Trương Dưỡng Một Cánh Hoa Dù Hồi Ký Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù


Đôi Giòng Giới Thiệu Một Chiến Sĩ Kiên Cường



tải về 1.4 Mb.
trang2/17
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích1.4 Mb.
#27293
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

Đôi Giòng Giới Thiệu Một Chiến Sĩ Kiên Cường

Thuộc Binh Chủng Nhảy Dù

của Đại Tá Nguyễn Thu Lương

Nguyên Trưởng Phòng HQ/Lữ Đoàn Trưởng
Thưa các bạn,

Hàng ngàn, hàng vạn quân nhân các cấp đã trở thành anh hùng, những anh hùng không tên tuổi trong suốt cuộc chiến chống Cộng Sản, bảo vệ mảnh đất quê hương. Họ đã chống chọi rất can đảm và mãnh liệt đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ cho cuộc sống của toàn dân và đặc biệt tháng 4/1975 cho đoàn người vượt thoát đến bờ Tự Do....

Chúng ta đã có những trận đánh để đời, đáng ghi vào Quân Sử để bạn bè khắp năm châu cảm phục và cũng để cho các con cháu đời sau hiểu rằng: ông, cha, bác, chú, anh em của họ đã chiến đấu như thế nào ? Đã có thời làm nên lịch sử vẻ vang....

Rất nhiều chiến hữu đã ghi lại qua báo, tạp chí, hồi ký,........những chiến công lừng lẫy của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa; những nỗi đau buồn của ngày mất nước tháng 4/1975...những tủi nhục trong lao tù Cộng Sản, để mọi người cùng biết...

Riêng cá nhân tôi, trên trang giấy nầy xin giới thiệu và nói về một người mà tôi rất cảm mến và đã hân hạnh được chỉ huy anh một thời gian. Đó là: Người lính Nhảy Dù Trương Dưỡng, Thiếu tá Quân Đội VNCH.

Đây không phải là người lính có chiến công thật hiển hách như những người lính lớn của đại đơn vị chúng tôi (Sư Đoàn Nhảy Dù/QLVNCH) như các vị: Đỗ Cao Trí, Nguyễn Khoa Nam, Trương Quang Ân, Nguyễn Đình Bảo, Nguyễn Văn Đương,.. v v .....

Nhưng quả thật anh đã sống và chiến đấu cùng chúng tôi trong tính chất sắt son và bền bỉ của người lính Nhảy dù; “Nhảy dù Cố gắng”....

Anh Trương Dưỡng xuất thân Khóa 20 trường Võ Bị Quốc Gia, tình nguyện gia nhập binh chủng Nhảy Dù. Anh đã được thuyên chuyển qua các đơn vị chiến đấu của Sư đoàn...Nhất là thời gian phục vụ tại Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù, với chức vụ Đại Đội Trưởng; anh đã dẫn dắt đại đội đi từ chiến thắng nầy đến chiến thắng khác. Anh là một đại đội trưởng rất nhiệt tâm, nhiều cơ mưu, luôn luôn tình nguyện trong các công tác khó khăn, nguy hiểm; đã làm đối phương nhiều phen điên đảo với các tổn thất nặng nề...Anh là một trong các đại đội trưởng ưu tú của Sư Đoàn...Nhiệm vụ nào, dù khó khăn, cũng cố gắng hoàn thành một cách mỹ mãn...

Đến khi Sư đoàn được thành lập Biệt Đội Tác Chiến Điện Tử, theo nhu cầu chiến trường với vũ khí chiến tranh ngày càng đổi mới, tiến bộ...Sư đoàn cần một Sĩ quan Đại Đội trưởng có khả năng, trình độ để theo học và chỉ huy biệt đội nầy và anh Dưỡng đã được tuyển chọn trong số các đại đội trưởng giỏi ...

Chức vụ chuyên môn, anh luôn luôn tìm tòi, học hỏi, và nghiên cứu, hướng dẫn biệt đội ...Với hiểu biết rành rọt loại chiến cụ chuyên môn nầy, anh đã cung cấp cho Sư đoàn nhiều tin tức di chuyển chính xác của địch, để đơn vị xử dụng hỏa lực hoặc điều quân tiêu diệt khi chúng xâm nhập vùng trách nhiệm. Biệt đội anh đã góp phần đáng kể các chiến thắng lớn của Sư đoàn.

Trời có lúc mưa, nắng bất thường; đang mưa thuận, gió hòa thì lại chen vào các cơn giông, bão khủng khiếp... Đáng thương thay, năm 1973, anh đã bị tai nạn lật xe gây nên thương tích trầm trọng cho người sĩ quan ưu tú của Sư đoàn. Anh Dưỡng đã bị chấn thương làm tê liệt nửa thân người từ ngang thắt lưng bụng trở xuống; từ đó và mãi mãi về sau anh phải ngồi xe lăn mỗi khi muốn di chuyển đó đây.... Nếu là một người thường, với tàn phế đó, đã chán nản, thối chí, để cuộc đời tàn lụi theo năm tháng...Nhưng với anh Dưỡng thì không; chịu đựng và cố gắng vươn lên tạo điều kiện cho cuộc sống (Nhảy dù cố gắng mà); chịu đựng mọi nghịch cảnh, tìm mọi cách vượt qua... Nhất là từ tháng 4 năm 1975, khi Cộng Sản đã xâm chiếm đất nước miền Nam; cuộc sống của người lính VNCH thật muôn vàn đau khổ, bi thương; phải chịu đựng tất cả áp bức, trù dập của kẻ thù chụp lên người. Ngay cả những quân nhân đã hy sinh. Nơi nghĩa trang,bọn Cộng Sản đều cho san bằng, phá nát...Huống hồ những người còn sống và nuôi nổi người vợ trẻ và ba đứa con còn nhỏ!

Nỗi đau thương ấy đến sắt cũng phải chảy, đá cũng phải mòn!!! Một phế nhân không có sự trợ giúp thì làm sao đây? Vậy mà anh đã qua được thử thách đầy khó khăn đó...Đáng phục thay!!! Và đến năm 1984 được người dượng bảo lãnh; anh cùng gia đình đến được vùng đất tự do: Hoa Kỳ. Hiện giờ anh đang sống tại tiểu bang Florida.

Ở đất nước xa lạ; với hai bàn tay trắng.vùng đất mới khác từ phong tục, tiếng nói, tập quán đến con người; anh lại bắt đầu cuộc đời mới; anh đã an ủi và tác động các con cố gắng học hành; để trở nên người hữu dụng mai sau ...Chính anh cũng ngồi xe lăn cắp sách đến trường theo học cùng với người con trai lớn...Với quyết chí và cố gắng làm phương châm hàng đầu, thời gian trôi đi thật mau lẹ; anh và con trai lớn tốt nghiệp và lãnh bằng kỹ sư điện tử cùng ngày...

Anh đã đi làm cho hãng điện tử Motorola được hai năm rưởi thì nghỉ việc vào tháng 9/1995 do không thể theo lệnh di chuyển toàn nhóm qua Texas, vì vợ con đều làm việc tại Florida.

Thưa các bạn, với vài dòng thô thiển; tôi xin được vắn tắt viết về người chiến hữu nhảy dù Trương Dưỡng mà qua bao năm, tháng và có lẽ suốt cuộc đời còn lại tôi không thể quên được con người quả cảm ấy với lòng kính trọng và cảm phục vô biên..

Anh Dưỡng đã tồn tại, vượt thắng được mọi thử thách, gian nan, và hiểm nghèo như là được nâng đỡ và che chở bởi phép lạ Thượng Đế; nhưng bao trùm toàn bộ vẫn là khối lực bền bỉ, dẻo dai, chịu đựng của người lính Nhảy dù...Sự cố gắng qua mọi thời gian, hoàn cảnh, và nơi ở...Con người anh đã được tôi, luyện như thế đó !!! Như sắt thép được tôi, luyện trong lò đúng độ để có sự dẻo dai bền bỉ đúng mức của nó...

Cố gắng, Nhảy dù cố gắng. Anh Dưỡng đã hô lớn như thế và anh đã thực hiện được những gì mong muốn... Canada ngày 5/7/97

Nguyễn Thu Lương



Viết Về Dưỡng
Đèn đỏ nhấp nháy ở máy nhắn tin Điện thoại: “Dưỡng, số phone...., cần gặp để tâm tình tếu với anh cho vui ”.

Giọng nói Dưỡng, nhắc lại một thời anh em cùng sống chết tại chiến trường Việt Nam. Giọng nói đó như vang vọng lại, những lần chạm địch, Dưỡng đang báo cáo tình hình căng thẳng, ở Trận Tết Mậu Thân Quảng Trị và Cố Đô Huế.

Qua giây phúc gặp gỡ trên Phone, Dưỡng muốn viết về cuộc đời của mình. Dưỡng muốn ôn lại những địa danh, những trận đánh, để hoàn thành hồi ký. Thật tình lâu ngày và dĩ vãng quá ư khắc nghiệt, tôi cũng không còn nhớ chi tiết lắm. Những chiến công ngày xa xưa, đều mang lại một tính chất chết chóc và đổ nát. Duy chỉ có tình người mới tồn tại lâu dài.

Bởi vậy những giòng tâm tình với Dưỡng sau đây không đề cập đến những chiến công hiển hách đó, mà điểm son nói về đức tính của Dưỡng, tôi ghi nhận trong giai đoạn anh em mình cùng chung định mệnh “Võ Nghiệp”.

Tôi còn nhớ, một lần Tiểu Đoàn đã hành quân ở Miền Trung, xảy ra một việc như sau. Dưỡng hồi đó là Trung đội Trưởng Súng cối 81 ly. Tôi, sĩ quan An ninh tiểu đoàn. Thiếu tá Lê văn Huệ là Tiểu đoàn trưởng đầu tiên của Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù. Ông người cao ráo, bảnh trai, trí thức. Đã từng một thời là Sĩ quan Cận vệ cho Tổng Thống Diệm. Ông rất tín nhiệm tôi và thương yêu Dưỡng. Tôi không muốn nhận lãnh chức vụ An ninh, vì tôi rất ghét đi vào lãnh vực tra hỏi nhiều cảnh trái ngang. Một chú lính, thuộc tổ Súng cối của Dưỡng, lấy một vài đồ vật của dân trong vùng. Họ đến thưa kiện, tôi lãnh nhiệm vụ để tra xét tìm những vật đó trả lại cho họ.

Dưỡng một mực binh vực lính của mình. Lý do Dưỡng tâm rất lành, ai nói gì tin vậy, và rất thương yêu lính. Sau những sự điều tra, chú lính đó nhận lỗi và hoàn trả cho họ.

Ông Huệ, Tiểu đoàn trưởng phán một câu :

- Dưỡng thấy chưa, anh còn thiếu kinh nghiệm và tin lính.

Dưỡng sống trong Đơn vị, từ Tiểu đoàn trưởng đến binh sĩ đều thương mến. Đối với bạn bè là một người bạn chí tình. Đối với cấp trên là một người có khả năng và hăng say trong nhiệm vụ. Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù được xem như một Võ Bị Đà Lạt tí hon. Từ Tiểu đoàn phó, Nguyễn Đình Bảo, Ban Ba Nguyễn văn Đỉnh, các Đại đội trưởng, Trung Đội trưởng gồm từ Khóa 18 tới Khóa 20 . Một thời kỳ vui nhộn đầy tình anh em không đơn vị nào sánh bằng.

Dưỡng, biệt danh Sihanouk, vì có màu da ngăm ngăm. Anh em bầu Dưỡng làm Trưởng ban Nghi lễ cho các cuộc du hí sau khi hành quân về. Những địa điểm tắm hơi, những nhà hàng có món Dê Hà Nàm tẩm bổ, Dưỡng đều ghi lên “Bảng tác xạ”.

Xông pha trên trận mạc, bị thương bao lần nhưng không hề hấn. Một định mệnh khắc nghiệt, con người không thể nào tránh, Dưỡng đã bị tại nạn xe và bán thân bất toại.

Từ oan nghiệt đã phát mầm những giá trị bất tử của con người Dưỡng, của vị hiền thê, và của con cái. Dưỡng được qua Mỹ học hành đỗ đạt kỹ sư mà báo Đa Hiệu đã có bài ca tụng anh và giá trị tinh thần gia đình Dưỡng.

Bên cạnh Dưỡng một người vợ nêu cao gương sáng ngời “Tình Chung Thủy” trong thời đại chỉ có “Tiền” là trên hết !

Tôi không đủ lời hay ý đẹp để ca tụng một người vợ trong sáng như chị Dưỡng.

Dưỡng nói chơi nhưng thành sự thật :

- Tôi sinh con ra, đặt tên mỗi ông một đứa để nhớ những người bạn suốt đời.

Dưỡng còn bông đùa :

- Khi nào giận mấy ông, tôi đem con ra đánh đòn để khỏi mất tình bạn.

Quả đúng như lời ước nguyện, Trời đã ban cho Dưỡng ba đứa con trai :

Tâm __ Thành __ Thiện

Tâm khóa 18, Tôi khóa 19, Thiện Bác Sĩ Tiểu Đoàn .

Tâm Thành Thiện là một Báu Danh của Dưỡng, chị Dưỡng và Ba con. Dưỡng ơi, tình anh em không bao giờ phai nhạt trong con người của Dưỡng. Dưỡng là con người tâm thành thiện. Dù thân xác của Dưỡng một phần bị tê liệt, nhưng Giá Trị của Dưỡng và Gia đình Dưỡng là một Gương Sáng Ngời và Bất Diệt. Nếu những dòng Tâm Tình trên được Dưỡng cho vào đoạn kết của thiên Hồi Ký là một ghi nhận Sắt Son Tình Bạn của chúng ta.

Nguyễn Văn Thành

Khóa 19 Võ Bị Đà Lạt

Chúc Tụng

Xin trao về Dưỡng

Những tâm tình yêu thương,

Nhắc lại cho Dưỡng,

Bao nỗi gian nguy,

Bao tình Huynh Đệ,

Trên một quảng đường.

Qua một tai nạn chấn thương,

Dưỡng, chị Dưỡng, và Ba con Dưỡng

Là Tâm Thành Thiện

Nói lên : Gia Đình Sáng Ngời..........Như Gương.

Nguyễn Văn Thành

ĐĐT ĐĐ92 rồi TĐT/TĐ11ND
Lời Nói Đầu

Một Cánh Hoa Dù nhằm mục đích nói lên tinh thần bất khuất của toàn thể quân nhân trong binh chủng Nhảy Dù nói chung và ý chí phấn đấu không ngừng của tác giả nói riêng.

Sau ngày mất nước, toàn thể chiến sĩ QLVNCH đều uất nghẹn, nhất là chiến sĩ Nhảy Dù; thật sự không ai muốn bỏ súng chịu thua trước một đối thủ mà trong các lần chạm trán, quân thù nghe danh đều khiếp sợ. Gần hai mươi trận chiến viết trong quyển sách nầy là bằng chứng hùng hồn, nói lên sự chiến đấu anh dũng, tài giỏi và kiên cường của những Hoa Dù ngay cả trong các trận địa chiến với quân số tập trung hùng hậu của địch như trận Tổng Phản Công Tết Mậu Thân, trận Hạ Lào, và Bình Long Anh Dũng,

Riêng tác giả cũng là Một Cánh Hoa Dù nhỏ nhoi, lúc đương thời từng cùng với anh em binh sĩ đã xông pha trận mạc và gặt hái vài thành quả tốt đẹp. Lúc bị thương tật, vẫn phấn đấu vươn lên; dù 9 năm sống dưới chế độ hà khắc Cộng Sản, dù bôn ba nơi xứ lạ quê người, và dù 25 năm bị hãm mình trên xe lăn, lúc nào cũng hướng về phía trước để Tự Thắng, để Nhảy Dù Cố Gắng !

Mục đích của quyển sách nầy cũng muốn kể lại các cuộc hành quân mà tác giả đã trực tiếp hay gián tiếp tham dự, để cho độc giả biết qua các trận chiến nổi tiếng mà các chiến sĩ Dù đã góp một phần nào xương máu, để các chiến hữu khi đọc sẽ hồi tưởng lại những ngày mình đã xông pha vào đường tên mũi đạn tại quê nhà. Và cũng muốn để cho thế hệ con cháu biết về sự gian lao khổ cực của ông cha, chiến đấu đến cùng để bảo vệ sự Tự Do cho đồng bào Miền Nam.

Trong Chương I, nói về sự huấn nhục tại quân trường, nơi đó có truyền thống huynh đệ chi binh và sự rèn luyện gian khổ để trở thành cấp chỉ huy tương lai.

Chương II nói về các khóa học sau khi ra trường, ngoài ra tác giả cũng muốn nói sơ về người bạn trăm năm, mà đã suốt đời hy sinh cho chồng con.

Chương III cũng là chương chính trong quyển sách nầy, kể lại các trận đánh oai hùng của các cuộc hành quân Dù và những chuyện buồn vui đời lính.

Chương IV nói sự phấn đấu về thể xác lẫn tinh thần của tác giả khi mới bị thương tật, và ý chí vươn lên để chứng tỏ mình vẫn còn hữu dụng, chín năm kẹt lại ở VN, tác giả cùng gia đình đã cố gắng vượt qua được những cơn khó khăn, khổ cực.

Chương V : những ngày ở nơi đất khách quê người, tác giả đã được sự giúp đỡ của đồng hương và sự khuyến khích của người bạn đời cố gắng dìu dắt các con học hành.

Tác giả rất cám ơn sự khuyến khích, giúp đỡ, và nhắc nhở các điều thiếu sót về các trận chiến, về các ý kiến quý báu làm cho cuốn sách nầy thêm hoàn mỹ. Cám ơn tướng Lê Quang Lưỡng, cựu Tư lệnh SĐND; Đại Tá Nguyễn Thu Lương, cựu Lữ Đoàn Trưởng/Trưởng Phòng Hành Quân Sư Đoàn Nhảy Dù; và các bạn Hòa, Lạc, Tường, Mẫn, An, Chiến, Chờ, Cơ, Triết, Nguyên, Cần, Hùng, Triệu, Huệ, Bảo, Thạnh, Thành, Tâm, Nhẫn,....

Ngoài ra tác giả cũng có tham khảo các bài đăng trên báo Đa Hiệu, báo Mũ Đỏ, và báo KBC cùng nhiều sách báo khác để cho các bài viết có tầm rộng và xúc tích hơn, cám ơn các vị tác giả nầy. Cuối cùng xin nhấn mạnh có vài tên trong câu chuyện đã được sửa đổi vì sợ va chạm đến cá nhân. Tác giả không phải là một nhà văn, nên sách nầy coi như là “Kể chuyện”, nhớ đâu viết đó, mong quí vị thông cảm.



Chương 1
Vào Quân Trường
1. Xếp Bút Nghiên Theo Việc Đao Cung

Tôi đang ăn ở Phạn xá, tưởng không ai để ý, nên kéo ghế ngồi sâu vào trong gầm bàn, hòng cho đôi chân được thoải mái đôi chút. Vì suốt cả ngày bị các cán bộ khoá đàn anh, thay phiên nhau quần phạt đủ mọi cách!

Bỗng có tiếng quát to từ đằng sau lưng :

- Anh kia!

Và một cây gậy dí vào lưng, vì anh cán bộ nầy đã để ý theo dõi từ lâu, mà tôi nào có hay biết trời trăng gì đâu ?

Anh sinh viên sĩ quan cán bộ nói tiếp:

- Anh có biết Tân Khoá Sinh chỉ được ngồi một phần ba ghế, và mọi động tác đều phải giữ vuông góc hay không ?

Chờ cho tôi biết ngồi đúng thế xong, anh ta nói tiếp:

- Gắp thức ăn cũng phải vuông góc. Anh đã ngồi uể oải mà còn banh chân ra nữa. Như vậy mất tư cách lắm, có biết không?

- Dạ thưa cán bộ biết.

Anh sinh viên cán bộ chỉnh xong, rồi quát to:

- Anh biết lỗi thì làm 20 cái nhảy xổm, vừa làm vừa đếm thật to cho cả tiểu đoàn nghe coi.

Như người ăn vụng bị bắt gặp, tôi vừa sợ vừa xấu hổ, liền đứng ra phía sau ghế vừa làm vừa đếm thật to . Khi nhảy được hơn 10 cái thì anh bảo ngưng: - Thôi đủ rồì, thấy anh làm mệt, tôi

thưởng anh trái “Chuối Võ Bị” nè. Anh

có từng thấy chuối võ bị chưa?

- Dạ ...thưa chưa !

Anh cán bộ chìa nắm tay tới trước, rồi mở rộng bàn tay, bày ra một nắm ớt đỏ tươi và nói:

- Chuối võ bị đây anh, ăn thử một trái coi có ngon không?

Tôi ngó nắm ớt, chần chừ chưa biết phải làm gì, hết dòm sinh viên cán bộ, rồi lại nhìn vào nắm ớt! Cuối cùng đành phải nhặt một trái bỏ nhanh vô miệng định nuốt trôi cho xong. - Không được nuốt, phải nhai từ từ để thưởng thức chuối võ bị chứ anh! SVSQ cán bộ quát.

Thế là tôi bắt buộc phải nhai nhòm nhoàm trái ớt, rồi nuốt vội, ớt cay quá làm nước mắt nước mũi chảy ròng ròng. Tôi phải há miệng hít hà lia lịa. Vậy mà anh cán bộ vẫn không động lòng chút nào, còn hỏi một cách vô lương tâm:

- Ăn có ngon không anh ?

Tôi bấm bụng trả lời:

- Dạ...dạ...ngon!

Miệng thì nói ngon mà lòng lại cay đắng trăm chiều. Tôi cứ để mặc cho hai dòng lệ tiếp tục trôi chảy theo niềm cay đắng vì quá khổ cực và xót xa! Có lẽ vì cả hai. Bây giờ tôi mới thấy cái thấm thía, cái gian truân khốn khổ của đời lính! Vì đây chỉ là bước đầu của đời binh nghiệp mà thôi.

Trong phòng ăn, tiếng hát Hoàng Oanh vang lên :

Xếp áo thư sinh, mười sáu trăng tròn....

Lênh đênh báng súng,lời thề chinh nhân

Lời nhạc rất đúng với hoàn cảnh hiện tại, khiến lòng tôi lâng lâng bồi hồi nghĩ lại, lý do tại sao mình quyết định tình nguyện vào trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam nầy.

Cuối năm 1963, sau khi cuộc đảo chánh Tổng thống Ngô Đình Diệm thành công, không khí chánh trị ở Saigòn vẫn còn sôi động. Tại các phân khoa đại học, một số giảng sư chẳng hạn như gs Chu Phạm Ngọc Sơn cứ lên diễn đàn tuyên truyền toàn chánh trị, vì thế việc học của sinh viên gần như bế tắc.

Tôi là một sinh viên nghèo, mong sớm thành đạt để giúp đỡ gia đình. Nhưng gặp tình trạng như thế nầy thì nếu cứ tiếp tục học sẽ không đạt kết quả như ý. Do đó tôi quyết định nộp đơn tình nguyện vào trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt khoá 20 Nguyễn Công Trứ.

Thực ra còn một động cơ mạnh mẽ khác đã thúc đẩy tôi vào trường Võ Bị nầy. Số là dịp lễ Quốc Khánh vừa rồi, tôi có đi dạo phố với anh bạn cùng trường trung học Trần Trung Tiên ở tỉnh Vĩnh Bình. Anh Lâm Văn Rớt, so với tôi trước kia, thì ốm yếu lờ khờ rất nhiều. Chẳng ngờ, mới có một năm thụ huấn tại quân trường, mà anh đã thay đổi không thể nào tưởng tượng nổi. Người anh bây giờ thật hiên ngang quắc thước, trong khi Rớt chỉ đi rảo bước một cách khoan thai hùng dũng; bên cạnh nghe như có tiếng gió sột soạt, còn tôi thì phải chạy lúp súp, mới kịp theo ngang hàng với anh, làm mệt thở hổn hển gần muốn đứt hơi! Lúc đó tôi cảm thấy mình cũng là thân nam nhi mà sao quá yếu ớt. Mặc dù tôi cũng thường xuyên trau giồi sức khỏe, sáng nào cũng thức sớm trước sáu giờ, đạp xe từ Phú Nhuận đến lò Nguyễn Bình ở đường Chi Lăng để tập nhu đạo. Rồi đúng 7 giờ rưởi, phải đạp xe tới trường Petrus Ký học lớp Đệ Nhứt ban toán với các thầy Phạm văn Lược, thầy Binh, thầy Đảnh,…

Nói tới Nhu đạo, tôi nhớ đến một chuyện hiểu lầm nực cười: số là khi học lớp Đệ Nhị tại trường Âu Lạc do nhà văn Chu Tử làm giám hiệu. Ngồi cạnh bàn có thằng bạn tên Đặng Thông Phong, thấy nó lùn và nhỏ con nên tôi thường hay chọc: “Mầy mà lộn xộn tao quăng ra cửa sổ”. Phong chỉ mỉm cười một cách hiền lành chớ không nói năng gì hết. Nhưng có lần tôi gặp Phong ở trường dạy Nhu Đạo của võ sư Nguyễn-Bình cùng với ông võ sư Đệ Thất Đẳng Hiệp Khí Đạo người Nhựt. Thấy Phong đeo tới đai nâu, tôi giật mình vì lúc đó mình chỉ mới có đai vàng. Phong tới bảo cứ quật mạnh đi, hắn sẽ không trả đòn. Tôi nghĩ anh ta nhỏ con nên cũng còn coi thường, nhưng khi nạp đủ mọi đòn hông, đòn vai, và kể cả đòn chân mà cũng không thể nào quật ngã được, lúc đó tôi hết sức phục tư cách của Phong, một người võ giỏi mà lúc nào cũng khiêm nhượng. Vị võ sư đệ ngũ đẳng nhu đạo người Nhật nầy rất tài ba, từ ngày ông tới phụ chỉ thêm thì ai nấy đều tiến bộ thấy rõ. Ông bảo ngày nào võ sinh cũng nên cố gắng vô đòn hông vài trăm lần. Có lẽ Phong được chân truyền của ông nên võ nghệ rất xuất sắc. Có lần tôi thấy anh thi lên đai đen ở đường Phan thanh Giãn, Đa-Kao, thân hình anh mềm dịu như con mèo. Những người đai đen lớn con mà không thể nào quật cho lưng anh xuống nệm được. Còn Phong tuy thấp nhỏ mà cũng có thể hạ những tay đẳng cấp cao hơn, anh đúng là một kỳ tài. Sau nầy anh làm huấn luyện viên nhu đạo ở trường bộ binh Thủ-Đức, lúc ấy anh đã có đệ tam hoặc đệ ngũ đẳng gì rồi. Nghe nói hiện anh là Võ sư rất nổi tiếng ở California.

Chúng tôi tập trung ở một địa điểm gần Ngã Sáu để chờ đưa ra phi trường.

Cùng đi khóa nầy có Phan Thanh Miên, bạn cùng lớp Đệ Nhứt B1 ở Petrus Ký. Má tôi có đưa tiễn, bà sắm đủ thứ đồ mang theo không hết, phải nhờ Miên xách phụ dùm giỏ cam. Bà gởi gấm đủ điều và nhờ Miên coi sóc dùm, làm như tôi còn con nít vậy! Đúng là lòng mẹ bao la như biển Thái Bình.

Chiếc máy bay dân sự chở đám thanh niên, trong đó có tôi, xuống phi trường Liên Khương Đà Lạt. Từ cánh cửa bước ra, mọi người lần lượt rời phi cơ một cách mệt mỏi, đến tập trung tại nơi hai chiếc GMC và một chiếc xe Jeep đang đậu. Đám thanh niên ngơ ngác ngó ngang ngó dọc như sợ bỏ sót một thứ gì. Tất cả khoảng ba mươi người, tuổi từ 18 tới 25. Y phục gọn gàng, cùng với túi hành trang nhẹ đeo vai. Những người tuổi trẻ nầy trông có vẻ bơ phờ vì họ chưa quen đi phi cơ. Bấy giờ là khoảng cuối tháng 12, thời tiết mùa đông ở Đà Lạt đã lạnh giờ lại càng lạnh thêm, những luồng gió cắt da thổi vào người khiến ai cũng bị nổi ốc, rùng mình! Xung quanh phi trường là đồi thông bát ngát, lá thông reo lên như những bản nhạc buồn làm se lòng những chàng trai đầy nhựa sống, vừa rời bỏ thành phố thân yêu. Đứng cạnh chiếc xe Jeep là 4 SVSQ khoá 19, họ mặc quân phục dạo phố mùa Đông bằng nỉ xám đen. Trên đầu đội mũ Casquette có huy hiệu Tự Thắng Để Chỉ Huy. Hai vai gắn alpha vàng trên nền đỏ thẩm, cánh tay trái có đeo giây biểu chương màu anh dũng, giày bóng loáng, kèm theo khuôn mặt nghiêm trang, trông rất oai nghi hùng dũng. Rồi chợt cả bốn người cùng tiến về phía đám thanh niên trẻ; nhìn dáng đi của họ như toát ra một cung cách hiên ngang, sắt đá, và uy lực thể hiện sau một năm tôi luyện ở quân trường. Họ và những chàng trai trẻ vừa mới đến, tuy mỗi người một vẻ nhưng cùng chung một hoài bão là đem tài trai để phục vụ non sông, tổ quốc. Đó là hoài bão oai hùng của người chiến sĩ.
2. Giai Đoạn Tân Khóa Sinh

Cũng nên lược sơ qua về trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, đây là một nơi chuyên đào tạo cho chiến trường những sĩ quan hiện dịch, có trình độ văn hoá bậc đại học. Trường có thể liệt vào tầm cỡ nhứt, nhì trong vùng Đông Nam Á, nó được đỡ đầu bởi trường Võ Bị West Point ở Mỹ. Hằng năm vào ngày mãn khoá đều có sự tham dự của vị Chỉ huy trưởng trường nầy. Trường được xây cất trên một sườn thoai thoải ở độ cao 1515 mét, dưới chân Đồi Bắc, chảy dài kề cận bên ấp Thái Phiên trù phú, với vô số rau cải tươi xanh, cung cấp cho thành phố của xứ hoa anh đào. Chính tại đây đã tạo ra nhiều cuộc tình thơ mộng giữa các chàng trai Võ Bị và các nàng thôn nữ ngọt ngào diễm lệ. Nhờ khí hậu mát mẻ nên mỗi Chủ nhật, thành phố được làm đẹp thêm bởi những chàng trai Võ bị trong các bộ đồ dạo phố mùa Đông, mùa Hè, với những màu sắc hài hoà tạo cho họ vừa rực rỡ vừa hiên ngang, làm đẹp lòng các nàng nữ sinh của trường Bùi Thị Xuân, Đà Lạt.

Theo tổ chức của trường thì đứng đầu là Chỉ Huy Trưởng, đặc biệt Khoá 20 của chúng tôi có đến năm vị CHT: Đại tá Trần Ngọc Huyến, Chuẩn tướng Nguyễn-Văn-Kiểm, Đại tá Trần-Văn-Trung, Thiếu-tướng Trần-Tử-Oai, và Đại-tá thiết giáp Lâm-Quang-Thơ, người đã chủ tọa lễ gắn cấp bậc Tân Thiếu úy cho chúng tôi.

Trường gồm có Văn Hoá Vụ, Quân Sự Vụ, và Ban Yểm Trợ. Văn Hóa Vụ lo giảng dạy chương trình văn hóa bậc Đại học; Quân Sự Vụ huấn luyện hành binh chiến thuật, vũ khí, và tác xạ; Ban Yểm Trợ lo tổng quát các nhiệm vụ huấn luyện và còn cung cấp các lính giả địch, xe cộ vật liệu, và đạn dược,...

Liên Đoàn Sinh Viên chia thành 2 tiểu-đoàn, mỗi tiểu-đoàn có 4 đại đội (thời kỳ Tướng Oai nhập lại còn 4 đại đội và đại đội cờ đỏ được khen thưởng, còn đại đội nhận cờ đen thì bị cúp phép).

Có hai hệ thống: Tự-Chỉ-Huy và Tuần-Sự. HT Tự Chỉ Huy do sĩ quan cán bộ liên đoàn trưỡng đề cử, dựa theo thành tích điểm văn-hóa và quân-sự trong năm thứ nhứt để chọn. Hệ thống Tuần Sự do các sinh viên sĩ quan cán bộ thuộc hệ thống Tự Chỉ Huy cắt cử, hệ thống nầy điều hành công việc hằng ngày, luân phiên mỗi tuần thay đổi để trực tiếp chỉ huy các tân khoá sinh.

Khí hậu Đà Lạt thật tốt, lúc ở trong máy bay tôi mệt mỏi buồn nôn, nhưng vừa bước ra cửa phi cơ là cảm thấy khoẻ ngay! Sau khi tự giới thiệu, bốn sinh viên sĩ quan cho chúng tôi biết rằng họ có nhiệm vụ tiếp đón những anh em Tân Khoá Sinh, tức là những tân sinh viên sĩ quan tạm thời. Các thanh niên chia ra làm hai, mỗi nhóm lên một xe GMC.

Chiếc Jeep dẫn đầu chạy phăng phăng, đoàn xe chạy vòng qua các thắng cảnh nổi tiếng của thị xã Đà Lạt, nào thác Prenn, thác Cam Ly, hồ Hồ xuân Hương, khu chợ Hoà-Bình; gần đến trường có hồ Than-Thở, ấp Thái-Phiên. Ôi Đà Lạt sao có nhiều cảnh đẹp và thơ mộng quá! Khi xe chạy ngang qua phố chợ, nhiều người vẫy tay như chào mừng, nhất là các cô gái Đà Lạt với đôi má đỏ hồng trông thật dễ thương. Họ gật gật cái đầu tỏ dấu như nhắn nhủ một điều gì. Chúng tôi ai nấy đều cảm thấy buồn vui lẫn lộn. Mãi đang ngắm nhìn cảnh đẹp hai bên, bỗng chiếc xe quẹo gắt và ngừng lại trước cổng tam quan, bên hông có treo một bảng lớn đề những dòng chữ to đập vào mắt mọi người:

Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam

Nơi Qui Tụ Những Chàng Trai Có Lý Tưởng

Nhìn dòng chữ nầy tự nhiên tôi cảm thấy tự hào, liên tưởng đến hình ảnh một Thiếu úy tuổi trẻ, hiên ngang, mang danh dự về cho gia đình và họ hàng, nhất là bà mẹ hiền, lúc nào cũng ủng hộ và khuyến khích tinh thần của con mình.

Chiếc cổng trường rất lớn, xây bằng gạch đỏ Đồng Nai, có nhà kiếng làm trạm kiểm soát ở ngay chính giữa, chia cổng làm hai lối, bên phải để đi vào, bên trái là lối ra. Trước nhà gương có gắn những chữ nổi bằng đồng bóng loáng:

Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam

Tự Thắng Để Chỉ Huy

Khi xuống xe tôi thấy một số người từ các địa phương khác đến. Có người đi bằng xe lửa, cũng có một số người đi bằng máy bay như nhóm ở Sàigòn chúng tôi. Tất cả được các SVSQ cán bộ mời ra câu lạc bộ ở trên sườn đồi thấp, xây bên ngoài cổng trường. Các thanh niên ai cũng háo ăn vì đói bụng đã lâu. Họ ngồi ngã nghiên thoải mái, cười cười nói nói huyên thiên, có gã còn liếc mắt đưa tình với mấy cô hầu bàn người Hoa duyên dáng.

Anh sinh viên cán bộ hỏi:

- Tình hình bên ngoài ra sao, các anh?

Một thanh niên nói giọng Huế trả lời:

- Chán lắm anh ơi! Đâu có học hành gì được, chính trị lồng vào khuôn viên đại học, làm mất hết ý nghĩa của sinh viên thuần tuý, hơn nữa lúc nào cũng đe dọa tổng động viên. Tui đi con bồ tui nó khóc quá chừng, nhưng tui nói với nó là hai năm sau ra Thiếu úy mặc sức em hãnh diện!

Sau khi ăn uống no nê rồi thì họ mời chúng tôi ra xếp hàng tập họp trước cổng. Từ khi xuống máy bay tới giờ, tôi thấy các sinh siên sĩ quan Khoá 19 nầy thật là lịch sự dễ thương. Các anh cán bộ bây giờ mặc quân phục kaki vàng, quần túm ống bỏ vào giày Map được đánh bóng như gương soi. Đầu họ đội nón nhựa thoa dầu láng bóng, lưng đeo dây nịt trắng to bản. Tất cả đều cầm chiếc gậy ngắn trên tay trông như những tướng Patton của Mỹ thời Đệ Nhị Thế Chiến, vừa oai hùng vừa hung dữ, sẵn sàng gõ vào đầu những chú nào ba gai. Họ còn mang lên cổ áo những cấp bậc hai gạch, ba gạch màu đỏ, trông giống như các cấp bậc của sĩ quan SS thời Đức-Quốc-Xã. Những cặp mắt ngó trừng trừng che khuất dưới vành nón nhựa, như xoi mói vào tim của từng chàng trai được gọi danh hiệu mới là Tân Khóa Sinh. Một anh đứng trước chúng tôi, cổ đeo hoa mai viền đỏ trên nền trắng, nói một cách nhỏ nhẹ lịch sự:

- Tôi, sinh viên sĩ quan Cán bộ tiểu đoàn trưởng, Tiểu Đoàn Tân Khoá Sinh, hân hoan chào mừng và đón nhận các anh là những Tân Khoá Sinh của khoá 20 Trường Võ Bị Quốc Gia VN.

Đảo mắt một vòng, anh nhìn thẳng vào các tân khoá sinh, rồi nói tiếp:

- Các bạn là những người đã nộp đơn tình nguyện vào quân trường nầy, để rèn luyện thành những sĩ quan hiện dịch, hầu cung cấp cho chiến trường những cán bộ thao lược. Khi vào quân trường các anh cần phải giữ đúng nội quy, và thi hành kỷ luật như các khoá đã đi trước. Ngay từ bây giờ nếu ai muốn đổi ý vẫn còn kịp, chúng tôi sẵn sàng mua vé máy bay đưa về nguyên quán ?

Nói như vậy chớ đâu có ai muốn trở về; mọi người trước khi ra đi đều đã bịn rịn từ giã bà con, bạn bè, và nhiều lời hứa hẹn hùng hồn với bồ bịch.

Anh sinh viên sĩ quan cán bộ lập lại ba lần:

- Có anh nào muốn đổi ý không ?

Chúng tôi đồng loạt trả lời:

- Không! không! không!

- Tất cả theo lệnh tôi: Bên phải..quay!

- Đàng trước...bước!

Một ấn tượng về đời lính đã bắt đầu len lỏi vào tâm tư của những chàng trai trẻ. Mọi người thi hành theo như phản xạ, họ sửa lại điệu bộ cho có vẻ nghiêm chỉnh. Do đó tiếng giày của họ cũng nện mạnh từ từ bước theo như cán bộ.

Trong khi nộp đơn ở Saigòn, tôi đã được hướng dẫn đầy đủ về nếp sinh hoạt trong Võ Bị. Vì nhu cầu chiến tranh, khoá 20 phải học cấp tốc hai năm, thay vì 3, 4 năm như các khoá khác, về văn hóa thì tương đương với 2 năm ngành đại học. Còn chương trình quân sự thì sẽ học như các khoá khác: về cá nhân chiến đấu, hành quân tác chiến từ cấp tiểu đội, trung đội, và đại đội. Ngoài ra cũng học về địa hình, vũ khí, tác xạ, cùng lãnh đạo chỉ huy.

Nhưng mọi người đều hoang mang nhất về Tám Tuần Sơ Khởi. Có người gọi đó là tám tuần địa ngục trần gian, có người gọi đó là tám tuần lột xác, sẽ lột bỏ hết những cá tính dân sự để trở thành một một quân nhân thuần tuý.

Giai đoạn nầy chỉ biết có tuân lệnh tuyệt đối, không được thắc mắc phân trần gì hết! Thật là giai đoạn trăm cay ngàn đắng,giống như sắt bị trui rèn trong lò luyện thép vậy.

Thế rồi kèn trống nổi lên như chào đón, như mời mọc, và cũng như thúc giục chúng tôi đi vào. Nghe tiếng nhạc vui tươi chẳng khác nào khi còn ở ngoài dân chính trong những đêm liên hoan nhảy nhót ở các Phân khoa Đại học, ai cũng có cảm giác oai phong, hớn hở!

Nhưng!!!..

Người cuối cùng vừa bước qua khỏi cổng thì hỡi ơi! Tiếng quân nhạc cũng vừa chấm dứt. Mọi sự đều trái ngược, họ trở mặt một cách trắng trợn! SVSQ cán bộ ùa ra đông như kiến!

Một người kèm một tân khoá sinh; họ bắt đầu nạt nộ, la hét. Một anh cán bộ chạy tới quát vào mặt tôi và bảo :

- Anh nầy, chạy theo tôi coi, anh thấy toà nhà ngang phía trước không? Ráng chạy cho qua mặt tôi.

- Chạy nhanh lên, bộ tà tà muốn ba gai hả ?

Đoàn quân hàng một khi nãy như bị tan loãng ra từng cặp một. Rồi mỗi người chạy đua với một sinh viên cán bộ, nhưng chắc chắn phần thua cuộc phải là những anh chàng lính mới nầy. Họ không biết, cứ ráng chạy qua mặt sinh viên cán bộ để về phạn xá (dãy nhà ngang là phạn xá) phía trước để thi hành đúng lệnh của đàn anh, mong rằng làm xong sẽ được nghỉ sớm, vì đi suốt ngày mệt mỏi quá chừng.

Nhưng than ôi, giống như các tân khóa sinh khác, tôi đã lầm. Lúc đang chạy ngon trớn giữa đường thì bị một cán bộ khác chận lại và quát to:

- Anh chạy giỏi lắm, giờ chạy ngược cho tôi coi.

Như chiếc xe bị giật lùi, tôi bị vấp té ngã, vì hai chân chẹn vào nhau.

Tức thì đàng sau, một tiếng hét như sấm nổ bên tai:

- Yếu đuối như vậy sao ? Làm mười cái nhảy xổm coi.

Tôi chưa từng biết thế nào là nhảy xổm, vì thế anh ta làm trước một cái biểu diễn, rồi bắt tôi thi hành theo lệnh. Lúc nãy chạy nước rút làm tôi mệt thở hổn hển, tim đập mạnh quá nên mặt tái xanh. Đầu óc choáng váng mà cũng ráng nhảy 10 cái xổm. Nhưng thiện chí đã như vậy mà vẫn chưa được yên thân.

- Nhảy thêm 10 cái hít đất !

Tôi tự nhủ mẹ kiếp, 10 cái nầy rồi 10 cái khác, cứ như thế thì chỉ có thác thôi! Chẳng lẽ hình phạt nầy vô tận hay sao?

Đang nghĩ vẫn vơ, bỗng nghe tiếng quát:

- Tiếp tục chạy 1 vòng sân cho tôi coi.

Lại tiếp tục như cái máy, tôi lúc đó vừa chạy vừa tức, vì mình đã chấp hành đúng lệnh, có ba gai gì đâu. Hồi nào tới giờ ở ngoài đời chỉ được chiều chuộng, chứ chưa từng bị ai nạt nộ hành hạ như thế nầy. Rồi họ hai ba người kèm, bắt tôi chạy và bò qua ống cống làm áo quần bị ướt nhẹp dính đầy bùn sình, thật là dã man hết sức. Tôi quá tức giận định chạy thẳng ra cổng luôn, nhưng không hiểu sao hai chân cứ bẻ quanh vô theo những người chạy trước!

Từ bốn sinh viên sĩ quan tại phi trường, rồi lên bốn chục người, bây giờ thì tứ bề bị vây kín bởi những sinh viên cán bộ. Một vòng rồi một vòng, tôi cứ tiếp tục chạy cho đến khi bị ngã té xuống đất lúc nào mà cũng không hay, nhưng lỗ tai thì vẫn nghe rõ tiếng quát:

- Ai chỉ anh vô Võ Bị mà biết mang giày Bata vậy?

Tôi vừa thở vừa trả lời:

- Thưa có người mách tôi là vào đây sẽ bị phạt. Mang giày tốt, sợ bỏ uổng!

- Bộ anh khinh dễ Võ Bị phải không? Vô Võ Bị mà mang giày không đứng đắn vậy sao ?

Đang ấm ớ không biết trả lời ra sao, bỗng lúc đó tôi lại nghe một cán bộ quây một thanh niên khác đang đứng ủ rũ như con gà chết:

- Anh tưởng vô Võ Bị để nhảy đầm hay sao mà mang giày đẹp vậy, lại còn mũi nhọn hoắc nữa chứ.

Tôi chửi thầm trong bụng, đúng là “Quan thì to miệng, dân thì ngậm tăm”!

Làm quan trên thì muốn phát ngôn thế nào cũng được, mang giày xấu cũng bị phạt, còn mang giày tốt thì bảo là đi nhảy đầm. Mẹ ơi! sao con khổ thế nầy ?

Tôi thắc mắc là tại sao khi ở câu lạc bộ, và ngay cả ở trên xe GMC, họ đã tử tế chở vòng vòng để cho ngắm cảnh. Lúc đó các anh quả thật là những chàng sinh viên sĩ quan bặt thiệp dễ thương. Thế mà sao bây giờ họ dữ tợn quá vậy? Nghĩ như thế chừng một thoáng rồi bỗng mắt tôi nhòa dần, đầu chúi ngã về phía trước. Mắt nhìn một anh cán bộ thành hai người, thành ba, bốn, năm,...rồi mờ dần. Trong giây phút đó, tôi mơ hồ nhớ lại hình ảnh khuôn mặt của những người dân ở chợ Đà Lạt, những cái cười vẫy tay ấy như hàm ý là: “Bây giờ cười vui đi các cậu trẻ, chút nữa đây rồi sẽ biết”. Còn những nụ cười của các cô nữ sinh xứ hoa đào, tôi đã hiểu những nụ cười ấy ngầm chứa một ẩn ý như nhắn nhủ, như dặn dò: “Hãy ráng lên, cố gắng vượt qua những thử thách đầy gian khổ, rồi đây các anh sẽ là những chàng trai hùng, những người yêu lý tưởng của chúng em ”!

Các thức ăn mà tôi cho vào bụng một cách thoải mái ở câu lạc bộ, bây giờ ọc ra hết trọi, con người lờ đờ không tự chủ, nghe họ bảo sao thì cứ làm như cái máy.

Một lúc sau đó, nhờ không khí lạnh của Đà Lạt làm tôi tỉnh lại, vừa mở mắt ra thì thấy một anh cán bộ đã đứng sẵn đó từ bao giờ, tôi chưa kịp có phản ứng gì thì anh ta quát lớn:

- Giả bộ xỉu phải không anh? Tưởng tôi thương tiếc cái mạng của anh lắm sao? Mạng của anh chỉ bằng một tờ giấy thôi. Anh hãy đứng lên trình diện tôi coi.

Như con ngựa đua bị thằng nài thúc hối bởi roi giọt, cứ nhắm mắt lao tới. Tôi gắng gượng đứng dậy, chân trước đá chân sau; khệnh khạng bước đến trước mặt anh ta, chưa kịp đứng vững thì bị quát:

- Anh có biết đứng nghiêm không? Hãy chào tay và xưng danh tôi coi?

- Thưa anh, tôi tên là Trương Dưỡng.

- Quân đội không có anh em gì cả. Dân chính lắm, phải nói là thưa Niên Trưởng.

Nhắc tới chữ anh em tôi chợt nhớ tới một trường hợp tức cười là chuyện hai anh em ruột phạt nhau. Người anh tên Long ở ĐĐA (sau nầy ra trường vài tháng thì bị hy sinh) quát:

- Anh là gì của tôi?

- Dạ là em của anh. Người em là Nguyễn Bảo Sơn trả lời!

- Quân đội không có anh em gì hết, xưng danh lại.

- Dạ ... mình cùng máu mủ!

Theo lời Sơn kể lại: Long tức giận em không nghe lời ở nhà săn sóc bà mẹ yếu, mà cứ nộp đơn đi Võ Bị! Nên hôm đó Long đã phạt Sơn tơi bời!

Có lẽ thấy tôi quá mệt mỏi, anh cán bộ giả lãng, thay vì tiếp tục hành xác, anh lại chỉ vẽ cho cách chào, cách gập càm ba ngấn, thế nghiêm, thế nghỉ, cách xưng hô, trình diện.

Anh sinh viên cán bộ bảo tôi lập lại theo:

- Tân khoá sinh T.D, danh số...., trình diện niên trưởng. Tôi lập lại...nhưng đến hai chữ “Niên trưởng” thì bị khựng, vì nghe nó ngờ ngợ làm sao. Niên trưởng? Sao lại là niên trưởng? Niên trưởng là cấp bậc gì trong quân đội? Thôi thì tìm hiểu cái quái gì, lệnh ra thì cứ làm cái đã, tôi cứ lập lại như con vẹt. Nhưng nghĩ hai chữ niên trưởng nó mới lạ khó nói chẳng khác nào anh chàng vừa cưới vợ, phải sửa đổi gọi nhạc gia là bố mẹ, thay vì mọi lần kêu là hai bác.

Hơn mấy giờ bị quần thảo, đám tân khoá sinh được dẫn đi hớt tóc và lãnh quân trang. Phòng hớt tóc gồm 5 ghế, đặt trước gương dài, từng 5 người được gọi lên ..... “Bàn cạo”. Ai nấy như nhẹ nhõm vì từ khi bước chân vào cổng trường tới giờ chỉ có dịp nầy mới được tự do ngồi nghỉ ngơi đôi chút, họ chẳng còn thì giờ để ý tóc sẽ được cắt theo kiểu nào. Khi hớt xong, thấy đầu bị cạo trọc còn ba phân, mặt mày ai nấy đều méo xẹo!

Sau đó họ đưa chúng tôi vào phạn điếm để ăn cơm. Cứ bốn người ngồi một bàn, họ chỉ tôi cách ngồi thẳng lưng, hai tay buông thòng xuống, cầm gập và mặt ngó thẳng, lúc ăn phải giữ vuông góc, trông giống như người máy “Rô bô”â vậy. Bỗng tôi nghe tiếng hét trước mặt:

- Anh kia! Xưng danh coi.

Tôi đứng bật dậy chợt thấy đó là bạn Lâm Văn Rớt, định lên tiếng bảo cứu mạng, tao bị tụi nó hành quá trời mầy ơi, nhưng Rớt làm mặt lạ quát:

- Xưng danh nhanh lên.

Tôi tưởng hắn nói chơi ai dè hắn trở mặt thiệt. Tức quá tôi hét lớn:

- Tân khoá sinh Trương Dưỡng trình diện.

- Anh đã ăn được mấy chén?

- Thưa 5 chén (trời ơi bạn bè mà phải dạ với thưa!!)

- Anh ăn thêm 2 chén nữa cho tôi coi.

- Tuân lệnh!

Nhưng đồ ăn đã hết rồi, đành phải ăn cơm với xì dầu.

Sau khi cơm nước xong, họ dẫn đi lãnh quân trang và quân dụng, hành trang đầu đời quân ngũ gồm: một túi đựng quân trang, một cái balô, 2 đôi giày trận, hai bộ đồ tác chiến, một cái mũ sắt hai lớp nặng chình chịch, một nón lưỡi trai và một số đồ cá nhân lỉnh kỉnh. Mọi người thay đồ tại chỗ, với bộ đồ mới rộng thùng thình, trông ngơ ngáo thật nực cười .

Rồi họ đưa chúng tôi về phòng, trên lầu ba. Các tân khoá sinh bắt đầu xả nước nóng tắm rửa thật là thoải mái, mọi gian lao suốt ngày như được trút đi theo dòng nước.

Phòng tắm ở đây xung quanh tường lót toàn gạch men, và dưới nền toàn là gạch bông. Hằng ngày sinh viên phải quét dọn lao chùi bằng bột Nap bóng loáng trông rất sạch sẽ. Lúc đó trời đã tối đen, bỗng nghe tiếng kèn thổi báo ngủ. Tất cả tân khoá sinh mọi phòng đều phải lên giường và tắt đèn đi ngủ.

Đây chỉ mới ngày đầu trong 8 tuần lễ sơ khởi, còn lại năm mươi lăm ngày thử lửa nữa, với nhiều trò phạt hành xác mới mẽ, khi nhớ tới cảm thấy rùng mình, thật là đoạn trường ai có qua cầu mới hay.

Suốt 8 tuần, tân khoá sinh bị phạt tập thể hoặc phạt dạ chiến cho cá nhân nào bê bối, từ sáng đến tối chỉ toàn là cực hình, nhiều hình phạt thật là vô lý không thể tưởng. Có lần cả tiểu đoàn tân khoá sinh bị sinh viên Phạm Hiệp Sĩ, Cán Bộ Tiểu Đoàn Trưởng, phạt tập hợp kiểu “ Nhanh như lá vàng rơi ”. Tất cả tân khóa sinh đều ở trên lầu ba, khi nghe tiếng còi, một cán bộ thả chiếc lá, cũng từ lầu ba, mọi người phải chen nhau chạy xuống tập họp. Làm thế nào mà hơn 400 người có thể thi hành kịp với một chiếc lá rơi, có thể nếu biết bay thì may ra. Thế là lên lầu làm lại, chạy lên chạy xuống cho tới gần xỉu thì vị tiểu đoàn trưởng lên bục xỉ vả nào là ba gai, nào là tránh né, rồi bắt bò, hít đất, nhảy xổm,...

Có hình phạt bắt lấy cây tăm đo chiều dài của sân trại, hoặc ăn trái ớt và bảo nó là trái chuối, hoặc bảo đổ đầy bình bi-đông bằng chai dầu gió. Có anh tân khóa sinh nhận thư tình dài tới 7 trang giấy! Sinh viên cán bộ bảo anh lấy keo dán lại thành tờ giấy dài lê thê giống như sớ Táo Quân, rồi bắt anh ta đứng lên bục gỗ, đọc to cho tất cả cùng nghe! Nhiều đoạn trong thơ thật ướt át, mùi không thể tả! Nghe anh đọc lên ai cũng muốn cười bể bụng,... nhưng nếu anh nào cười thì sẽ bị phạt ngay.

Mỗi lần ra sân bắn, tân khoá sinh thường thi đua với nhau “chầu tê liệt”, hễ ai thua điểm thi tác xạ thì tối về đãi một chầu bao bụng cho người thắng cuộc, ăn no nê mệt nghỉ! Nhiều tân khoá sinh trong khi học môn địa hình, tìm cọc và điểm đứng. Khi đi qua khu vực trồng cà rốt trong ấp Thái Phiên, có anh muốn thưởng thức món cà rốt tươi ướp lạnh, đã nhổ lén một củ ăn rất ngon lành, xong nhét đồng tiền chì vào lỗ vừa mới nhổ trống, coi như mua vậy. Có toán vì lo kiếm anh chàng nào đó đang lén tìm lùm cây chui vô ngủ, vì đêm qua gác nên thiếu giấc. Do đó cả toán về trễ giờ quy định nên bị phạt tập thể.

Mọi sự di chuyển trong doanh trại của tân khoá sinh đều đi đúng nhịp hoặc chạy lúp súp, chớ không được đi rảo bộ khơi khơi. Mỗi buỗi sáng thức dậy lúc 5 giờ chạy sáng, rồi dùng bột Nap để lau chùi phòng ngủ, phòng vệ sinh cho bóng. Lúc nào tân khoá sinh cũng phải đi nhón gót, vì nếu cán bộ thấy dấu chân dính trên nền các phòng thì tối đó sẽ bị phạt dạ chiến.

Ngoài ra giày phải đánh bóng, áo quần để trong tủ cá nhân và mền drap đều phải xếp vuông thẳng, sinh viên cán bộ mỗi Thứ Bảy đều đeo găng tay trắng, rồi họ cố tình rờ dưới tủ, dưới giường, ở kệ sách, và các bộ phận tháo rời của súng cá nhân.

Trong khi thi hành lệnh phạt thường bị xỉ vả:

- Anh thích cười ruồi với thợ giặt hả ?

- Tà tà hả, tránh né hả, anh nào ba gai sẽ bị ra trung sĩ đó.

- Anh yếu xìu như vậy mà đòi ra trường chỉ huy binh sĩ hả?

- Anh uể oải, chán nản, không hiểu thế nào là Tự Thắng để chỉ huy sao ?

Vài chuyện đáng kể là trường hợp tân khoá sinh Đỗ Quang Xuân có người anh họ là Đại tá Quân Sự Vụ Trưởng. Ông ta sắp đổi đi ra đơn vị tác chiến nên bảo với sinh viên cán bộ tuần sự đại đội cho gặp Xuân, nhưng sinh viên cán bộ nói :

- Theo qui chế tân khoá sinh không được gặp bất cứ sĩ quan nào trong suốt 8 tuần sơ khởi, nếu đại tá gặp xong tôi sẽ phạt anh Xuân.

Vì muốn nhắn chuyện gấp nên ông ta đành gật đầu ưng chịu. Tối hôm đó Xuân bị phạt dạ chiến trước đại đội.

Đại uý Đại đội trưởng Đại đội A là một sĩ quan rất khắc khe và cứng rắn, nên hôm cháu ông nhập trường, khi đang thọ phạt, anh xưng là cháu của Đại úy Di để may ra họ nể mặt mà phạt nhẹ. Nhưng anh sinh viên cán bộ nghe được càng phạt nhiều thêm. Tội nghiệp anh bị xỉu lên xỉu xuống, lúc đó tôi là sinh viên sĩ quan đại đội trưởng hệ thống tự chỉ huy, trong khi anh đang xỉu, tôi lén thoa dầu cho anh. Có lần khi tân khoá sinh khoá 21 tên Lê hữu Khiêm đang thọ phạt, tôi thấy trung uý Lê hữu Khái, sĩ quan Đại đội trưởng Đại đội B, đi tới đi lui, hai tay cứ xoa với nhau, như muốn tìm cách giúp đỡ em mình, mà không thể làm được! Khoá tôi có một đứa em ruột của một vị trung tướng mà cũng bị ra trung sĩ vì thiếu điểm.

Những thí dụ trên chứng tỏ sự chí công vô tư, không sợ quyền thế. Đó là tinh thần đặc biệt của những sĩ quan xuất thân từ quân trường mẹ nầy.

Vì tập quá vất vả và phải chạy hoài nên toán nào cũng có những tân khoá sinh bị bong chân, cứ đi cà nhắc theo sau hàng quân, chúng tôi đặt tên cho họ là “ Phái Đoàn Thiện Chí ”.

Đối với tân khoá sinh, thợ giặt lúc bấy giờ có thể được coi như người thân tốt bụng duy nhất. Với tiền lương trung sĩ cho năm thứ nhứt, tôi có thể nhờ thợ giặt mua dùm thuốc bổ calcium B1, sữa hộp, kẹo,.. Mỗi buổi chiều thợ giặt cũng bán gà rôti, hột vịt lộn, bánh mì nem, chả chiên,... Sau khi học quân sự về, TKS sợ nhứt là lúc tập họp đi ăn, vì đây là dịp để các sinh viên sĩ quan cán bộ phạt tập thể, họ nêu nhiều lý do rồi phạt chạy, bò, hít đất, nhảy xổm,...Những người nào có cử chỉ không thi hành tích cực thì bị cán bộ đại đội gọi trình diện phạt dạ chiến vào ngay tối hôm đó, với balô chất đầy quân trang, nón sắt và vũ khí cá nhân, rồi bị hành xác từ 8 tới gần 10 giờ đêm. Vì vậy mỗi lần tập họp đi ăn, tôi thường uống 2 ống calcium B1, húp một ít sữa đặc, để có thể thi hành hình phạt đàng hoàng, hầu tránh bị xỉu hoặc bị gọi phạt dạ chiến phụ trội.

Vì bị phạt tập thể mỗi lần gần hai tiếng đồng hồ, nên khi vào phạn xá, ai nấy đều đói meo, người nào cũng ăn trên năm chén cơm. Khóa tôi đặc biệt có anh Nguyễn hiền Triết, cao 1.85 m, tiêu chuẩn tối thiểu của nó là 7 chén. Triết thủ cờ Liên Đoàn trong năm thứ hai, sau nầy ra Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù, rồi về làm sĩ quan cận vệ phủ Tổng Thống.

Tánh Triết rất tếu và tốt với bạn bè, có lần vào đêm cuối năm, Nghiêm đang chỉ huy Đại đội Nhảy dù đóng ở vườn Tao Đàn với nhiệm vụ phòng thủ vòng ngoài phủ tổng thống, Triết qua rủ người bạn đồng khoá nầy, lợi dụng giờ giới nghiêm, lấy xe đi đến các khu nhà giàu, nơi nào có để các chậu bông ngoài cửa, Triết, Thành, và Nghiêm đều bợ hết. Khi tới một biệt thự nọ, có chậu bông thật to, cả ba đang hì hụt lăn lên xe, bỗng có một cảnh sát viên từ trong hẻm đi ra. Ba đứa đang lúng túng, nhanh trí Thành chồm tới kéo cổ áo ra hù:

- Đại úy nè, sao còn đứng đó, không tới đây lăn phụ.

Thấy tới ba ông Đại úy Nhảy Dù vừa trẻ tuổi vừa cao lớn oai nghi, anh cảnh sát đâu dám chần chừ:

- Dạ! Dạ! Đại úy.

Rồi anh săn tay áo, phụ khiên chậu bông lên xe!

Nghiêm và Triết vừa làm vừa cười thằng quỉ Thành nầy ma le lanh trí quá! Sáng hôm sau, Triết chở mấy chậu bông đem phân phát cho những thằng bạn cùng khoá, trong đó có phần của tôi là một chậu bông giấy.

Triết chẳng những to con mà mũi lại cao, nước da hơi ngâm đen, trông giống người Mỹ gốc Mễ lắm. Có lần chúng tôi cùng Triết đi ăn chè, chị bán hàng hỏi:

- Ông Mỹ nầy cũng biết ăn chè sao ?

Tôi sẵn dịp nói đùa:

- Hắn là Mỹ mà biết nói tiếng Việt đó.

Chị ta không tin, tôi làm bộ nói với Triết:

- Can you speak Vietnamese ?

Triết cười hô hố giọng như Mỹ rặc:

- Oh yeah ! Of course !!!

Chúng tôi bảo cá nồi chè, chị ta cười cười bảo cứ làm thử.

Triết làm bộ nói bập bẹ:

- Cộ...thu..ơng t..ui kh...ôn ?

Cô bán chè nghe nói mặt đỏ như e thẹn, trố mắt nhìn Triết một cách ngạc nhiên, cuối cùng cô tặng cho ông Mỹ da vàng chén chè khỏi trả tiền. Nhưng bụng của Triết ăn một chén đâu thấm tháp gì, sẵn trớn hắn làm thêm chục chén, khiến chị bán chè hôm đó trúng mối dẹp gánh về nghỉ sớm.

Cũng tại cái bao tử to ấy mà khiến Triết phải vô cùng điêu đứng khổ sở, vì suốt mười năm trong trại tù tập trung, mỗi buổi ăn chỉ có một chén cơm trộn củ sắn với nước muối, thì làm sao mà chịu cho thấu. Đã vậy lúc ra tù, sáng nào với bụng rỗng, đôi chân run rẩy, Triết cũng ráng chạy xích lô vòng vòng kiếm khách, mong tìm chút tiền mua cơm ăn dằn bụng trước đã.

Lúc đó dưới chế độ kiểm soát bằng lý lịch, các sĩ quan ra tù về chỉ có nước đi vá xe đạp ngoài đường, hoặc khá lắm thì mướn được xe xích lô để sống lê lết qua ngày. Nhưng xích lô thì nhiều mà người thì nghèo, Triết kiếm ăn rất khó, đã khổ lại càng khổ thêm, lu gạo nhà Triết lúc nào cũng trống rỗng. Mặc dù chị Triết cũng hết sức chịu khó, nhưng kiếm tiền không ra, vì thế các con anh (đứa nào cũng nặng hơn 4 ký khi chào đời, sức ăn mạnh như cha) bị đói dài dài. Đôi khi Triết cứ chạy lang thang ngoài đường hoài vì sợ về nhà thấy cảnh vợ con nheo nhóc! Đúng là anh hùng mạt lộ chỉ có trời ngó thôi!

Có lần chở khách ở khu Bà Quẹo, sẵn dịp Triết ghé thăm tôi. Thấy anh ốm nhom, mặt mày xanh lét, tôi hết sức xúc động, hơn mười năm gặp lại mà đã suy tàn như thế nầy. Tôi vội nói bà xã nấu một nồi cơm to, để hai đứa vừa ăn vừa hàn huyên lại những kỷ niệm vui buồn ở quân trường. Hiện nay Triết đang sống bằng nghề sửa áo quần ở tiểu bang Arkansas, với bản chất của người trai Đa Hiệu, anh ta từ tay ngang bây giờ đã là thợ sửa đồ vét, đồ cưới được khách hàng hết sức ưa chuộng, còn Thành tuy đẹp trai giống Châu Nhuận Phát nhưng đã hy sinh năm 1971!

Bây giờ xin trở lại chuyện dài về tân khoá sinh; sau 8 tuần huấn nhục, Khoá 20 có khoảng 7, 8 người bị trả về dân chính vì lý do sức khỏe, không chịu đựng nỗi, mọi người đều như thay da đổi lớp, dáng dấp yểu điệu thư sinh không còn nữa. Bây giờ tôi cân lên thêm được tám ký, người dẻo dai hơn trước, mọi thứ đều tiến bộ cả về thể xác cũng như tinh thần. Chúng tôi ai nấy đều hiểu rằng mục đích của những hình phạt cực hình đó không ngoài việc tạo cho sinh viên sĩ quan một cơ thể chắc chắn, một tinh thần chịu đựng có thể thích ứng với mọi khó khăn dù gian nan tới đâu cũng biết tự thắng để chỉ huy. Nhất là những hình phạt gọi là vô lý đó, cũng không ngoài mục đích tạo cho chúng tôi thích ứng, làm quen với kỷ luật sắt trong quân đội. Đó chính là: “Quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”.

Mọi người đã dần dà có cảm tình với các niên trưởng, mến phục thái độ đàn anh của họ. Những hành động đáng nhớ như khi kèn ngủ đã thổi lên, mọi đèn phòng tắt, các sinh viên niên trưởng đã lặng lẽ đi từng phòng kéo chăn mền đắp lên người khoá đàn em, vì sợ họ mệt quá ngủ quên sẽ bị trúng gió. Cũng có những lần các sinh viên cán bộ biết các tân khoá sinh chờ tắt đèn im lìm đâu đó, rồi mới lặng lẽ tu những hộp sữa đặc đã dấu sẵn dưới mền, nhưng họ đã lờ đi vì các niên trưởng biết những đàn em hết sức tội nghiệp nầy cần phải bồi dưỡng thêm cho cơ thể sau mấy ngày học tập và chịu hình phạt hết sức vất vả.

Những hành động đó tuy âm thầm, nhưng thể hiện biết bao nhiêu tình đồng đội của những người cùng chung mái trường mẹ thân yêu! Bằng chứng là sau 30 năm gặp lại các đồng môn ở xứ người, lòng tôi tràn đầy hân hoan, lúc nào cũng cảm thấy ấm cúng như gợi nhớ lại những kỷ niệm vui buồn, nhớ nhứt là các niên trưởng cán bộ thời kỳ Tám Tuần Sơ Khởi Tân Khoá Sinh.

Riêng anh Lâm văn Rớt, sau khi tốt nghiệp về Tiểu đoàn 7 Nhảy dù, đã bị thương nặng ở trận Bình-Giã. Rồi về làm sĩ quan chính huấn ở Đại đội Tổng hành Dinh Bộ Tổng Tham Mưu. Năm 1975, anh bị tù gần mười năm, khi về nhà thì vợ đã mất. Anh phải ngồi bán thuốc lá dạo ở chợ Vĩnh Bình để nuôi các con lúc ấy còn thơ dại. Hiện tại anh đang ở Pháp .


Каталог: stories
stories -> BÀi thuyết trình cách xáC ĐỊnh và chế ĐỘ pháp lý CỦa các vùng biển theo công ưỚc của liên hiệp quốc về luật biển năM 19821
stories -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạo trưỜng đẠi học luật tp. HỒ chí minh dưƠng kim thế nguyên thủ TỤc phá SẢn các tổ chức tín dụng theo pháp luật việt nam
stories -> -
stories -> TỜ khai thông tin của ngưỜi khuyết tật phần I cá nhân ngưỜi khuyết tậT
stories -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạO
stories -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ ngh ĩa việt nam ban an toàn giao thông độc lập Tự do Hạnh phúc
stories -> BỘ CÔng thưƠng số: 1057/QĐ-bct cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
stories -> BỘ khoa học và CÔng nghệ
stories -> Đôi lời Ân tình

tải về 1.4 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương