Trương Dưỡng Một Cánh Hoa Dù Hồi Ký Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù



tải về 1.4 Mb.
trang5/17
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích1.4 Mb.
#27293
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

3. Tại Trung Tâm

Huấn Luyện Vạn Kiếp

Sau khi đầy đủ quân số, toàn bộ Tiểu Đoàn 9 được xe chở đến Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp ở tỉnh Bà Rịa. Hằng ngày tôi và Đại có nhiệm vụ đưa binh sĩ Đại đội 90 đến các bãi tập, để các Huấn luyện viên của trung tâm dạy họ về cá nhân chiến đấu, riêng Đại Đội Chỉ Huy của chúng tôi cần phải học thêm về vũ khí nặng như Đại bác 75 ly và Súng cối 81 ly.

Ở Trung tâm nầy, tôi gặp 2 vị khoá đàn anh là trung úy Thọ, khóa 16, và thiếu úy Nguyễn Văn Tỵ, khoá 19. Họ thường dẫn tôi ra phía sau doanh trại nhậu món Rựa Mận ăn với củ riềng, mắm tôm, và lá mơ thật ngon và vui vẻ!

Cuối khoá học, toán súng cối sẽ có nhiệm vụ bắn đạn khói để làm màn che cho tiểu đoàn tấn công mục tiêu trên các ngọn núi ở phía Tây bắc thị xã Bà Rịa. Từ nào tới giờ chỉ học toàn lý thuyết và bắn bập bẹ vài quả đạn súng cối khi còn ở quân trường, mà lúc đó tôi đâu có chú tâm mấy về loại súng nầy. Vì nghĩ mình sau nầy ra trường chỉ xử dụng súng Colt, súng trường, chớ đâu phải là sĩ quan pháo binh mà cần biết về biểu xích, cân bằng bọt nước của súng cối.

Một hôm khoảng 8 giờ tối, sau khi ăn cơm chiều xong, tôi mò qua chỗ vị trí trực súng cối của Trung Tâm. Lúc vừa định bước vào vòng rào thì gặp vị Thiếu uý Huấn Luyện Viên đang ngồi chơi cờ tướng với một Thượng sĩ già. Thấy tôi đến, hai vị hơi ngạc nhiên, vì đã huấn luyện nhiều Tiểu Đoàn Dù, nhưng chưa từng có ai tới nhờ chỉ dạy về Súng cối 81 ly như tôi. Hai người rất vui vẻ dẫn tôi đến chỗ vị trí đặt khẩu súng cối 81 ly. Súng được để ở trong hố tròn khoét sâu dưới đất khoảng một thước, đường kính khoảng 2 thước. Xung quanh được viền bằng những vỏ đạn 105 ly, trông rất mỹ thuật, trên đường viền đó có cắm những tiêu mốc đánh dấu A, B, C, D,...

Tôi được hai người chỉ về xạ biểu, cân bằng bọt nước, và cách đặt tiêu mốc chuẩn bị cho những hỏa tập cận phòng. Họ chỉ thật tận tâm và lần nầy tôi hấp thụ rất nhanh vì bây giờ thực sự cần biết nó để sắp sửa áp dụng vào thực tế trong cuộc thao dượt, và cho chiến trường trong những ngày sắp tới. Sau cùng tôi hỏi đến cách làm màn khói để chuẩn bị cho cuối tuần nầy.

Sáng sớm Thứ Bảy, đơn vị tôi đựợc đưa đến vị trí cách chân núi Bà Rịa khoảng một ngàn thước, tôi cho đặt hai khẩu súng cối 81 ly hướng về đỉnh núi, các đại đội tác chiến đang dàn quân bố trí chờ đợi màn khói sẽ xung phong tấn công mục tiêu, là đỉnh núi cao phía trước mặt. Tôi lấy bản đồ kẻ vị trí điểm đứng của súng và vị trí dưới chân đồi, đo khoảng cách, đọc xạ biểu, và cân bằng bọt nước. Xong rồi hô to:

- Khẩu đội chuẩn bị....bắn.

Sau khi đạn chạm đất gây 2 cụm khói bay lên, tôi thấy hơi dài, nên điều chỉnh tiếp.

- Phương giác 120, về phải 50, gần lại 100....chuẩn bị!

Sau khi hai khẩu đội trưởng điều chỉnh xong, tôi tới kiểm soát, rồi cho lệnh bắn tiếp. Lần nầy thì đúng như ý định, tôi báo cáo là màn khói sẵn sàng.

Đúng 8 giờ các đại đội đều bố trí xong, Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh:

- Các đơn vị chuẩn bị khi có màn khói, lập tức tấn công, nghe rõ trả lời?

- 90 nghe rõ

- 91 nghe 5/5

- 92 nghe rõ

- 93 nghe rõ

- 94 nghe 5 trên 5

Tôi cho các khẩu đội di chuyển nòng súng trái, phải, và bắn hằng loạt đạn khói làm một màn trắng như sương mù bao trùm cả chân núi rồi ngưng bắn, để các đơn vị tác chiến bắt đầu tấn công chiếm mục tiêu.

Sau buổi thao dượt, Thiếu uý Vinh, người chỉ tôi về súng cối, đến khen bắn màn khói rất đẹp và chính xác. Đại úy Phú và Tiểu Đoàn Trưởng tưởng tôi là người xuất thân Võ Bị, có tài đa năng, đa hiệu, thì việc gì cũng biết, nên rất hài lòng. Nhưng họ đâu có ngờ trước đó mấy ngày, tôi mù tịt về bắn súng cối, nói chi đến việc biết cách làm màn khói đẹp mắt như thế nầy đâu!

Lúc ở Bà Rịa, thấy các tân binh nhớ nhà trốn về Sàigòn nhiều quá, Thiếu ta Huệ ra lệnh cạo trọc tất cả binh sĩ tiểu đoàn, rồi cho Quân Cảnh làm trạm kiểm soát. Vì thế không còn nạn trốn trại nữa. Tôi thấy các anh binh nhì như Tám Lọ, Mai Lực, Võ Lục, Châu Non, Năm, Hồi, Nghinh, Phạm văn Chơi,... ưa lấy đũa gõ trên chén cơm, miệng râm râm mấy câu nam mô, trông giống các nhà sư, thật là tếu.

4. Khóa Huấn Luyện

Điều Không Tiền Tuyến

Mùng bốn Tết ta, khoảng tháng hai năm 1966, tôi và Bảo được Tiểu đoàn đề cử đi học khoá Điều Không Tiền Tuyến tại Dục Mỹ, Nha Trang. Trong khi chờ đợi nhập học (vào ngày Mùng 8), tôi và Bảo tới ở nhà Nguyễn văn Táo, bạn cùng khoá, và được má Táo cho ăn món tôm chua thịt luộc truyền thống của người xứ Huế, giống như dưa giá thịt kho của Miền Nam thường ăn trong ba ngày Tết.

Để giải khuây trong dịp đầu năm nầy, Táo đưa Bảo và tôi tới nhà cô em họ tên B. Võ, ở một hiệu sách trên đường Độc Lập, để đánh bài trong gia đình cho qua ba ngày Tết tha hương buồn tẻ nầy.

Bài bạc là thứ đỏ đen, dễ bị tán gia bại sản, do đó tôi chỉ chơi giải khuây trong những ngày tết, với gia đình hoặc bạn bè chòm xóm thôi. Bốn chúng tôi (Táo, B. Võ, Bảo, và tôi) chỉ chơi xì dách 21 điểm và đặt nhỏ vì đâu có vốn nhiều. Vậy mà cũng kéo dài thâu canh, tới sáng mới chịu nghỉ. Lúc đầu tôi gom sòng, một đống tiền ở trước mặt, còn Bảo thì cạn dần, có lẽ nó cứ lo nhìn lén cô em họ của Táo, một hoa khôi của thành phố Nha Trang, nên tới nửa đêm thì sạch túi. Rồi Bảo lấy tiền của tôi để chơi tiếp. Bàn tay của Bảo lúc đó sao mà xui quá, đến hừng sáng thì cô em họ của Táo quơ sạch hết!

Tới ngày đi trình diện trường Pháo Binh, Táo nói má nó cho mỗi đứa mượn hai ngàn để đóng tiền cơm. Khoá nầy chỉ có toàn sĩ quan Nhảy Dù của 8 Tiểu đoàn, gồm 16 người, trong đó có các anh Hồ Lệ, Nhỏ, và Nam Râu là khoá 19 ĐL, đàn anh của tôi. Ngoài ra còn có Ngạc lùn, Cương Củ Đậu (không phải tên thật) là những tay khuấy nước chọc trời trong Sư đoàn Dù.

Giường ở đây có rất nhiều rệp, ai nấy đều thức suốt đêm, không ngủ được. Tôi và Bảo vì đóng tiền ăn, nên không còn đồng xu dính túi định cứ nằm lỳ ở trại chịu trận cho đàn rệp hút máu. Anh Nhỏ, Nam, và Hồ Lệ thấy tội nghiệp, cứ mỗi lần đi đâu ba người thường rủ tụi nầy theo và họ dành trả tiền, đúng là tình anh em Võ Bị vô cùng gắn bó. Đàn anh lúc nào cũng muốn che chở cho đàn em. Bảo và tôi hết sức cảm động trước tấm thạnh tình nầy.

Nhưng Cương và Ngạc (không phải tên thật) uống say thì ít khi tự chủ được bản thân. Có lần nhậu say ở câu lạc bộ Biệt Động Quân (bên cạnh trường pháo binh), Ngạc nổi hứng đòi đánh anh Đại úy Quản lý Câu Lạc Bộ. Anh nầy thấy Ngạc say nên chịu lép nhịn nhục; vì uống quá nhiều, nên Ngạc quậy tùm lum, khiến một anh Trung sĩ BĐQ để tâm trả hận.

Một buổi chiều nọ, khi chúng tôi đang đứng ở đầu chợ Dục Mỹ, chờ đón xe về trại. Bỗng từ ngoài xa, anh Trung sĩ cầm dao phóng tới định đâm anh Ngạc, thật là may mắn, lúc đó tôi nhìn thấy kịp nên nhanh nhẹn chụp cổ tay và tướt được con dao ra. Chỉ có mười sáu sĩ quan Dù mà dám quậy ổ Biệt Động thì thật là gan trời, có lần Cương nhậu say quá, tối hôm đó đang ngủ trên giường, bỗng anh ngồi dậy khóc hu! hu! rồi đập đầu làm bể cánh cửa của tủ đựng áo quần, may là tủ bằng gỗ, nếu bằng sắt thì đầu anh chắc tiêu luôn. Sáng thức dậy, Cương thấy đầu bị băng bó thì hỏi sao vậy, làm ai nấy nghe anh hỏi đều ôm bụng cười. Thì ra cả một đêm phá làng phá xóm, khiến trời gần sập mà anh vẫn không biết gì.

Có lẽ thấy những sĩ quan Dù nầy ba gai quá, nên anh phi công L-19 thay vì bay bình phi để cho khoá sinh quan sát điều chỉnh pháo binh. Nhưng muốn chơi Nhảy Dù, anh điều khiển máy bay lượn lên lượn xuống, làm mặt chúng tôi bị kéo dài ra như mặt ngựa, tối về anh nào cũng ói lia, ói lịa, ói ra tới mật xanh, ói tới ruột lộn xà ngầu, hết còn “Nhảy Dù cố gắng” nổi. Đặc biệt có anh Tài, mặt đã dài, khi phi cơ vút mạnh lên, trông mặt anh lúc đó càng thấy buồn cười hơn. Đã vậy mà mỗi lần máy bay lượn qua lượn lại, anh cứ oé lên la làng la xóm, khiến mấy tay phi công càng làm già thêm.

Khoá nầy dạy về điều chỉnh pháo binh, phần đầu học điều chỉnh dưới đất, phần chót ngồi trên máy bay L-19 để tập xác định tọa độ và điều chỉnh đạn pháo bằng tầm nhìn từ trên cao. Những điều học được rất bổ ích, có thể áp dụng trực tiếp trong các đơn vị Dù khi bị chạm địch.



. Khóa Du Kích Chiến, Mã Lai
Vài tháng sau, trong lúc Tiểu đoàn đang tham dự cuộc hành quân tại thung lũng Iadrang, thuộc quận Lệ Thanh, tỉnh Pleiku; tôi nhận được công điện, gọi về Sàigòn để đo may quần áo và làm thủ tục xuất ngoại đi Mã Lai học khoá 32 Tác Chiến Trong Rừng (Jungle Warfare School).

Lúc ấy vào khoảng tháng 9 năm 1966, Sư Đoàn Dù có bốn sĩ-quan được đề cử đi học: Chuẩn uý Nguyễn Văn Thu của TĐ2ND, Nguyễn văn Khen thuộc TĐ3ND, Nguyễn văn Phương, TĐ8ND, và tôi thuộc TĐ9ND. Khoá nầy có 4 sĩ quan Lực Lượng Đặc Biệt, trong đó có anh Sĩ, sau về TĐ9ND.

Theo những người đi trước kể lại là ở Singapore hàng hóa rất rẻ vì thuế nhẹ, nếu đem về nước bán sẽ có lời nhiều. Sẵn mới cưới vợ, tôi định làm một cú buôn bán nhỏ để có tiền mua sắm cho cặp vợ chồng mới mẻ nầy. Nhưng vào giờ chót, tôi đem tiền trả lại cho ông anh họ bên vợ ở Chợ Lớn!

Khi máy bay loại C123 chở các khoá sinh đến phi trường Singapore, tôi thấy cảnh vật ở đây thật đẹp và vô cùng yên tỉnh. Không giống như Tân Sơn Nhứt, lúc nào cũng có máy bay chiến đấu lên xuống thường xuyên (khi chúng tôi ở Đà Lạt mới về học nhảy dù, tiếng động cơ của các máy bay phản lực, gầm thét vang rền suốt đêm, vì không quen, nên mấy đêm đầu tiên, không ai có thể chợp mắt ngủ yên được!)

Chúng tôi vừa vào trong nhà kiếng của phi trường, cảnh sát Singapore tới chận lại xét kỹ từng người coi có giấy chứng nhận đã chích ngừa đầy đủ chưa. Họ sợ các sĩ quan khoá sinh đem bịnh truyền nhiễm từ nước ngoài vào.

Tiếp đón chúng tôi tại đây là Đại uý Châu, Sĩ quan Liên Lạc kiêm Thông Dịch của nhà trường. Ông đưa khoá sinh bằng xe bus, chạy tới cầu biên giới hai nước rồi dừng lại, mọi người phải xuống xe để nhân viên hải quan kiểm soát hành lý và giấy passport. Họ khám từ cái áo thung đến trái cây, vì một ký trái lê ở Singapore là một đồng tiền Mã, trong khi ở bên kia cầu, thì giá mắc hơn gắp ba lần.

Do đó, trước khi qua cầu biên giới, đại úy Châu có cho xe ghé lại tiệm buôn của anh Tuấn và anh Nghĩa trong khu phố Chinatown ở Singapore. Hai anh chủ tiệm người Việt có đưa cho chúng tôi danh sách ghi giá biểu các món hàng, mà họ biết sĩ quan khoá sinh nào qua đây, cũng thường mua sắm những loại đó. Họ bảo cứ so sánh các tiệm khác, dù mua ở đâu, hai anh cũng sẵn lòng cho gởi đồ trong kho. Ngày về nước, chỉ cần tới đem thẳng từ đó ra phi trường Singapore, như vậy sẽ khỏi bị đóng quan thuế từ phía Mã Lai.

Mỗi chiều thứ sáu chúng tôi thường gọi taxi vô tận phòng ngủ của trường, từng ba người cùng đi một chiếc, thẳng qua Singapore để du ngoạn và mua sắm. Chúng tôi đã thử so sánh giá cả, thấy chỗ anh Tuấn, anh Nghĩa rẻ hơn nên cứ yên chí order thẳng với anh, để còn tranh thủ đi dạo các nơi.

Khóa nầy có đại úy Giàu, tham mưu trưởng ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, anh tuổi gần tứ tuần, mỗi lần tới khách sạn, anh thích gọi thợ đấm bóp người Hoa có nghề rất điêu luyện, họ bấm huyệt và kéo giản xương gân kêu nghe “Rốp rốp”. Hầu hết chúng tôi còn thanh niên, nên không có mỏi lưng, chỉ thích đi khu phố Tàu để mua sắm và ăn món vịt Bắc Kinh và dưa cải xào ruột già, ngon vô cùng. Lúc kêu đồ ăn, vì không rành tiếng Tàu, nên nhiều khi bị đưa lộn món mà vẫn phải ráng ăn. Khi tính tiền thường nói bặp bẹ vài tiếng (sấu lúi, tẩy xu,..!) để họ không tính giá đập đổ như những người ngoại quốc khác!

Quân trường nầy có diện tích rộng gần bằng trường Bộ Binh Thủ Đức, nhưng số học viên chỉ có 2 toán khoảng 80 người, gồm 40 sĩ quan Việt Nam và 40 sĩ quan Đồng minh. Cổng ra vô không có lính gác như ở các căn cứ quân sự của nước mình. Chỉ có một nhân viên an ninh đứng trực phòng vũ khí với cây “Can” cầm nơi tay. Hầu như cảnh sát ở khắp các thành phố của hai nước Mã Lai và Singspore đều không mang súng.

Điều đáng chú ý là ở đây họ rất quan tâm đến đạn dược, mỗi khóa sinh chỉ được nhận 9 viên đạn thật để phòng thân, hầu lúc vô rừng đối phó khi gặp thú dữ. Ai lỡ bị mất một viên đạn thì phải có lý do, cần làm phúc trình báo cáo chi tiết. Nếu không chính đáng có thể bị trục xuất về nước!

Từ những yếu tố trên, mọi người đều cảm thấy quyến luyến cảnh sống yên ổn an vui trong một đất nước thanh bình. Khác với đời sống loạn lạc, lúc nào cũng như bị đe dọa về sinh mạng và không khí nghẹt thở bao trùm toàn chiến tranh đầy chết chóc của quê hương ta.

Khoá sinh được ở từng phòng riêng biệt, có đầy đủ tiện nghi, mỗi buổi sáng người bồi đến từng phòng gõ cửa gọi:

- Tea sir!

Sau khi uống trà sữa nóng xong, trong khi khóa sinh rửa mặt, người bồi phòng lo xếp gọn ba lô và trải giường ngay ngắn, xong anh ta đích thân máng ba lô lên vai cho chúng tôi. Họ lễ phép coi các sĩ quan khoá sinh nầy như khách quý vậy.

Những người bồi phòng rất tử tế một phần vì đã được chỉ thị cách đối xử lịch sự với người ngoại quốc, một phần khác Đại uý Châu có căn dặn khoá sinh cho tiền tip khá để giữ thể diện Quốc gia. Toán khoá sinh Đồng Minh, trong đó đa số là sĩ quan Hoa kỳ, vì bản tính tự nhiên kiểu Mỹ của họ, mặc dù giàu có nhưng keo kiệt nên bị các bồi phòng chê.

Các lớp học thường là ở trong đồn điền cao su, hoặc ở trong rừng, mỗi buổi cơm trưa có xe chở đồ ăn nóng tới; với nước cam, bưởi hoặc nước ngọt, cà phê, đồ tráng miệng thật vô cùng đầy đủ. Trường nầy do Hoàng gia Anh đài thọ, nên bữa ăn chiều rất trang nghiêm, trong phòng ăn hết sức yên lặng, mọi người (khoá sinh và sĩ quan huấn luyện người Anh) đều phải thắt cà vạt. Trên bàn ăn bày đầy dao, muỗng, nĩa,.. đặc biệt ở các bàn người Việt Nam mình đều có các tô nước tương, trong đó có đầy ớt xắt lát đỏ tươi!

Thỉnh thoảng họ tổ chức party đãi khoá sinh, đặc biệt bốn đứa sĩ quan Dù chúng tôi rất được Thiếu tá Trưởng khối Huấn luyện ưa thích vì ông cũng thuộc Binh chủng Nhảy dù của Hoàng Gia Anh. Ông ta cũng đội mũ đỏ như chúng tôi và có tửu lượng rất cao, bốn tên nhập lại mà cũng không hạ nổi, vì không quen uống rượu Tây nên dễ bị say. Rượu Jean, Rum có vị vừa thơm vừa ngọt dễ uống nên bị say ngầm. Khác với rượu đế của ta, nó gắt và nặng cần phải dằn bụng rồi mới dám uống. Đêm đó tôi bị say quá chừng, mà trong bụng thì xẹp lép, không có chút đồ ăn nào hết !

Trường nầy chú trọng dạy về cách chiến đấu trong rừng, thoát hiểm mưu sinh, phản phục kích trên bộ và trên sông rạch, cách xác định điểm đứng, và cách phân biệt trên bản đồ quân sự các loại rừng già (loại rừng số 1), rừng rậm toàn lau sậy, ô rô, và dương xỉ (rừng số 2),...

Lúc thực tập cần phải chú ý để tâm, chớ không được học hời hợt, cẩu thả. Khi hai bên đánh tập với nhau, dù là bằng đạn mã tử, nhưng muốn bắn thì phải nhắm mục tiêu cho kỹ. Nếu ria bắn bậy bạ thì phải tập lại cho đúng mới thôi. Có lần tôi được đề cử làm chỉ huy cả toán, để tiến đánh một mục tiêu đã chỉ định. Do không chuẩn bị sẵn, phần vì cấp bách và phần vì lơ đễnh, nên khi đứng trước toán để ban lệnh hành quân; tôi nói thiếu sót phần tình hình địch và bạn. May nhờ Đại uý Châu thông dịch thêm bớt nên được thiếu tá huấn luyện viên khen đáo để, làm trong bụng tôi mắc cỡ gần chết!

Không phải tự nhiên tôi được ông thiếu-tá Nhảy Dù người Anh, chỉ định làm người chỉ huy cho buổi thao dượt cuối cùng của khoá 32 nầy đâu. Nguyên do tuần rồi, toán tôi được về nhất trong cuộc đi địa hình tìm cọc.

Cả lớp 40 người chia ra thành 10 toán nhỏ, được xe chở đến các địa điểm khác nhau trong khu rừng rậm. Từ đó các toán phát xuất đi địa hình tìm cọc và trong hai ngày phải tập trung đến một địa điểm gần trường. Toán tôi có anh Lương Huỳnh Hương, khoá 16 Đà Lạt, một Thiếu uý Bộ binh, và một Chuẩn uý Địa phương quân. Chúng tôi khởi hành di chuyển trong khu rừng già, loại rừng số một, đi tới trưa thì dừng lại lấy lương khô ra ăn vội, rồi tiếp tục lên đường, vì phía trước là rừng số 2, loại rừng toàn cây ô rô, dương xỉ, rất khó đi. Lúc đầu chúng tôi thay phiên nhau lấy dao rừng, chặt cây dọn đường làm lối đi, nhưng rị mọ hơn một tiếng đồng hồ mà chỉ được 100 thước! Như vậy 16 cây số còn lại thì biết bao giờ mới tới nơi? Anh Hương, đại niên trưởng của tôi, đề nghị mỗi người thay phiên nằm xuống, lấy thân đè lên cây ô rô làm cầu cho người kế tiếp bước qua. Mọi người làm theo chừng một giờ mà chỉ được 500 thước, ai nấy đều vất vả và mỏi mệt vô cùng. Trung uý Hương, mọi khi rất bình tỉnh và bản tính rất hiền lành (mỗi cuối tuần, tôi thường cùng đi với anh qua Singapore để du ngoạn và mua sắm), nhưng hôm nay anh gặp phải đoạn đường đầy chướng ngại vật, và còn khoảng 4, 5 tiếng nữa là trời sụp tối rồi mà chưa đi tới đâu, nên rất bồn chồn nóng ruột. Vì anh là con chim đầu đàn, có trách nhiệm về tinh thần trong việc hướng dẫn chúng tôi ra khỏi chướng ngại vật nầy!

Đi được một đoạn nữa, thấy có một con đường đất đỏ băng ngang qua hướng đi. Tôi đề nghị đi theo con đường nầy, đến khi hết rừng dương xỉ thì sẽ đổi phương giác ngược lại, rồi đi tiếp theo hướng đã định để tìm các cột tiêu mốc do nhà trường chỉ định các toạ độ trên bản đồ. Giống như trên hướng đi mà gặp hồ nước (hoặc sông rạch) trước mặt thì thay vì phải lội băng ngang, ta chỉ cần đi vòng theo ven bờ (hoặc kiếm cầu) để qua tới bên kia rồi tiếp tục bẻ góc, đi theo hướng cũ.

Mọi người đều đồng ý, vừa ngầm đếm bước đôi vừa thoải mái đi phom phom theo đường xe bò. Đi một khoảng thì đường mòn uốn cong về hướng Đông, đúng y như hướng chúng tôi dự định, ai nấy đều hết sức mừng rỡ, tiếp tục nhanh chân tiến bước. Bỗng anh Chuẩn uý Địa Phương Quân kêu rú lên, chúng tôi quay lại nhìn thì thấy mặt mày hắn xanh lét, tay chân run rẩy, miệng mếu máo, môi run lập bập, như muốn nói gì nhưng thốt không ra tiếng. Tôi hỏi:

- Mầy làm gì vậy Tân ?

- Ông ....thầy!!!

- Cái gì ? Ông thầy hả?

Tân không trả lời, bước nhanh vượt qua trước, mà mặt cứ lấm lét ngó về phía sau. Anh người nhỏ con, nãy giờ cứ than mệt, đi lẹt đẹt phía sau, nhưng bây giờ lại cố chen lên phía trước. Tôi hỏi gì, Tân cứ lắc đầu, không nói năng chi hết.

Nhờ theo đường mòn, nên đi khoảng hai tiếng thì đã vượt qua khỏi rừng cây dương xỉ. Chúng tôi kiểm soát lại tọa độ điểm đứng, rồi tiếp tục đi nhanh tới phía trước; một chập sau, thì ra khỏi đám rừng, phía trước mặt là một bãi đất trống mà người ta đã ủi để khai hoang trồng trọt. Bây giờ Tân thấy đã đi rất xa chỗ hồi nãy, nên mới dám nói cho chúng tôi biết là anh đã gặp cọp. Thì ra anh không dám kêu thẳng tên cọp mà gọi là “Ông thầy”! (Cọp ở Mã Lai đâu có biết tiếng Việt?)

Nhà trường đã phát cho mỗi người 9 viên đạn thật, mục đích để đề phòng thú dữ như trường hợp nầy. Tối đó chúng tôi lượm cây khô, đốt lửa suốt đêm để phòng muỗi và cọp. Trời hừng sáng, trong khi ai nấy đang chìm đắm trong giấc ngủ say sưa vì suốt hôm qua quá mỏi mệt, bỗng tiếng động cơ nổ làm mọi người đều giật mình thức giấc. Nhìn từ hướng Bắc, có một xe “Ben” đang chạy về phía chúng tôi. Anh Hương gọi:

- Các anh mau ra chận xe lại để đi ké một đoạn.

Con đường xe sắp chạy tới là đúng hướng Đông, vì chiều hôm qua, trước lúc đi ngủ, chúng tôi đã chấm tọa độ sẵn sàng hết rồi. Mọi người đều lẹ làng cuốn gọn ba-lô chạy nhanh ra đón. Khi xe chạy được một đoạn chừng 10 cây số thì chúng tôi nói tài xế ngừng lại, vì nếu tiếp tục đi thêm vài cây số nữa thì sẽ đến đúng điểm tập trung, như vậy thì bị lộ tẩy, có thể huấn luyện viên sẽ nhìn thấy!

Chúng tôi xuống xe, lấy bản đồ định phương giác, rồi tiếp tục đi về điểm tập trung, đó là một cơ sở đồn điền cao su. Đi chừng hai tiếng đồng hồ thì bắt đầu đặt chân vô đồn điền.

Từ xa tôi thấy mấy ông huấn luyện viên, đang đứng cạnh một căn lều vải lớn. Họ đang chỉ về hướng chúng tôi; khi tới nơi, họ mừng rỡ và khen ngợi rối rít, vì toán nầy tới sớm nhất!

Thật ra nếu không nhờ có đường mòn và xe Ben thì còn kẹt trong rừng, chưa biết chừng nào mới đến đây nữa? Họ tưởng thưởng bằng cách cho xe chở thẳng về trường và chúng tôi được phép đi phố lần chót vào ngay chiều Thứ Năm đó. Vì cuối tuần sau, chúng tôi bắt đầu lên máy bay về nước, từ phi trường Singapore !

Ngày về nước, tôi có mua vài cái đồng hồ Seiko để cho bà con, và đặc biệt có mấy cây thuốc thơm để chia cho binh sĩ thuộc cấp, vì tôi không biết hút thuốc. Không hiểu trong người tôi có máu nhà binh hay sao, mà khi đi xa nhà, mặc dù mới cưới vợ, nhưng trong đầu tôi lúc nào cũng chia đều:

“Nửa phần nhớ lính, nửa phần nhớ em”.

Nàng dâu mới xinh xinh của tôi, thì lẽ đương nhiên là nhớ nhiều, nhưng các chú lính trẻ như Mai Lực, Tám Lọ, Thạch Sên, Dương Phen,...lúc nào cũng chí chóe, líu lo trông họ ngây thơ vô tội, thật là dễ thương.

Dương Phen thì cao ráo, có thân hình lực lưỡng, là xạ thủ súng cối tài giỏi, Châu Non thì khi di chuyển trước ngực mang ba lô, sau lưng mang bàn tiếp hậu súng cối 81 ly, nhưng miệng cứ lẩm bẩm cười chọc:

- Sắc Muội Nực...bol (Tiếng Khmer là: Thiếu úy nhớ vợ)!

Còn Thạch Sên là người có sức mạnh vô cùng, anh có thể một mình khiên toàn bộ khẩu súng cối, nặng gần một tạ, mà đi phom phom trong rừng núi gập gềnh, mỗi ngày khi dừng quân, ba người đều đào hố súng cối rất sâu và rộng, Sên là người có bùa Miên cao tay nhất Tiểu đoàn, có lần anh trung sĩ Thạch Sanh bị bùa hành, Sanh tự nhiên như người say rượu, chạy lên Ban chỉ huy đại đội của Trung úy Ngô Tùng Châu chửi bới la hét bậy bạ, Thạch Sên tới trấn áp, rồi ném anh ta xuống vũng nước sình, để đại đội trưởng đả nư, khỏi cần phạt tù nữa.

Tiểu đoàn có rất nhiều lính người Việt gốc Miên, họ thường rất tin bùa ngãi. Tôi thấy Thượng Sĩ Nhứt Sơn Dum, đêm nào cũng đốt nhang thờ cúng, ông ta sau nầy qua Nam Vang đeo quân hàm đại úy của xứ chùa Tháp.

Nghe nói bùa của họ rất linh nghiệm, nhưng cũng phải kiêng cữ rất nhiều, không được để bùa gần chỗ dơ, không được chui qua sào phơi áo quần, không được lấy vợ người ta, không được để đàn bà rờ đầu,.... Điều tôi được chính mắt thấy, tai nghe về sự linh nghiệm của bùa ngải nầy rất nhiều:

Châu Non sau nầy bị xe đụng chết ở Ngã Tư Bảy Hiền, nghe nói trước đó anh bị tai tiếng bê bối trong trại gia binh. Trung sĩ Sơn Dương, thuộc Đại đội 91, đã đi lính lâu năm chưa từng bị thương. Một hôm, trong cuộc hành quân ở Phù Cát thuộc tỉnh Bình Định, anh đi vệ sinh nên cổi bùa máng ở một nhánh cây. Khi anh (không còn bùa hộ mạng trong mình) vừa bước tới gò đất chừng 10 thước thì bị đạp phải mìn, nổ chết không kịp trối. Tôi đã đi hành quân, có năm bị thương tới ba lần, còn Đại tá Đặng, người Việt lai Miên, ở cạnh nhà, khi đụng trận, hai tay ông cứ quơ khăn bùa phất phất, nhào lên phía trước, mà suốt 20 năm xông pha, ông chưa từng bị thương tích lần nào. Dương Phanh có cho tôi cái nanh heo rừng, nhưng về nhà cứ bị bà xã rờ đầu hoài, nên phải đem trả lại, sợ phạm bùa giống như Thạch Sanh, thì nguy hiểm vô cùng



Chương 3

Kể Chuyện Hành Quân

hay

(Buồn Vui Đời Lính)
Ba mươi năm qua,

bao đổi thay,

bao thống khổ chồng chất;

giờ đây trên đất khách tha hương

kẻ còn người mất !

Ngồi ôn cố tri tân

nhớ đến bạn bè

và chiến hữu thân thương,

nhớ lại những trận chiến

khi còn ở các đơn vị Nhảy Dù,

tưởng chừng như mới hôm qua”!!!

1. Hành Quân Tân Quí
Cuộc hành quân đầu tiên của Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù tân lập nầy là tổ chức đóng đồn tuần tiểu lục soát nhằm ngăn chận địch xâm nhập Thủ Đô từ chiến khu Lê minh Xuân. Tiểu đoàn phân phối các đại đội bố trí xung quanh ấp Tân Quí thuộc về hướng Tây của phi trường Tân Sơn Nhứt.

Sau khi làm đám cưới xong, tôi đưa Nhi lên Sàigòn. Đến tạm trú tại nhà Bác Sáu, má của Lê huỳnh Đức, bạn học Petrus Ký, thuộc cư xá sở chăn nuôi cạnh Ngã Tư Bảy Hiền. Bác Sáu giới thiệu cho vợ chồng tôi ở trọ tại Tân Việt chung với Bà Bảy, má của chú Hai, nhân viên làm nghề mộc tại sở thú y.

Căn nhà của Chú Hai khá rộng rãi, chỉ có bà Bảy và vợ chồng tôi ở. Giá tiền trọ là $800/tháng. Bà Bảy là người rất tử tế, khi nào đi hành quân xa, vợ tôi về quê, bà chỉ lấy giá tượng trưng mỗi tháng có $600 thôi (lúc đó lương tháng của tôi, kể cả tiền không vụ là khoản $30.000).

Vừa có chỗ ở chưa được nửa tháng, tôi đã phải theo tiểu đoàn ra đóng quân ở Tân Quí!

Làm thân trai thời loạn, không biết thế nào là tuần trăng mật!! “..Cưới nhau xong rồi đi ...”. Để những ngày hành quân xa em, chỉ còn biết hết nhớ nhung rồi nhung nhớ thôi !

Hành quân tại Tân Quí, thật ra chỉ để cho tiểu đoàn tân lập nầy làm quen với chiến trận, chứ chưa phải là cuộc thử lửa thực sự. Lúc đó Đại uý Phú đi TĐ8ND và Thiếu úy Đại thuyên chuyển qua TĐ6ND (Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù), Trung úy Ngô tùng Châu được bổ sung về coi Đại đội Chỉ huy. Tôi kiêm nhiệm luôn trung đội đại bác, tức Liên đội trưởng Vũ Khí Nặng, Trung sĩ Tình là Khẩu đội trưởng súng cối, Trung sĩ Nghị làm Khẩu đội trưởng đại bác 75 ly Không Giật.

Bắt chước Thiếu uý Vinh ở Trung tâm Vạn kiếp, tôi làm các tiêu mốc, hỏa tập cận phòng và chỉ cho trung sĩ Tình, Thạch Sên, Dương Phen, và Châu Non cách đọc bản xạ biểu, cân bằng bọt nước của súng cối, và cách coi tiêu mốc để xác định các hoả tập. Lúc rảnh rang tôi chỉ binh sĩ coi địa bàn và ôn lại các cách bắn súng cối, đại bác 75 ly, và đại liên.

Hôm đó tôi lại chỗ đóng quân của Thuận văn Chàng, thấy anh đang dạy khinh binh Quảng và Cứ coi bản đồ và địa bàn. Chàng là người gốc Chàm, lúc ở quân trường có điểm năm thứ nhứt rất cao nên được đề cử làm SV Cán bộ Tiểu Đoàn. Anh rất hiền lành nói chuyện hòa nhã, bạn bè ai cũng thương. Nhưng thật vắn số, chỉ vài tháng sau, anh bị hy sinh tại mặt trận Đồng Xuyên Mỹ Xá thuộc tỉnh Thừa Thiên, Vùng I Chiến Thuật!

Ghé qua trung đội của Lê Phát Lộc, thấy anh nấu chè đậu xanh đãi cả trung đội, nhìn mọi người ăn uống vui vẻ với nhau, tôi thấy tinh thần huynh đệ chi binh của họ thật là khắng khít.

Một hôm, khoảng hai giờ khuya, bên hướng ấp Ông Cha, nằm giáp ranh ấp Tân Quí, có nhiều tiếng súng nổ, tin tức cho biết, địch từ chiến khu Lê Minh Xuân, đang định tấn công khuấy phá nhà thờ. Họ gọi nhờ đơn vị chúng tôi để xin yểm trợ, tiểu đoàn bảo bắn súng cối 81 ly về hướng Tây của nhà thờ, tôi cho bắn thử vài quả trước coi họ phản ứng ra sao? Thật sự tôi không tin vào tài bắn súng cối của mình và của khẩu đội mấy, vì đây là lần đầu tiên bắn đạn nổ.

May quá! Nhà thờ bảo như vậy rất hiệu quả, và xin bắn tiếp. Tôi cho tác xạ thêm 50 quả đạn nổ, rồi bắn kéo dài xa về hướng Tây để truy sát địch. Sau cùng bên Ấp Ông Cha xin soi sáng xung quanh nhà thờ để quan sát coi mấy anh du kích có còn muốn xâm phạm nhà thờ nữa không? Sáng sớm hôm sau, tiểu đoàn cho một đại đội bung ra lục soát, thấy có nhiều dấu vết địch để rơi rớt lại như nón cối và vỏ đạn loại súng AK-47 và súng trường CKC.


Каталог: stories
stories -> BÀi thuyết trình cách xáC ĐỊnh và chế ĐỘ pháp lý CỦa các vùng biển theo công ưỚc của liên hiệp quốc về luật biển năM 19821
stories -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạo trưỜng đẠi học luật tp. HỒ chí minh dưƠng kim thế nguyên thủ TỤc phá SẢn các tổ chức tín dụng theo pháp luật việt nam
stories -> -
stories -> TỜ khai thông tin của ngưỜi khuyết tật phần I cá nhân ngưỜi khuyết tậT
stories -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạO
stories -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ ngh ĩa việt nam ban an toàn giao thông độc lập Tự do Hạnh phúc
stories -> BỘ CÔng thưƠng số: 1057/QĐ-bct cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
stories -> BỘ khoa học và CÔng nghệ
stories -> Đôi lời Ân tình

tải về 1.4 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương