Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học


Triết lý dân chủ của Jean Jacques Rousseau (1712 – 1778)



tải về 231.4 Kb.
trang2/4
Chuyển đổi dữ liệu30.07.2016
Kích231.4 Kb.
#10726
1   2   3   4

7. Triết lý dân chủ của Jean Jacques Rousseau (1712 – 1778), sinh tại Geneva - Pháp là một nhà triết học thuộc trào lưu Khai sáng có ảnh hưởng lớn tới Cách mạng Pháp 1789, sự phát triển của lý thuyết xã hội, và sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc. Rousseau cũng có nhiều đóng góp cho âm nhạc cả trên phương diện lý luận và sáng tác. Ông cũng là người sáng tạo nên cách viết tiểu sử kiểu hiện đại với trọng tâm được đặt vào tính chủ thể. Ông cũng viết tiểu thuyết và đóng góp

Ông cũng là một trong những tác giả đầu tiên phê phán thể chế tư hữu và được xem là bậc tiền bối của chủ nghĩa xã hội hiện đại và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Ông cũng là người sớm đặt câu hỏi liệu ý chí nguyện vọng của đa số liệu có phải lúc nào cũng đúng không? và mục tiêu của chính quyền theo ông là phải đảm bảo tự do, bình đẳng và công bằng cho tất cả. So với các nhà khai sáng đương thời như Voltaire và Montesquieu, tư tưởng chính trị của Rousseau cấp tiến hơn.

Quan niệm về giáo dục của Rousseau mà trong đó đối tượng của giáo dục chính là những đứa trẻ mạnh khỏe cả về thể chất và tinh thần, ông không xem trọng sự cần thiết của giáo dục qua sách vở, và nhấn mạnh sự cần thiết phải giáo dục cảm xúc cho trẻ em trước khi giáo dục lý tính đã là tiền đề cho lý thuyết giáo dục hiện đại.

8. Triết lý pháp quyền của Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1730 - 1831)

Hegel là một nhà triết học người Đức, cùng với Johann Gottlieb Fichte và Friedrich Wilhelm Joseph Schelling, Hegel được coi là người sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm Đức cho rằng, tiến bộ xã hội chính là sự vận động tiến về phía trước của cái kém hoàn thiện đến cái hoàn thiện hơn. Theo ông, cái chưa hoàn thiện mang trong mình mặt đối lập của nó - cái hoàn thiện. Cái hoàn thiện tồn tại ngay trong tiềm năng, trong tính xu hướng của cái chưa hoàn thiện. Mặc dù đề cao tính đặc thù của mỗi thời đại, song Hegel vẫn khẳng định rằng, mỗi thời đại là một giai đoạn tất yếu trong tiến trình phát triển chung của nhân loại. Tuy vậy, ông lại quá tư biện đến mức coi tiến bộ xã hội chính là quá trình vận động của ý niệm. Đây là điểm mà G.Hegel thường bị phê phán là không đi xa hơn các lý thuyết thần học trung cổ về sự phát triển xã hội. G. Hegel cũng tự mâu thuẫn với chính mình trong khi cho rằng sự phát triển, theo logic nội tại của nó là vô hạn thì ông lại biện minh rằng sự tồn tại của nhà nước quân chủ lập hiến Phổ là đỉnh cao của sự phát triển lịch sử.



9. M.Weber, 1864-1920)

Tôn giáo và đạo đức là nhân tố truyền thống đối với sự tiến bộ xã hội. Trong quan niệm về tiến bộ xã hội của M.Weber có hai điều đáng chú ý. Một là, ông đã coi lý tính như là nhân tố quy định đối với văn hoá châu âu hiện đại, Hai là, Weber đặc biệt nhấn mạnh nhân tố đạo đức và nhân tố tôn giáo trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. - đó chính là nguồn gốc của những đức tính tốt đẹp của con người;



10. Chủ nghĩa cộng sản của Karl Marx

Karl Heinrich Marx (1818 - 1883) nhà kinh tế chính trị, nhà lãnh đạo cách mạng của Hiệp hội Người lao động Quốc tế. Những hoạt động cách mạng và triết học của ông diễn ra trong thập niên 1840 - giữa lúc chủ nghĩa tư bản đang trong thời kỳ phát triển và giai cấp vô sản công nghiệp ra đời và có những hoạt động cách mạng chống chế độ tư bản. Marx được nhắc đến với nhiều chủ đề khác nhau, nhưng ông nổi tiếng nhất với những phân tích lịch sử dựa trên thuật ngữ đấu tranh giai cấp, được tổng kết lại trong những lời mở đầu cho Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (Das Manifest der Kommunistischen Partei): “Lịch sử của tất cả các xã hội từ trước đến nay là lịch sử của đấu tranh giai cấp.” Ông cũng là người sáng lập Chủ nghĩa Xã hội Khoa học cùng Friedrich Engels. Tư tưởng của ông là học thuyết kế thừa các hệ tư tưởng được thành lập trong thế kỷ XIX, bao gồm triết học Đức, kinh tế học chính trị Anh hay chủ nghĩa xã hội học Pháp.

Theo Marx tiến bộ xã hội mặc dù là xu thế khách quan, song nó lại là một quá trình đầy mâu thuẫn, được thực hiện trong mâu thuẫn và thông qua mâu thuẫn; và vì vậy, trong nhận thức của con người nó lại càng là qúa trình mâu thuẫn. Mác viết: “Ỏ trong thời đại chúng ta, mọi sự vật đều tựa hồ như bao hàm mặt đối lập của nó. Chúng ta thấy rằng những máy móc có một sức mạnh kỳ diệu trong việc giảm bớt lao động của con người và làm cho lao động của con người có kết quả hơn, thì lại đem nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho con người. Những nguồn của cải mới từ xưa tới nay chưa ai biết, dường như có một sức mạnh thần kỳ nào đó, lại đang biến thành nguồn gốc của sự nghèo khổ. Những thắng lợi của kỹ thuật dường như đã được mua bằng cái giá của sự suy đồi về mặt tinh thần. Dường như loài người càng chinh phục được thiên nhiên nhiều hơn, thì con người lại càng trở thành nô lệ của những người khác hoặc nô lệ cho sự đê tiện của chính mình. Dường như ngay cả đến ánh sáng thuần khiết của khoa học cũng không thể chiếu rọi bằng cách nào khác ngoài cách chiếu rọi vào cái bối cảnh tối tăm của sự ngu dốt. Tất cả những phát minh của chúng ta và tất cả sự tiến bộ của chúng ta tựa hồ như đang dẫn tới chỗ là những lực lượng vật chất thì được ban cho một đời sống tinh thần, còn đời sống của con người vốn đã bị tước mất cái mặt tinh thần rồi thì nay lại bị hạ thấp xuống trình độ những lực lượng vật chất đơn thuần. Mâu thuẫn đối kháng đó giữa một bên là nền công nghiệp hiện đại và khoa học với một bên cảnh bần cùng hiện nay và sự suy đồi, mâu thuẫn đối kháng đó giữa lực lượng sản xuất và quan hệ xã hội trong thời đại chúng ta là một sự thật rõ ràng, không tránh khỏi và không thể chối cãi được ". 2

Trong thời đại Marx sống, có lẽ chủ nghĩa tư bản đã đạt thắng lợi tuyệt đối. Tuy nhiên, Karl Marx và người bạn thân là Friedrich Engels đã thực hiện “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” vào năm 1848, nói cách khác là hai ông đã lên án những bất công trong chế độ tư bản. Với Tuyên ngôn này, tư tưởng XHCN bắt dầu hình thành. Nhà triết học người Đức này cho rằng cách hiểu của Hegel về sự phát triển của lịch sử loài người là đúng. Tuy nhiên, mặt khác ông cho rằng vật chất mới đóng vai trò chính yếu trong quá trình này, chứ không phải là tinh thần. Người ta nói tư tưởng của Marx là chủ nghĩa duy vật biện chứng3, lịch sử, hay khoa học. Ông cũng cho rằng, con người có thể quyết định vật chất qua việc sản xuất. Cùng với F. Engels, Marx đã xây dựng nên học thuyết vĩ đại của xã hội loài người, học thuyết khoa học về chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa cộng sản mà Karl Marx chủ trương xây dựng chính là xã hội mà trong đó, mọi người sẽ có cuộc sống tự do, hạnh phúc, con người được giải phóng một cách triệt để và được phát triển toàn diện.

C. TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI PHẬT GIÁO

Triết học Phật giáo; một trong những đặc điểm nổi bật của triết Phật là lấy đối tượng con người và xã hội làm trung tâm cho sự nghiên cứu, có xu hướng chung là giải quyết các vấn đề thực tiễn nhằm cải thiện đời sống nhân sinh ngày một tốt đẹp hơn. Môn học triển khai giáo lý của đức Phật qua ‘hình thái ý thức xã hội’ được hình thành và diễn tiến theo quá trình sinh tồn của nhân loại, là đối tượng nhận thức của triết học Phật giáo nghiên cứu và lý luận nhằm phục vụ cho lợi ích nhân sinh.

Chúng ta cũng không nên bỏ quá nhiều công sức và thì giờ để tìm kiếm vô tận một hệ thống chính trị toàn hảo để giúp con người được hoàn toàn tự do. Tự do tuyệt đối không thể nào có được trong các định chế chính trị, mà chỉ có được trong tâm thức khi nó được giải thoát. Nghĩa là cần phải nhìn vào nội tâm của chính mình, nỗ lực giải phóng nó ra khỏi các gông xiềng của vô minh, hận thù và tham dục. Tự do trong ý nghĩa đích thực tuyệt đối chỉ có được khi nào chúng ta dùng Chính Pháp để phát triển tâm ý qua lời nói và hành động hướng thiện, và để huân tập tâm ý, để phát triển tiềm năng tâm linh, đạt đến cứu cánh tuyệt đối của giác ngộ.

Đức Phật là bậc Chính Đẳng Chính Giác, vượt lên trên các chuyện lo âu của thế gian. Ngài không bao giờ dùng các thế lực chính trị để truyền đạo, và Ngài cũng không bao giờ cho phép giáo pháp của Ngài bị lợi dụng cho các ý đồ chính trị. các lời dạy của Đức Phật có những tương quan với các bố cục chính trị ngày nay.

1. Nguồn gốc của quốc gia:

Theo quan điểm Phật giáo, nguồn gốc của loài người và nguồn gốc hình thành Quốc gia đều xuất phát từ lòng dục. “Do lòng dục sinh khởi quá mạnh mà có quốc gia. Quốc gia hay chính phủ là quyền thống trị được quy định bởi kết quả của dân ước, trong đó mỗi người dân đều muốn được bảo vệ quyền lợi và tài sản tư hữu của mình”. (Kinh Thế kỷ, Phẩm Thế bản duyên, (Trường A Hàm, quyển 22) Như vậy chúng ta có thể bàn đến phương pháp lấy dục làm trung tâm mà hạn chế tư dục để trù mưu cuộc chung sống, chung hưởng trong một quốc gia.

2. Chính trị quan Phật giáo Đạo phật vốn không có chủ trương làm chính trị, chính trị và đạo Phật hai lối đi khác nhau. Đạo Phật chủ trương giải quyết vấn đề khổ đau, hướng đến giải thoát sanh tử luân hồi của kiếp nhân sinh, còn chính trị là những hoạt động gìn, giữ, sử dụng quyền lực của một đảng phái hay một đất nước, nghiêng về đấu tranh và dùng các thủ đoạn. Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, phẩm Kết Cấm, quyển 42, có một quy định Tỳ kheo: “Không nên thân cận quốc vương, nếu không có thể xảy ra 10 vấn đề bất lợi cho Tỳ- kheo và phương hại đến giáo đoàn”, Kinh Trung A-hàm, quyển 49, kinh Đại Không, quy định rằng, “Sa-môn không nên bàn luận việc quốc vương, và đấu tranh…” Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, quyển 43, phẩm Thiện Ác, Phật bảo các Tỳ-kheo rằng: “Các vị không nên khen hay chê việc trị quốc của vua, và không nên bàn luận thắng liệt của vua.”

C. CÁC QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA PHẬT GIÁO

Chính trị là một thuật ngữ không được xử dụng trong các kinh điển Phật giáo nghĩa là


  1. Đức Phật và các mối liên quan đến vấn đề chính trị 1

Đức Phật xuất thân từ giai cấp vương tướng Xã hội Ấn Độ thời đó có 4 giai cấp: Giáo sĩ (Bà La Môn), Vương tướng (Sát Đế Lợi), thương nhân (Vệ Xá), và Nông dân (Thủ Đà La). Đức Phật tất nhiên đã có nhiều liên hệ với các vị quốc vương, hoàng tử, hoàng thân quốc thích. Có thể nêu lên vài mối lien hệ điển hình như

a. Bimbisara (Bình Sa Vương): Trị vì nước Ma Kiệt Đà, là vị thí chủ đầu tiên trong hàng vua chúa trị vì thời đức Phật. Ông đã cúng dường khu vường Trúc Lâm cho đức Phật và giáo đoàn. Sau khi nhà vua đã sống đời gương mẫu của một vị vua và nghiêm trì 8 giới Uposatha. Vì còn dư báo nên ông bị con là vua Ajasatthu (A Xà Thế) giết chết. Và sau vua A Xà Thế được gặp đức Phật trở thành một thiện tín lỗi lạc và tạo nhiều công đức trong cuộc kết tập kinh điển lần đầu tiên.

b. Vua Pasenadi Kosada (Ba Tư Nặc): Trị vì vương quốc Kosala, đóng đô tại Savatthi (Xá Vệ). Ông cùng tuổi với đưc Phật, ông đã quy y đức Phật trong những năm đầu tiên sau khi đức Phật hoằng dương giáo pháp, trong các kinh tạng Nikaya phần lớn ghi lại lời đức Phật dạy vua Kosala. Chính vấn đề an cư kiết hạ của chư Tăng do nhà vua thỉnh thị đức Phật và được đức Phật đồng ý.

c. Vua Suddhodana (Tịnh Phạn): trị vì quốc vương Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ). Ngài chính là cha của Thái tử Tất Đạt Đa, và được Phật giáo hóa vua cha "Hãy trang nghiêm hành chánh hạnh. Không nên dể duôi phóng dật. Người trang nghiêm giữ chánh hạnh ấy sẽ sống an vui hạnh phúc, đời này và đời sau". Khi nghe xong vua đắc các quả vị Tu Đà Hườn, sau đó là Tư Đà hàm (Sakadagami, Nhứt Lai). Khi Đức Phật giảng cho vua đoạn kinh Dhammapala Jataka (Trì Pháp Túc Sanh Truyện), thuật lại rằng trong một tiền kiếp có lần vua từ chối không chịu tin rằng con của mình chết, khi có người chỉ đống xương, bảo là xương của người con, nhưng vua không tin. Kiếp này, cũng có lần tiếng đồn Sĩ Đạt Đa đã chết khi tu khổ hạnh trong rừng già Ngài cũng không tin, khi nghe xong thời Pháp ấ, vua đắc Quả A Na Hàm (Anagami,Bất Lai), A La Lán,

d. Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La): thường được gọi là Rahulamata, hay Bimba, hay Bhaddakaccana, là con của vua Suppabuddha, trị vì dân tộc Koliya, và Hoàng hậu Pamita, em gái Vua Suddhodana. Nàng là vợ thái tử Tất Đạt Đa và sanh ra La hầu La nhưng nàng đã giữ phạm hạnh thanh tịnh kể từ khi Đức Phật xuất gia. (Chính Vua Tịnh Phạn đã thưa với Đức Phật rằng, khi công chúa nghe tin Ngài đắp y hoại sắc thì nàng cũng đắp y hoại sắc, khi được biết Ngài chỉ độ thực một lần trong ngày, nàng cũng làm như vậy; khi được biết Ngài không nằm giường cao, nàng cũng nằm dưới thấp; khi được biết Ngài từ bỏ không dùng tràng hoa và dầu thơm, nàng cũng từ bỏ những vật ấy; khi các hoàng thân quý tộc cậy người đến mai mối, nàng không màng nhìn đến người nào. Công chúa quả thật tiết hạnh vẹn toàn).

Tại Kinh Thành Kapilavatthu, Đức Phật đã thuật câu chuyện Candakinnara Jataka, nhắc lại mối liên hệ giữa Ngài và công chúa trong những kiếp quá khứ: "Không phải chỉ trong kiếp sống cuối cùng của Như Lai mà trong tiền kiếp, nàng đã bảo vệ, kỉnh mộ và trung thành với Như Lai."

Về sau, khi Đức vua Suddhodana băng hà, Hoàng Hậu Pajapati Gotami xuất gia Tỳ khưu ni (Bhikkhuni), Công Chúa Yasodhara cũng xuất gia và đắc Quả A La Hán. Trong hàng tín nữ, bà Yasodhara đứng đầu những vị đã chứng đắc đại thần thông (Maha Abhinna) và nhập diệt lúc bảy mươi tám tuổi.

e. Hoàng Tử Nanda, con của Đức Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) và Hoàng Hậu Pajapati Gotami. Đức Phật đã giáo hóa Nanda khi Nanda đang chuẩn bị cử hành ba đại lễ quan trọng: thành hôn, phong tước và về cung điện mới.

f.Ananda là con của ông Hoàng Amitodana, một người em của Vua Suddhodana (Tịnh Phạn). Như vậy Ananda là em chú bác của Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta). Sự ra đời của Ngài là một đại hạnh cho hoàng tộc, vì lẽ đó, tên Ngài là Ananda. Hai năm sau khi Đức Phật Thành Đạo, Hoàng Thân Ananda xuất gia cùng với năm vị quý phái khác của dòng Sakya (Thích Ca) là Anuruddha, Bhaddiya, Kimbila và Devadatta. Không bao lâu sau khi nghe một thời Pháp của Đại Đức Punna Mantaniputta, Ngài đắc Quả Tu Đà Hườn (Sotapatti, Nhập Lưu), tầng đầu tiên 6 Bản chú giải bộ Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, ghi: "Một vị Phật chỉ có bốn đệ tử đắc đại thần thông (Maha Abhinna). Những đệ tử khác chỉ có thể nhớ được đến 100.000 Kalpa (châu kỳ), không thể hơn. Nhưng vị đắc đại thần thông có thể nhớ lại vô số kỷ nguyên. Trong thời Đức Phật chỉ có bốn vị đắc đại thần thông là hai vị đại đệ tử, vị Trưởng lão Bakkula và Đức Bhadda Kaccana, tức bà Yasodhara (Da Du Đà La). Chỉ có bốn vị ấy. trong tứ thánh. Khi Đức Phật được năm mươi lăm tuổi thì Đại Đức Ananda trở thành vị thị giả chánh thức cho đến khi Phật nhập Niết bàn.

II. Tư đức và pháp trị của người lãnh đạo quốc gia:



  1. Tư đức Kinh

Dhammapadatthakathà thuật lại rằng Ðức Phật hằng lưu ý đến vấn đề tổ chức một nền hành chánh nhơn đạo. Ý kiến của Ngài được thích dụng trong quy chế xã hội, kinh tế và chánh trị trong thời kỳ ấy. Ngài chỉ cho thấy rằng toàn cả một xứ bị suy vong, đốn mạt và khốn khổ khi những người nắm vận mạng quốc gia, như vua chúa, quần thần, quan lại quá đỗi tham tàn và bất công. Muốn cho xứ sở được thanh bình thạnh trị thì những người cầm quyền phải công minh, chánh trực. Dưới trí tuệ và lòng từ vô hạn, đức Phật hiểu rất rõ vấn đề này nên mỗi khi nói chuyện với các vị quốc vương về chính sự, đức Phật thường khuyên họ phải trau dồi tư đức. Trong bộ chú giải Jàtaka I (Chuyện Tiền Thân) II, III, V thuộc Tiểu Bộ Kinh có ghi lại mười đức của một vị vua như sau: 1. Phận sự đầu tiên là đức tính khoan dung, quảng đại, từ thiện. Vị quốc Trưởng phải là người không tham tham, không luyến ái tiền bạc của cải, mà phải sẵn sàng đem ra bồi đắp hạnh phúc cho dân lành (Dàna). 2. Phải có hạnh kiểm đạo đức cao thượng (Sìla) là không sát sanh, không dối trá, không gian tham, không lợi dụng kẻ khác, không tà dâm, không nói những điều hư ngụy, không uống vật có chất say. Nghĩa là ít nhất phải giữ Ngũ Giới. 3. Hy sinh tất cả cho việc lợi ích cho dân (Pariccàga). Sẵn lòng hy sinh sự sung sướng, tên tuổi, thanh danh và mạng sống cho quyền lợi của dân. 4. Thanh liêm, chánh trực (Ajjava). Không sợ áp lực và cũng không đặc biệt ưu đãi một ai trong khi thi hành nhiệm vụ. Phải chân thật trong ý muốn và không dối gạt quần chúng. 5. Dễ thương, ôn hòa (Maddava). Phải có đức tánh ngọt ngào, mềm dịu. 6. Khắc kỷ, nghiêm túc trong thói quen (Tapa). Phải sống giản dị, không để bị lôi cuốn trong xa xí. Phải biết mình. 7. Không ghen ghét, không ác ý, không thù hằn (Akkodha). Không tích oán, hiềm thù với ai cả. 8. Không bạo động (Avihimsa). Chẳng những không làm hại ai, mà phải tích cực biểu hiện hòa bình, cố tránh và ngăn ngừa chiến tranh cùng tất cả những gì gây ra bạo động vè giết chóc. 9. Nhẫn nại, tha thứ, châm chế, hiểu biết (Khanti). Phải có đủ khả năng chịu đựng thử thách, khó khăn, nhục mạ và không giận. 10. Không chống trả, không làm cho bế tắc (Avirodha). Nghĩa là không chống lại ý muốn của dân, không ngăn cản một biện pháp nào có thể đem lại hạnh phúc cho dân. Nói cách khác, phải một mực hòa hợp với dân.

Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 42, cáp bản tr. 449, đức Phật nói đến mười đức của một vị vua như sau: 1. Thanh liêm và khoan dung. 2. Khéo nghe lời can gián của bầy tôi. 3. Hay thi ân cho dân chúng cùng vui. 4. Việc thu thuế phải y theo pháp định. 5. Việc phòng the phải chỉnh túc. 6. Không để rượu làm rối loạn tinh thần. 7. Siêng năng, không cười đùa cợt nhã, phải giữ gìn uy nghiêm. 8. Phải xét xử theo luật pháp, không thiên vị quanh co. 9. Phải hòa hợp với quần thần không cạnh tranh với họ. 10. Luôn luôn phải để ý đến sức khỏe của thân thể. Kinh Na tiên Tỳ Kheo (Milanda Panha) có viết: "Nếu người nào không có tài năng, không đạo đức, không phạm hạnh, không xứng đáng là vua, mà lại tự mình tôn xưng là vua hay người lãnh đạo với nhiều quyền lực thì người ấy sẽ bị nguyền rủa và trừng phạt bởi dân chúng, bởi vì người ấy, vì không xứng đáng và không tài năng, đã tự đặt mình một cách vô lí vào vị trí của người lãnh đạo. Người lãnh đạo, cũng như những người đã vi phạm các nguyên tắc đạo đức và giới luật căn bản của xã hội loài người, sẽ bị trừng phạt như bao nhiêu người khác, nhất là đối với những người lãnh đạo ăn cắp tài sản của dân chúng." Kinh Bổn Sanh cũng có đề cập đến người lãnh đạo nào mà chỉ trừng phạt người vô tội và không trừng phạt người phạm tội thì người lãnh đạo ấy không xứng đáng lãnh đạo xứ sở.

Trung Bộ Kinh cũng có nói về vị quốc vương biết tự thăng tiến và lúc nào cũng nỗ lực gìn giữ hành động, lời nói và tâm ý, lúc nào cũng biết lắng nghe ý kiến của dân chúng về sự cai trị của mình, để biết mình có phạm lỗi lầm nào không trong khi điều hành đất nước. Nếu vị quốc vương ấy cai trị xấu, người dân sẽ than phiền rằng họ đang bị phá hoại bởi một vị lãnh đạo xấu vì các chính sách hà khắc, nhũng lạm, bất công, sưu cao thuế nặng, và do đó, dân chúng sẽ có phản ứng chống lại vị vua ấy. Ngược lại, nếu vị vua cai trị tốt, thì dân chúng sẽ chúc tụng: "Cầu xin cho quốc vương của chúng tôi được trường thọ."

Đức Phật đã giảng dạy về sự quan trọng và về các điều kiện thiết yếu của một chính phủ tốt. Ngài dạy rằng khi người lãnh đạo chính phủ tham nhũng và bất công thì xứ sở trở nên tham nhũng, băng hoại, và đau khổ. Khắc phục sự tham nhũng và Ngài dạy rằng chính phủ phải biết quản trị dựa trên các nguyên tắc nhân ái. "Khi người lãnh đạo xứ sở có tính công bình và thiện ái thì triều đình có tính công bình và thiện ái. Khi triều đình có tính công bình và thiện ái thì các quan chức có tính công bình và thiện ái. Khi các quan chức có tính công bình và thiện ái thì các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái. Khi các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái thì người dân có tính công bình và thiện ái." (Tăng Chi Bộ Kinh).

2. Pháp trị Kinh Cakkavatti Sihananda Ngài giảng thêm về cách hành xử (pháp trị) của người lãnh đạo như sau : 1. Người lãnh đạo tốt phải biết cư xử công bình, không thiên vị bất cứ nhóm nào. 2. Người lãnh đạo tốt không bao giờ gieo lòng thù hận trong dân chúng. 3. Người lãnh đạo tốt không bao giờ ngần ngại áp dụng luật pháp khi cần thiết. 4. Người lãnh đạo tốt phải thông hiểu luật pháp rõ ràng mỗi khi áp dụng. Luật pháp không phải áp dụng chỉ vì người ấy có uy quyền mà phải áp dụng hợp tình và hợp lý

Hàn Phi Tử thời “bách gia phân tranh thời Tiên Trần”. Đối với việc trị nước, Hàn Phi Tử đưa ra quan điểm: “Cái làm cho trị an là pháp luật, cái gây ra loạn là sự riêng tư. Pháp luật đã thiết lập rồi thì không ai có thể làm điều riêng tư được nữa”. Hàn Phi khẳng định, việc trị nước, quản dân không thể dựa theo lễ nghi truyền thống mà phải được thực hiện trên cơ sở những đạo luật cụ thể và chặt chẽ. Bởi lẽ, “…pháp luật không hùa theo người sang… Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu”. Nhờ học thuyết pháp trị, Tần Thuỷ Hoàng đã chấm dứt cục diện bách gia phân tranh thời tiên Tần, thống nhất Trung Quốc và xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền đầu tiên tại Trung Quốc. Mặc dù vậy, cần phải thấy rằng, pháp luật mà Hàn Phi đề cao là thứ pháp luật hà khắc, tàn bạo, khác xa với pháp luật ngày nay; con người phải vì pháp luật, chứ pháp luật không vì con người; mặt khác, pháp luật dù ở vị trí thượng tôn, trên muôn dân, nhưng lại dưới một người (nhà vua). Đó là hạn chế của học thuyết Pháp trị. Theo Đức Phật, Ngài đã khuyên các vị vua biết kết hợp giữa pháp trị và đức trị vì nếu chỉ nghiêng về đức thì những thành phần xấu sẽ lợi dụng lòng nhân của vua để làm loạn, còn nếu quá đặt nặng “pháp trị” mà thiếu đức thì pháp đó sẽ đem đến sự hùng cường của một đất nước nhưng lại mang tính hà khắc và tàn bạo khiến lòng người oán than. người làm vua không để cho một chút tư lợi, tư dục nào xen vào, việc thu thuế má, việc xét xử phán quyết đều y theo pháp luật. Chính trị tuy xây dựng trên tinh thần nhân ái nhưng đối với những kẻ cố tình phạm pháp thì vua phải nghiêm trị. Khi đề cập đến những hậu quả ắt xảy ra nếu người lãnh đạo không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, trong kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương đã có những điều cảnh giác sau đây:

Thứ nhất, nếu nhà vua không răn cấm những kẻ ác tức là đã đi ngược lại với chính lý, phải theo đúng chính pháp mà trị dân, có theo đúng chánh pháp mới xứng đáng làm vua. Nếu không làm theo chính pháp ắt sẽ bị nhân dân lật đỗ một cách dễ dàng cũng như voi dẫm lên bông sen. Thứ hai, nếu lấy điều phi pháp trị dân thì dân sẽ làm loạn, quần thần phải chết, bản thân vua cũng chẳng yên, những kẻ địch ở ngoài xâm lược, quốc gia tiêu vong. Thứ ba, dù có mất ngôi vua, hại đến thân mệnh cũng không làm điều phi pháp. Điều tai hại nhất là dùng những kẻ xiểm nịnh, cũng như người thả voi vào vườn hoa, dùng kẻ xiểm nịnh sẽ có ngày mất ngôi vua. Nếu vua coi người thân thuộc và nhân dân đều bình đẳng, làm đúng chánh pháp, không gây bè phái, thiên vị thì danh tiếng vua được lừng lẫy. cho nên, nười làm vua phải quên mình mà mở mang chính pháp, tôn trọng chính pháp, dạy người làm mười điều lành, nếu được thế thì quốc gia phú cường, nhân dân an lạc (Tân dịch Phật Giáo Thánh Điển)

III. Các điều kiện gìn giữ nền hòa bình

1. Bảy pháp kiện toàn quốc gia Có lần vua Ajatasattu Vedehiputta (A-xà-thế) nước Magadha, muốn chinh phục Vaijji và tự nói như vầy: “Ta quyết chinh phạt dân Vaijji này, dầu chúng có uy quyền, có hùng mạnh; ta quyết làm cỏ dân Vajji; ta sẽ làm cho dân Vaijji bị hoại vong”. Sau đó vua sai đại thần là Vassakara (Vũ Xá) thay mặt vua đến vấn an và hỏi ý kiến đức Phật Sau khi nghe đại thần Vassakara thuật lại lời của vua Ajatasattu Vedehiputta hỏi, đức Phật đã trả lời rằng dân tộc Vaijji đã thực hiện đúng theo bảy pháp kiện toàn quốc gia mà đức Phật đã chỉ dạy nên rất cường thịnh không nước nào có thể đánh bại. Bảy pháp kiện toàn quốc gia này được ghi lại trong kinh Trường Bộ I, và kinh Trường A Hàm, Kinh Du Hành, Trong kinh, đức Phật không trả lời câu hỏi một cách trực tiếp mà Ngài vì muốn xác nhận điều Ngài trả lời là sự thật qua việc hỏi A Nan, để chính A Nan xác nhận và chứng minh điều đó là một sự việc đã và đang xảy ra của đất nước Vaijji: - Này Ananda, ngươi có nghe dân Vaijji thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau không? - Bạch đức Thế Tôn, con có nghe dân Vaijji thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau.

- Này Ananda, khi nào dân Vaijji thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau, thời này Ananda, dân Vaijji sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, ngươi có nghe dân Vaijji tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết và làm việc trong niệm đoàn kết không? - Bạch Thế Tôn, con có nghe … - Này Ananda, khi nào dân Vaijji tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết, này Ananda dân Vaijji sẽ được cường , không bị suy giảm. Này Ananda, ngươi có nghe dân Vaijji không ban hành những luật lệ không được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vaijji như đã ban hành thời xưa không? Và cứ thế, đức Phật cứ hỏi và Ananda lần lượt xác chứng có nghe dân Vaijji đã và đang thực hiện bảy bảy pháp môn bất thối đó. Ở đây người viết không nêu ra hết nguyên bản và chỉ tóm lại ý chính của Bảy pháp kiện toàn quốc gia như sau: 1. Phải thường hay tụ họp. 2. Tụ họp đông đảo với nhau trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, làm việc trong niệm đoàn kết. 3. Không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân tộc mình đã ban hành thời xưa. 4. Phải tôn sùng và kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc Trưởng lão và nghe theo lời dạy của những vị này. 5. Không bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ phải sống với mình. 6. Tôn sùng, kính trọng, đãnh lễ cúng dường các tự miếu ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không phế bỏ những cúng lễ đã cúng từ trước đúng với quy pháp. 7. Bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán trong đất nước, các vị A-la- hán chưa đến, sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc. Nói xong bảy pháp này xong đức Thế Tôn xác nhận khi nào dân Vaijji duy trì bảy pháp bất thối này thì dân Vaijji được cường thịnh, không bị suy giảm. Khi được nghe Thế Tôn nói như vậy, đại thần Vassakara bạch Thế Tôn: “ Tôn giả Gotama, nếu dân Vaijji chỉ hội đủ một pháp bất thối này, thời dân Vaijji nhất định được cường thịnh, không bị suy giảm, huống nữa là đủ bảy pháp bất thối. Tôn giả Gotama, Ajatasattu Vedehiputta (A-xà-thế) vua nước Magadha không thể đánh bại dân Vaijji ở chiến trận trừ phi dùng ngoại giao hay kế ly gián…”


Каталог: application -> uploads -> Daotaotuxa -> Khoa2 -> Hoc%20Ky%206 -> Triet%20hoc%20chinh%20tri%20xa%20hoi%20Phat%20giao
Triet%20hoc%20chinh%20tri%20xa%20hoi%20Phat%20giao -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Bài 5: LỘ trình tu chứng & quả VỊ thanh văn củA ĐẠi chúng bộ VÀ ba chi pháI ĐẦu tiêN (21- 39)
Khoa2 -> Bài 10. Quan đIỂm căn bản của nhất thiết hữu bộ
Khoa2 -> BÀI 20. Quan đIỂm của kinh lưỢng bộ (sautrantika = thuyết chuyển chấp bộ)
Khoa2 -> Triết học tôn giáO
Khoa2 -> 恒轉如瀑流 阿羅漢位捨 4 Thứ nhất là a-lại-da
Khoa2 -> PHẦn c: quan đIỂm của hữu bộ VÀ CÁc chi phái bài quan đIỂm của thuyết nhất thiết hữu bộ
Hoc%20Ky%206 -> Những tài liệu tham khảo: 1/ Lối vào Nhân minh học

tải về 231.4 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương