chuột.

Thiếu tá Nhã nói giọng hớn hỡ:

- Anh giỏi lắm, bên Bắc Bình (Thiếu tá Bảo) cũng thu hoạch khá lắm.

- Tư Tưởng đây Thành Thái(Thành, Đại đội trưởng ĐĐ92).

- Tư Tưởng (Tèo, đại đội trưởng Đại Đội 93) tôi nghe!

- Có vài con chạy về hướng của bạn đó, trả lời.

- Tôi sẽ ân cần tiếp đón chúng nó, trả lời.

(ước hiệu truyền tin của Tướng Đống là Bạch Long, Trưởng Phòng Ba là Hắc Long, Đại tá Nguyễn Khoa Nam là 601,...)

Sáng hôm sau, chúng tôi vào nghỉ quân tại các xóm gần dốc Nam Giao, cạnh chùa Từ Đàm, để chuẩn bị đợi máy bay đưa về Sàigòn. Chuyến ra Vùng I kỳ nầy thiệt là vô cùng cực khổ! Vì mọi người đã đi gần hết các nơi rừng núi đồng lầy: từ miền giới tuyến ở khu Phi Quân Sự, tới các khu vực xung quanh hai thị xã Quảng Trị và Huế.

Thấm thoát đã hơn 3 tháng rồi, mà vẫn chưa được gặp mặt vợ con. Do đó ai cũng mong ngày về Sàigòn, mọi người đều chuẩn bị mua sắm quà xứ Huế cho thân nhân. Tôi có mua mấy nón lá bài thơ, mè xửng, và kẹo gương để đem về Vĩnh Bình cho Nhi và bà con hai họ. Khi ra phi trường Phú Bài, có binh sĩ vì mua quà nhiều quá, nên đập bỏ hết các nồi niêu, son chảo để có chỗ chứa trong ba lô. Họ mừng quá vì sắp gặp được thân nhân, cần phải đem quà về thật nhiều cho vợ con, để bù đắp lại chuyến hành quân kỳ nầy quá lâu.

Mỗi lần đi xa về, tôi thường hát khẻ bên tai cho Nhi nghe bài “Sau Ngày Hành Quân” như để vuốt ve an ủi và như để xin lỗi vì bắt nàng phải đợi chờ quá lâu:

* Sau ngày hành quân, anh về mang theo chiến thắng....

* Súng còn đeo vai, đã viết thư cho người yêu!

*... Hay thôi anh đền em,..đền em anh dũng bội tinh, hay

anh đền em, bằng chữ yêu....... Mình....

Chiếc C-130 (loại bán phản lực, chở trên 100 người) bay được gần nửa giờ, thì đáp xuống phi trường, đa số binh sĩ đều tưởng đã tới SàiGòn nên hớn hở chờ cửa hậu mở để nhanh chân đi ra, tôi đang thắc mắc tại sao kỳ nầy bay mau quá vậy?

Nhưng khi ra khỏi máy bay thì ai cũng bật ngửa! Vì đây không phải là Thủ đô yêu dấu, mà là phi trường Phượng Hoàng ở Tân Cảnh, thuộc quận Dakto, tỉnh Kontum. Nhìn xung quanh toàn núi cao bao bọc.

Thì ra Tổng Tham Mưu vừa nhận được công điện khẩn của Quân Khu II, báo cáo Sư đoàn Chính qui (Công trường 320 ?) địch vừa xuất hiện đêm qua trong vùng núi Ngọc Long (Ngok Wan hay đỉnh cao nhứt vùng 1416) và dự định tấn công vào Dakto, Tân Cảnh, và tỉnh lỵ Kontum. Trong khi chờ đợi các Tiểu đoàn Dù ra nghênh chiến, chúng tôi được lệnh đáp xuống đây để kịp thời ngăn chặn ý đồ xâm lược của địch.

Đêm đó cả tiểu đoàn tạm trú quân trên đồi cao trong phi trường Tân Cảnh. Thấy các quân nhân tức giận vì bị lừa dối, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng bảo Đại uý Mễ tập hợp binh sĩ giải thích và nói rõ là chỉ hành quân 1 tuần rồi sẽ về Sàigòn.

Sáng hôm sau, tiểu đoàn xuất phát từ quận Dakto, chia quân làm hai cánh, tiến vào lục soát các đỉnh núi cao. Đây là khu rừng rậm, đầy muỗi và đỉa vắt cựa quậy giống như đỉa trâu, trông thật là kinh khiếp! Tôi vừa làm rớt địa bàn và lượm lên thì thấy mấy con vắt ngọ ngoậy đeo dính trên địa bàn, làm sợ hết hồn!

Tôi vội lấy lọ thuốc muỗi ra, thoa khắp tay chân và đầu cổ. Vì chỗ nào có da thịt, vắt sẽ bám vào để hút máu! Ở nơi rừng thiên nước độc nầy chẳng những có nhiều muỗi, vắt, mà còn lạnh kinh khủng, lạnh nhất là trên đỉnh núi Ngọc Long, cao 1416 thước. Đêm đó mọi người phải đốt lửa ở dưới hố cá nhân để sưởi, mà cũng không thể chợp mắt được, vì trên đỉnh cao thấu mây xanh nầy có nhiều sương mù lạnh lẽo bao phủ!

Chúng tôi đi vòng vòng tìm địch trong các khu rừng rậm, núi non trùng điệp được 1 tuần thì rút về Tân Cảnh, đợi sáng mai phi cơ đưa các tiểu đoàn khác ra thay thế.

Khoảng 6 giờ chiều hôm đó, anh Nhật, anh Phan Nhật Nam, Nguyễn Đức Tâm, Đỗ Ngọc Nuôi, Nguyễn Tống Hiến và tôi cùng rủ nhau đi xin tiền ông quận trưởng Dakto để mua rượu nhậu. Lúc đó tình hình tuy hơi căng thẳng, nhưng địch chắc chưa chuẩn bị đầy đủ, nên không động tĩnh gì.

Anh Tâm làm tài xế lái xe Jeep, các người còn lại thì súng AR-15 lên đạn cầm tay sẵn sàng tư thế chiến đấu. Tâm nhấn hết ga, khoảng 20 phút thì đến quận đường. Chúng tôi vào gặp vị Quận trưởng khoá đàn anh (khoá 10 ĐL), và ca bài “Con cá sống nhờ nước”. Anh Quận trưởng thấy mấy thằng đàn em nầy quá gan lỳ, dám xách xe chạy cà rỡn trên đoạn đường đầy nguy hiểm, chỉ vì ham vui. Anh vội móc túi đưa 10 ngàn và hối chúng tôi ra về sớm, kẻo trời tối, địch phát giác rồi phục binh chận đường, thì thập phần nguy hiểm.

Có tiền rồi, mọi người hớn hở chạy một mạch từ Dakto về tới Tân Cảnh, nhìn lại đồng hồ thì đã quá 7 giờ rưởi tối. Tất cả vội tìm một quán bar, rồi gọi rượu thịt ra nhậu tới hết tiền thì trời cũng đã khuya. Tôi và mọi người ra về, nhưng chỉ có Nhật vì đã nhậu quá say nên muốn ở lại lê la “Làm thơ con cóc”. Sáng hôm sau trong khi ai nấy đều chuẩn bị ra phi trường thì Nhật mới lót tót leo dốc về, thấy anh thở hổn hển, mặt mày xanh lét vì “Trèo đèo leo dốc”, Tâm và Mễ ôm bụng cười lăn lóc!

Trước khi lên phi cơ, Thiếu tá Nhã tổ chức lễ gắn cấp bậc Trung úy đặc cách cho Nuôi, Hiến, Miên,....và tôi ngay tại phi đạo. Chiếc C-130 chở tôi vừa cất cánh, thì địch bắt đầu khai chiến, chúng pháo kích bằng hỏa tiễn 122 ly (để chào mừng mấy Trung úy vừa tân thăng chăng?) vào phi trường, khiến một số binh sĩ, chưa lên kịp máy bay, bị trúng mảnh đạn rocket. Thiếu tá Nhã cũng bị một mảnh xuyên qua gan, phải giải phẫu cấp tốc mới bảo tồn được sinh mạng, lúc đó Thiếu tá Phạm Hy Mai về tạm thay thế. Mấy ngày sau cả chiến đoàn Dù đều đụng trận ác liệt tại đỉnh 1416 (có bài ca nói về trận nổi tiếng nầy), hai bên đều tổn thất rất nhiều!

Về tới Sàigòn, sau khi dự tiệc ở nhà hàng Bồng Lai xong, tôi vội cấp tốc ra bến xe đò Miền Tây, mua vé về Vĩnh Bình thăm vợ con, vì kỳ nầy đi quá lâu nên tôi sốt ruột, nóng lòng ước chi mình có cánh, để bay mau về gặp Nhi. Ở Vĩnh Bình 4 ngày, tôi đi thăm mấy thằng bạn học cũ. Chiến tổ chức tiệc mời tôi, Lộc, Chánh, và Hiền tới nhậu vui vẻ. Anh em lâu ngày gặp nhau nên uống thật nhiều vì “Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu”, uống rượu với những thằng bạn tốt nầy thì:

Đồ ăn ngon

Người ngồi ăn ngon

Chỗ ngồi ăn ngon

.....................Ngon!

(Tản Đà)


Sau khi Tiểu đoàn nghỉ dưỡng quân 1 tháng, chúng tôi lại chuẩn bị khăn gói lên 5 chiếc C-130 ra Huế, để bảo vệ cho đồng bào ăn tết Mậu Thân. Lúc đó tôi được thăng cấp Trung uý đặc cách mặt trận, nhân dịp lễ Quốc Khánh 1 tháng 11 năm 1967. Và vẫn là Trung đội Trưởng Trung đội 1, Đại đội 92, của Trung uý Đại đội trưởng Nguyễn Văn Thành (Khoá19).

8. Trận Tết Mậu Thân Tại Vùng I Năm 1968

a). Mặt trận tại Quảng Trị .
Sau nhiều ngày Đơn vị hành quân tìm và tiêu diệt địch dọc theo dãy Trường Sơn, phía Bắc sông Thạch Hãn, từ Đông Hà đến Đèo Ba Dốc thuộc tỉnh Quảng Trị, rồi vào Huế ở Nam Hoà, Phú Thứ, La Vân, Đồng Xuyên Mỹ Xá.

Chiến Đoàn Nhảy Dù được ngừng hành quân nghỉ ngơi ăn Tết tại những điểm quan yếu trong các Thị trấn. Tiểu Đoàn 2 và TĐ7ND đóng ở An Lỗ và Quảng Điền; Tiểu Đoàn 5 ND được điều động về Đà Nẳng. Tiểu đoàn 9 chúng tôi bố trí quân chung quanh thị trấn bảo vệ thành phố Quảng Trị.

Đại đội 92 ở phía Đông Nam, Đại đội 94 bảo vệ làng Tri Bưu. Dọc bờ sông Thạch Hãn, phía Tây thành phố là Đại đội 93. Riêng Đại đội 91 của Đại uý Mễ, đóng chung với Đại đội Chỉ Huy Tiểu đoàn, làm thành phần trừ bị.

Ngay ngày 30 Tết, Tiểu đoàn được “Mật lệnh” của Chiến đoàn Trưởng Lê Quang Lưỡng, nghi ngờ rằng địch sẽ tấn công. Nên mặc dù hưu chiến, các đại đội cũng bung ra tuần tiểu, lục soát. Ban đêm lo đặt mìn định hướng Claymore, mìn chiếu sáng, và đào hầm hố chiến đấu phòng thủ cẩn thận. Trong khi Địa Phương quân, Nghĩa quân, Sư Đoàn 1 Bộ binh, hầu như xả trại (hoặc trốn trại) về nhà ăn Tết, chúng tôi được lệnh cấm trại chặc chẻ, đề phòng địch tấn công bất ngờ vào thị xã.

Mồng Một Tết, khoảng 3 giờ khuya, nhằm lúc mọi người đang ngon giấc vì mệt mỏi bởi đêm qua say sưa chè chén trong các buổi tiệc dã chiến, đón Giao Thừa truyền thống đầu năm. Bỗng nhiên mọi người đều tỉnh giấc, vì súng địch đồng loạt khai hỏa khắp mọi nơi.

Chúng tôi vội nhào ra hố chiến đấu và bắn trả mãnh liệt. Đại đội 92 phòng thủ dọc theo bờ làng, lúc đó sương mù dầy đặc, binh sĩ cứ bắn bừa ra ngoài đồng ruộng phía trước mặt.

Qua máy truyền tin, tôi vô cùng sững sờ xúc động: Đại đội 94 đang bị địch tràn ngập. Ban Chỉ Huy Đại đội, trong khuôn viên nhà thờ Tri Bưu, bị tấn chiếm. Đại uý Thừa, Đại đội trưởng, viên Cố vấn Mỹ, Trung uý Lê Phát Lộc, và Nguyễn Văn Hổ, bạn đồng khoá 20 ĐL của tôi, đều bị hy sinh ngay từ đợt tấn công tràn ngập nầy! Chuẩn úy Trần Ngọc Chỉ thấy địch quân quá đông, nên vừa chống trả vừa tìm cách hướng dẫn binh sĩ còn lại rút lui, tránh sự truy kích của địch quân.

Đại uý Thừa, tốt nghiệp khoá 9 Võ Khoa Thủ Đức, là một sĩ quan trẻ tuổi dũng cảm của sư đoàn Dù, đã lập rất nhiều chiến công hiển hách. Đặc biệt trong trận Đại Bàng 800 ở Vùng II Chiến Thuật, anh đã chỉ huy đại đội tấn công và truy sát địch, tịch thu được rất nhiều chiến lợi phẩm, vì thế Tướng tư lệnh Vùng đáp trực thăng tới gắn cấp bậc Đại úy đặc cách cho anh ngay tại chiến trường. Nguyễn văn Hổ rất tốt với bạn bè, chính anh lúc ở quân trường đã dạy tôi đờn vọng cổ bằng Tây Ban Cầm. Còn bạn Lê Phát Lộc thì rất hiền lành, tướng phúc hậu, hai trái tai dài thòng xuống như lỗ tai Phật, bạn bè ai cũng nghĩ anh có phúc tướng, sẽ sống rất thọ, không ngờ chiến tranh thật tàn nhẫn, nó không nể vì một ai!

Thấy Đại đội 94 như vậy, chúng tôi hết sức cẩn trọng, dùng hỏa lực cá nhân và chỉ được yểm trợ bằng súng cối 60 ly cơ hữu. Không có pháo binh, hải pháo, hoặc không trợ hùng hậu, mà bất cứ cuộc hành quân thường lệ của các đơn vị nhảy dù nào cũng phải có.

Sau nầy tôi mới biết, lúc đó anh Đồng Minh Mỹ định giả vờ làm ngơ, để xem tài hai con gà chọi nhau. Thử coi Miền Nam có đủ sức tự lực tự cường, cho đàn anh dễ bề rút tay ra khỏi cuộc chiến đầy tốn kém. Tiện thể vồ anh Việt Cộng một vố lớn, chẳng biết mấy anh Bộ Chính Trị ngoài Bắc và Cục R trong Nam có biết không?

Hừng Đông vừa ló dạng, các trung đội tung ra lục soát và bắt sống hơn 10 tù binh. Chúng toàn trẻ măng, khoảng 16, 17 tuổi; nói giọng Quảng Bình, mặt mày đỏ ngây, ngơ ngơ ngác ngác, thì ra họ đã dùng thuốc “Hùng Binh” của Trung Cộng chế. Thuốc nầy là loại kích thích; khi uống vào thì hăng máu và không hề sợ chết.

Đến 8 giờ sáng, tại Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn đang bị địch đe dọa tấn công, tôi nghe tiếng the thé của Đại úy Đỉnh, sĩ quan ban 3, gọi Thành “Râu” kéo binh về tiếp viện.

Thành Râu ra lệnh tôi dẫn nhanh trung đội, dọc theo Quốc Lộ I, từ Ngã Ba Long Hưng, hướng về Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, gần cầu Thạch Hãn, tiếp theo là trung đội của Thiếu uý Minh, và Chuẩn uý Khải.

Chúng tôi đang đi trên Quốc lộ I, vừa tới ngã tư đường về nhà thờ La Vang, gần BCH Trung đoàn 1 BB, thì địch bắn hàng loạt đạn, từ xóm nhà bên trái, tôi vội hô to:

- Địch phục kích trái!

Cả trung đội liền la:

- “Xung phong”!

Và lập tức nhào về hướng phát ra tiếng súng. Chúng tôi vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả khu vực, hai trung đội của Khải và Minh cũng bị lôi cuốn và hành động theo. Binh sĩ chạy vượt qua chòm nhà, vừa xả đạn vừa hô xung phong liên hồi. Chúng tôi tiến mãi tới gò mả, giữa BCH Trung Đoàn 3 BB và bờ làng, thì gặp phải sức kháng cự mãnh liệt!

Tôi và hạ sĩ Đình, mang máy truyền tin, vội nhào nhanh tới hố lõm để tránh đạn. Áo field jacket bị bắn rách tung toé, tôi hoảng hốt vì không biết mình có bị thương hay không? (theo kinh nghiệm: vì đạn vô ngọt xớt nên khi bị thương, không có đau liền). Sau khi lấy lại bình tỉnh, tôi bắn yểm trợ cho Đình nhảy tới sau phên vách đất, rồi Đình bắn yểm trợ lại cho tôi.

Quan sát lại thấy hơn mười binh sĩ bị hy sinh! Có anh vừa bò tới nắm chân tôi vừa nói: “Trung uý ơi em bị thương!”, miệng lẩm bẩm niệm kinh rồi từ từ lịm dần, khiến lòng tôi se thắt!! Đáng thương nhất là hạ sĩ Lực, nhà ở làng Tri Bưu, mới cưới vợ ăn Tết hơn hai tuần lễ, và binh nhất Thương, hằng ngày giúp tôi nấu cơm nhà binh tuy đạm bạc nhưng đầy hương vị đậm đà!!!

Lúc đó từ trong máy truyền tin, tiếng Thành Râu rồi anh Đỉnh, gọi thúc hối tôi dẫn 3 trung đội về BCH Tiểu đoàn. Nhìn lại xác anh em và súng chưa kịp lấy lại được, số thương binh nằm rải rác chung quanh. Hơn nữa danh dự binh chủng Nhảy Dù không thể nào để cho mất súng và mất xác; nhất là xác của các chiến hữu đã hằng ngày tíu tít quấn quít rất dễ thương. Họ đã nhiều phen cùng hoạn nạn, cùng sinh tử, nên tôi quyết định cãi lại quân lệnh.

Tôi nói trong máy với anh Thành Râu:

- Thà là ra toà án quân sự, tôi nhất định không rút, vì binh sĩ và xác chết còn kẹt ở đây.

Rồi bảo Đình phụ nạp đạn, tôi đứng nơi vách đất, vừa nhắm bắn vừa điều động cả 3 trung đội. Minh và Khải thấy tôi la hét “Xung phong” cũng phụ giúp điều động đốc thúc binh sĩ mình. Dựa vào vách đất, tôi có thể quan sát rõ địch đang núp từng chòm mả một; hễ tên nào ló đầu lên thì tôi bắn ngay, khiến chúng hụp xuống. Nhờ vậy anh em ba trung đội cứ nhích lên dần.

Có thể nói đây là trận để đời của tôi, vì hầu như đánh xáp lá cà với lực lượng chính qui và đông đảo quân số của địch. Tôi vừa thúc hối ba trung đội, bằng cách bắn dọa trên đầu họ, vừa hô xung phong, mà mỗi lần chỉ lên được vài bước.

Tôi và Đình cách cây thượng liên của địch khoảng mười lăm thước (chỉ 15 thước nên thấy đầu nòng súng địch rõ mồn một), trong khi đó binh sĩ 3 trung đội dàn dài bên trái, phía sau tôi khoảng 10 thước.

Các binh sĩ đang còn e ngại hỏa lực địch, thì đột nhiên Binh nhứt Nguyễn văn Ba, y tá đại đội, bò sát lên trước và hạ được tên xạ thủ thượng liên. Ba dơ cao súng địch, khiến đồng đội phấn khởi, đứng lên vừa bắn vừa hô xung phong, đuổi địch ra khỏi nghĩa địa. Ba kể lại, khi xạ thủ thượng liên thấy anh chĩa súng bất ngờ, vội đưa hai tay lên, Ba vì súng bị kẹt đạn (lại là y tá nên hơi lạng quạng), anh lính quýnh không dám cho y đầu hàng, sợ hắn biết rồi bóp cò thượng liên, vì thế mới ném lựu đạn để tự vệ.

Binh sĩ đại đội lo thu lượm súng và xác của bạn cùng rất nhiều súng địch. Tám lọ, anh hề của đại đội, ôm một bó súng to, toàn AK-47 và B-40. Đột nhiên một tên bên kia đường tựa gò mả bắn qua, tôi nghe một tiếng “Rẹt”, đáy quần bị bắn rách, rờ thấy “Hắn” còn nguyên vẹn nên mừng hú vía. Đùi bị rướm máu, nhưng chỉ trầy da. Tôi vừa bắn trả cầm chân vừa ra lệnh rút về BCH Tiểu đoàn. Thật là hú hồn, giằng co suốt buổi, tôi đã đứng bắn hàng trăm viên đạn AR-15, áo quần rách tả tơi, mà chỉ bị thương rách một chút xíu ở vành tai trái và bắp đùi phải!

Lúc về BCH, gặp Thiếu tá Nhã, Tiểu đoàn trưởng, ông vẫn giữ vẻ mặt nghiêm, nhưng không trách phạt vi lệnh mà còn bảo anh lính phục vụ kiếm khúc bánh mì cho tôi lót bụng. Còn anh Thành và anh Đỉnh thì cười kín đáo, tỏ ý hân hoan khuyến khích. Nhưng cũng nhờ cú “Bốc đồng” này, nên sau khi về Sàigòn, mặc dù thương tích đầy mình (bị thêm lần nữa tại Hồ Tỉnh Tâm, trong thành nội Huế, vào mùng mười Tết). Nghe tiếng điện thoại của anh Bảo gọi :

- Tiểu đoàn định cho ông làm Đại đội trưởng Đại đội 91, thay thế thằng Mễ, vậy vô đây gấp để nhận bàn giao!

Tôi mừng rỡ trả lời : - Tôi sẽ vô ngay, đích thân!

Vì còn trẻ háo thắng, nên tôi rất vui mừng và chịu bỏ phép nghỉ bịnh, để nhận cái nhiệm vụ làm đại đội trưởng thực thụ của một binh chủng thiện chiến nầy.

Cũng nên nhắc lại một câu chuyện nhỏ về trường hợp đặc biệt của anh Nguyễn Văn Thiện, bác sĩ tiểu đoàn. Đêm ba mươi Tết, anh được mấy bác sĩ bạn, làm ở bệnh viện Tiểu khu, mời tới nhà, để đón giao thừa cho có không khí đầm ấm của gia đình.

Thấy anh nhậu đã say mèm, nên tài xế vội lấy xe Jeep cứu thương, chở về Bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Dọc đường có đầy địch nằm phục kích sẵn hai bên, nhưng rất may là lúc đó họ chưa có lệnh đồng loạt tổng công kích, nên chúng không dám khai hỏa, sợ hỏng kế hoạch chung. Thật là hú vía nếu anh ở trể chừng một tiếng đồng hồ, thì chắc lãnh đủ!!

Sáng Mùng 3 Tết, thị xã Quảng Trị tổ chức tuyên dương công trạng bảo vệ thành phố của Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù, dân chúng đa số là người công giáo di cư năm 1954. Tinh thần chống Cộng rất cao, họ đem nhiều quà tặng cho chúng tôi, nào bánh chưng, bánh tét, dưa món,...còn có cả vòng hoa nữa. Nhưng quý giá nhất là ở tấm lòng chân thật và lời cám ơn giản dị : ... “Nhờ các ‘En’ mà thành phố Quảng Trị không bị chi cả”...Phải, chúng tôi chiến đấu chỉ vì thế thôi:

“Sự Bình An của dân chún


Каталог: stories
stories -> BÀi thuyết trình cách xáC ĐỊnh và chế ĐỘ pháp lý CỦa các vùng biển theo công ưỚc của liên hiệp quốc về luật biển năM 19821
stories -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạo trưỜng đẠi học luật tp. HỒ chí minh dưƠng kim thế nguyên thủ TỤc phá SẢn các tổ chức tín dụng theo pháp luật việt nam
stories -> -
stories -> TỜ khai thông tin của ngưỜi khuyết tật phần I cá nhân ngưỜi khuyết tậT
stories -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạO
stories -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ ngh ĩa việt nam ban an toàn giao thông độc lập Tự do Hạnh phúc
stories -> BỘ CÔng thưƠng số: 1057/QĐ-bct cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
stories -> BỘ khoa học và CÔng nghệ
stories -> Đôi lời Ân tình

tải về 1.4 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương