Tóm Lược Riyadh Al-Saaliheen ] Tiếng Việt Vietnamese [فيتنامي



tải về 5.32 Mb.
trang17/22
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích5.32 Mb.
#1905
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   22

54- CHƯƠNG TỤNG NIỆM ALLAH ĐẤNG TỐI CAO, LÚC ĐỨNG, LÚC NGỒI HOẶC NẰM DÀNH CHO NGƯỜI KHÔNG CÓ NƯỚC WUDU, NGƯỜI BỊ JUNUB VÀ PHỤ NỮ CÓ KINH NGUYỆT, NHƯNG KHÔNG CẦM QUR’AN, BỞI NGƯỜI BỊ JUNUB VÀ PHỤ NỮ CÓ KINH NGUYỆT BỊ CẤM XƯỚNG ĐỌC
Allah phán:

ﮋإِنَّ فِي خَلۡقِ ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِ وَٱخۡتِلَٰفِ ٱلَّيۡلِ وَٱلنَّهَارِ لَأٓيَٰتٖ لِّأُوْلِي ٱلۡأَلۡبَٰبِ ١٩٠ ٱلَّذِينَ يَذۡكُرُونَ ٱللَّهَ قِيَٰمٗا وَقُعُودٗا وَعَلَىٰ جُنُوبِهِمۡﮊ آل عمران: ١٩٠

Quả thật, trong việc tạo hóa ra các tầng trời và trái đất, sự khác nhau trong việc luân chuyển ngày đêm chính những dấu hiệu dành cho người hiểu biết * Họ là những người thường tụng niệm Allah trong mọi hoàn cảnh lúc đứng, lúc ngồi và lúc nằm. Ali I’mraan: 190 – 191 (chương 3).

519- Bà A’-y-shah  kể: “Trước kia, Rasul tụng niệm Allah trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi.” Hadith do Muslim 1/194 (117 & 373) ghi lại và Al-Bukhary ghi ở phần chú thích 1/163 (633).


520- Con trai ông A’bbaas  dẫn lời Rasul  rằng:

((لَوْ أَنَّ أَحَدَكُمْ إِذَا أَتَى أَهْلَهُ قَالَ: بِسْمِ اللهِ، اللَّهُمَّ جَنِّبْنَا الشَّيْطَانَ وَجَنِّبِ الشَّيْطَانَ مَا رَزَقْتَنَا، فَإنَّهُ إِنْ يُقَدِّرُ بَيْنَهُمَا وَلَدٌ فِي ذَلِكَ لَمْ يَضُرَّهُ شَيْطَانٌ أَبَداً))

Khi các người muốn ăn nằm với vợ và nói: Bis mil lah, ol lo hum ma jan nib nash shaytaan wa jam ni bish shaytaa ma ro zaq ta na. Nếu lần đó được ban cho đứa con thì shaytaan sẽ chẳng gây hại được nó.

(Ý nghĩa: Nhân danh Allah. Lạy Allah! Cầu xin hãy mang Shayton tránh xa chúng tôi và tránh xa mọi bổng lộc mà Ngài ban tặng cho chúng tôi.) Hadith do Al-Bukhary 1/48 (141) và Muslim 4/155 (116 & 1434) ghi lại.

dkf

55- CHƯƠNG ÂN PHƯỚC NGỒI NHÓM ĐỂ TỤNG NIỆM, KHUYẾN KHÍCH LUÔN LÀ THÀNH VIÊN CỦA NHÓM VÀ CẤM TỰ Ý TÁCH NHÓM
Allah phán:

ﮋوَٱصۡبِرۡ نَفۡسَكَ مَعَ ٱلَّذِينَ يَدۡعُونَ رَبَّهُم بِٱلۡغَدَوٰةِ وَٱلۡعَشِيِّ يُرِيدُونَ وَجۡهَهُۥۖ وَلَا تَعۡدُ عَيۡنَاكَ عَنۡهُمۡﮊ الكهف: 28

(Này Muhammad) hãy kiên nhẫn mà ở cùng với những ai luôn cầu nguyện (tụng niệm, tán dương) Thượng Đế họ vào mỗi sáng và mỗi chiều hồng được Ngài hài lòng. Ngươi chớ có ngoảnh mặt với họ. Al-Kahf: 28 (chương 18).

521- Ông Abu Hurairah  dẫn lời Rasul  rằng:

((إِنَّ لِلهِ تَعَالَى مَلَائِكَةً يَطُوفُونَ في الطُّرُقِ يَلْتَمِسُونَ أَهْلَ الذِّكْرِ، فَإِذَا وَجَدُوا قَوْمَاً يَذْكُرُونَ اللهَ ، تَنَادَوْا: هَلُمُّوا إِلَى حَاجَتِكُمْ، فَيَحُفُّونَهُمْ بِأَجْنِحَتِهِم إِلَى السَّمَاءِ الدُّنْيَا، فَيَسْألُهُمْ رَبُّهُمْ – وَهُوَ أعْلَم -: مَا يَقُولُ عِبَادي ؟ قَالَ: يَقُوْلُوْنَ: يُسَبِّحُونَكَ، ويُكبِّرُونَكَ، وَيَحْمَدُونَكَ، ويُمَجِّدُونَكَ، فَيَقُوْلُ: هَلْ رَأَوْنِي؟ فَيَقُوْلُونَ : لَا وَاللهِ مَا رَأَوْكَ. فَيَقُولُ: كَيْفَ لَوْ رَأَوْنِي ؟! قَالَ: يَقُولُونَ: لَوْ رَأَوْكَ كَانُوا أَشَدَّ لَكَ عِبَادَةً، وَأَشَدَّ لَكَ تَمْجِيداً، وأكْثَرَ لَكَ تَسْبِيحاً. فَيقُولُ: فَمَاذَا يَسْألونَ ؟ قَالَ: يَقُولُونَ: يَسْألُونَكَ الجَنَّةَ. قَالَ: يَقُولُ: وَهَلْ رَأَوْهَا ؟ قَالَ: يَقُوْلُونَ : لَا وَاللهِ يَا رَبِّ مَا رَأَوْهَا. قَالَ: يَقُوْلُ: فَكيفَ لَوْ رَأَوْهَا ؟ قَالَ: يَقُوْلُونَ: لَوْ أَنَّهُمْ رَأَوْهَا كَانُوا أَشَدَّ عَلَيْهَا حِرْصاً، وَأَشَدَّ لَهَا طَلَباً، وَأَعْظَمَ فِيهَا رَغْبَةً. قَالَ: فَمِمَّ يَتَعَوَّذُونَ ؟ قَالَ: يَقُوْلُونَ: يَتَعَوَّذُونَ مِنَ النَّارِ . قَالَ: فَيَقُوْلُ: وَهَلْ رَأَوْهَا ؟ قَالَ: يَقُوْلُوْنَ: لَا وَاللهِ مَا رَأَوْهَا. فَيَقُوْلُ: كَيْفَ لَوْ رَأَوْهَا ؟! قَالَ : يَقُوْلُوْنَ: لَوْ رَأَوْهَا كَانُوا أَشَدَّ مِنْهَا فِرَاراً، وَأَشَدَّ لَهَا مَخَافَةً. قَالَ: فَيَقُوْلُ: فَأُشْهِدُكُمْ أَنِّي قَدْ غَفَرْتُ لَهُم، قَالَ: يَقُولُ مَلَكٌ مِنَ المَلاَئِكَةِ: فِيهِمْ فُلاَنٌ لَيْسَ مِنْهُمْ، إِنَّمَا جَاءَ لِحَاجَةٍ، قَالَ: هُمُ الجُلَسَاءُ لَا يَشْقَى بِهِمْ جَلِيسُهُمْ))

Allah có một đội ngủ Thiên Thần đi khắp mọi nẻo đường tìm kiếm nhóm người tụng niệm Allah. Một khi bắt gặp nhóm người nào tụng niệm Allah, họ bảo: Các người cứ tự do thực hiện điều các người muốn đi. Thế là họ xòe cánh che xung quanh nhóm người tụng niệm, cánh của họ cao đụng đến tầng trời hạ giới.



- Thượng Đế thẩm vấn Thiên Thần – trong lúc Ngài am tường tất cả -: Nhóm bầy tôi của TA đã nói gì?

- Thiên Thần đáp: Họ nói: Sub ha nol loh, ol lo hu ak bar, al ham du lil lah và tôn vinh Ngài.

- Allah hỏi: Thế họ đã thấy TA chưa?

- Thiên Thần đáp: Thề bởi Ngài, họ chưa từng thấy Ngài bao giờ.

- Allah tiếp: Giá như họ thấy TA nữa sẽ ra sao?

- Thiên Thần đáp: Nếu như đã thấy được Ngài họ sẽ hành đạo nhiều hơn nữa, họ sẽ tôn vinh, sẽ tụng niệm nhiều hơn nữa.

- Allah tiếp: Họ đã cầu xin gì?

- Thiên Thần đáp: Họ cầu xin Ngài thiên đàng.

- Allah tiếp: Họ có thấy được nó chưa?

- Thiên Thần đáp: Thề bởi Ngài chứng giám, họ chưa nhìn thấy, thưa Thượng Đế.

- Allah tiếp: Sẽ ra sao giá như họ nhìn thấy?

- Thiên Thần đáp: Nếu như họ đã gặp là họ sẽ mạnh hơn nữa trong việc bảo vệ, trong van nài và ham muốn.

- Allah hỏi tiếp: Họ cầu xin che chở điều gì?

- Thiên Thần đáp: Họ cầu xin được thoát khỏi hỏa ngục.

- Allah hỏi tiếp: Họ có từng thấy nó chưa?

- Thiên Thần đáp: Thề bởi Ngài chứng giám, họ vẫn chưa nhìn thấy nó.

- Allah hỏi tiếp: Sẽ ra sao giá như họ nhìn thấy?

- Thiên Thần đáp: Họ sẽ bỏ chạy thật xa hơn nữa và sợ hãi nhiều hơn nữa.

- Allah phán: Tất cả các ngươi làm chứng cho TA rằng TA đã tha thứ tất cả tội lỗi cho họ.

- Có một Thiên Thần bẩm: Có người đàn ông không thuộc nhóm họ, ông ta đến vì mục đích gì đó.

- Allah đáp: Họ cùng nhau ngồi chung, TA sẽ chẳng để kẻ nào trong bọn họ gặp phải bất hạnh.” Hadith do Al-Bukhary 8/107 (6408) và Muslim 8/68 (25 & 2689) ghi lại.

Theo đường truyền do riêng Muslim ghi lại từ ông Abu Hurairah  dẫn lời Rasul  rằng:

((إِنَّ لِلهِ مَلاَئِكَةً سَيَّارَةً فُضُلاً يَتَتَبُّعُونَ مَجَالِسَ الذِّكْرِ، فَإذَا وَجَدُوا مَجْلِساً فِيهِ ذِكْرٌ، قَعَدُوا مَعَهُمْ، وَحَفَّ بَعْضُهُمْ بَعْضاً بِأَجْنِحَتِهِمْ حَتَّى يَمْلَؤُوا مَا بَيْنَهُمْ وَبَيْنَ السَّماءِ الدُّنْيَا، فَإِذَا تَفَرَّقُوا عَرَجُوا وَصَعِدُوا إِلَى السَّمَاءِ، فَيَسْأَلُهُمْ اللهُ  - وَهُوَ أَعْلَمُ -: مِنْ أَيْنَ جِئْتُمْ ؟ فَيَقُولُونَ: جِئْنَا مِنْ عِنْدِ عِبادٍ لَكَ فِي الْأَرْضِ: يُسَبِّحُونَكَ، ويُكبِّرُونَكَ، وَيُهَلِّلُونَكَ، وَيَحْمَدُونَكَ، وَيَسْألُونَكَ. قَالَ: وَمَاذَا يَسْألُونِي ؟ قَالُوا: يَسْألُونَكَ جَنَّتَكَ. قَالَ: وَهَلْ رَأَوْا جَنَّتِي ؟ قَالُوا: لَا، أَيْ رَبِّ. قَالَ : فَكَيْفَ لَوْ رَأَوْا جَنَّتي ؟! قَالُوا : وَيَسْتَجِيرُونَكَ. قَالَ: وَمِمَّ يَسْتَجِيرُونِي ؟ قَالُوا : مِنْ نَارِكَ يَا رَبِّ. قَالَ : وَهَلْ رَأَوْا نَارِي ؟ قَالُوا: لَا، قَالَ: فَكَيْفَ لَوْ رَأَوْا نَارِي ؟! قَالُوا: وَيَسْتَغفِرُونَكَ؟ فَيَقُولُ: قَدْ غَفَرْتُ لَهُمْ، وَأَعْطَيْتُهُمْ مَا سَألُوا، وَأَجَرْتُهُمْ مِمَّا اسْتَجَارُوا. قَالَ: فَيَقُولُونَ: ربِّ فِيهمْ فُلانٌ عَبْدٌ خَطَّاءٌ إنَّمَا مَرَّ، فَجَلَسَ مَعَهُمْ. فَيَقُولُ وَلَهُ غَفَرْتُ، هُمُ القَومُ لاَ يَشْقَى بِهِمْ جَلِيسُهُمْ))

Quả thật, Allah có một đội ngũ Thiên Thần đi khắp các nẻo đường ngỏ hẽm để theo dõi nhóm người tụng niệm. Khi bắt gặp nhóm người ngồi tụng niệm thì Thiên Thần liền ngồi cùng với họ, van rộng những đôi cánh bao vây nhóm người tụng niệm với số lượng đầy đến tầng trời hạ giới. Sau khi mọi người phân tán, nhóm Thiên Thần quay trở lại lên trời. Họ được Allah thẩm tra trong lúc Ngài luôn am tường mọi việc:



- Allah hỏi: Các người từ đâu về?

- Thiên Thần đáp: Bầy tôi trở về từ nhóm bầy tôi khác của Ngài ở dưới đất họ đã tán dương Ngài, tụng niệm Ngài, tôn vinh Ngài, tạ ơn Ngài, chỉ công nhận Ngài duy nhất là Thượng Đế và van xin Ngài.

- Allah hỏi: Vậy, họ đã cầu xin điều gì?

- Thiên Thần đáp: Họ van xin thiên đàng của Ngài.

- Allah hỏi: Họ đã thấy thiên đàng của TA chưa?

- Thiên Thần đáp: Thưa, họ chưa nhìn thấy.

- Allah hỏi: Sẽ ra sao nếu họ thấy được thiên đàng của TA?

- Thiên Thần bẩm tiếp: Họ đã van xin Ngài che chở.

- Allah hỏi: Họ van xin TA che chở điều gì?

- Thiên Thần đáp: Thoát khỏi hỏa ngục của Ngài, thưa Thượng Đế.

- Allah hỏi: Họ có từng thấy chưa?

- Thiên Thần đáp: Bẩm chưa nhìn thấy.

- Allah hỏi: Sẽ ra sao nếu họ nhìn thấy hỏa ngục của TA?

- Thiên Thần bẩm tiếp: Họ đã cầu xin Ngài tha thứ tội lỗi đã phạm.

- Allah phán: TA đã tha thứ hết cho họ, sủng đáp mọi điều họ đã cầu xin và che chở mọi thoát khỏi điều họ đã sợ hãi.

- Có một Thiên Thần bẩm: Thưa Thượng Đế trong nhóm họ có một người đàn ông chuyên làm tội lỗi, khi đi ngang qua nhìn thấy mà ngồi xuống cùng với họ.

- Allah phán: Y vẫn được TA tha thứ tội lỗi, trong nhóm họ sẽ chẳng ai gặp phải bất hạnh cả.
522- Ông Abu Hurairah và cha của Sa-e’d ông Al-Khudry  dẫn lời Rasul  rằng:

((لاَ يَقْعُدُ قَوْمٌ يَذْكُرُونَ اللهَ  إِلاَّ حَفَّتْهُمْ الْمَلاَئِكَةُ وَغَشِيَتْهُمْ الرَّحْمَةُ وَنَزَلَتْ عَلَيْهِمْ السَّكِينَةُ وَذَكَرَهُمْ اللهُ فِيمَنْ عِنْدَهُ))

Bất cứ nhóm nào ngồi tưởng niệm Allah đều được các Thiên Thần vây quanh, được bao trùm bởi ân huệ và được ban cho sự điềm tĩnh đồng thời được Allah khoe với các vị (Thiên Thần) xung quanh Ngài.” Hadith do Muslim 8/72 (39 & 2700) ghi lại.
523- Cha của Waaqid ông Al-Haarith bin A’wf  kể: Lúc chúng tôi cùng với mọi người đang ngồi quanh Rasul  trong Masjid thì có ba người đàn ông đi đến. Hai người thì tiến gần đến Rasul  còn một người thì bỏ đi luôn, một trong hai người tiến đến thấy khoảng trống liền đi vào ngồi, người còn lại thì ngồi phía sau cùng và người thứ ba ra đi không quay lại. Sau khi thuyết giảng xong Rasul  nói:

((أَلاَ أُخْبِرُكُمْ عَنِ النَّفَرِ الثَّلاَثَةِ: أَمَّا أَحَدُهُمْ فَأوَى إِلَى اللهِ فآوَاهُ اللهُ إِلَيْهِ. وَأَمَّا الآخَرُ فَاسْتَحْيَى فَاسْتَحْيَى اللهُ مِنْهُ، وَأَمَّا الآخَرُ، فَأَعْرَضَ، فَأَعْرَضَ اللهُ عَنْهُ))

Ta sẽ báo cho các người biết về tin tức của ba người đàn ông: Một người trong số họ tìm đến Allah nương tựa, y đã được Allah cho tá túc, người thứ hai trong họ ngại ngùn hổ thẹn nên Allah cũng hổ thẹn ngại ngùn với y và người thứ ba quay mặt bỏ đi nên Allah đã quay mặt hửng hờ với y luôn.” Hadith do Al-Bukhary 1/26 (66) và Muslim 7/9 (26 & 2176) ghi lại.
524- Cha của Sa-e’d ông Al-Khudry  kể: Ông Mu-a’wiyah bước vào Masjid thấy một nhóm người đang ngồi, ông hỏi: Các người ngồi đây làm gì đây? Mọi người đáp: Chúng tôi ngồi tụng niệm Allah. Ông rặn hỏi: Thề bởi Allah, các người ngồi đây chỉ vì mục đích đó chăng? Mọi người đáp: Chúng tôi không ngồi đây ngoài mục đích đó. Ông tiếp: Tôi hỏi thế không phải là tôi nghi oan cho các người mà là vì xưa kia khi Rasul  đến gặp nhóm bạn đang ngồi Người hỏi:

((مَا أَجْلَسَكُمْ هَا هُنَا؟))

Việc gì làm cho các bạn ngồi đây?” Họ đáp: Chúng tôi ngồi đây tụng niệm Allah, tạ ơn Ngài đã hướng dẫn chúng tôi vào Islam và biệt đãi chúng tôi ở gần Nabi. Rasul  nói tiếp:

((آللهُ مَا أَجْلَسَكُمْ إِلاَّ ذَلِكَ ؟))

Ta thề bởi Allah chứng giám, các bạn không ngồi đây ngoại trừ làm việc đó sao?” Họ đáp: Chúng tôi thề bởi Allah chứng giám, chúng tôi ngồi đây chỉ vì việc đó. Người tiếp:

((أَمَا إِنِّي لَمْ أَسْتَحْلِفْكُمْ تُهْمَةً لَكُمْ وَلَكِنَّهُ أَتَانِي جِبْرِيلُ  فَأَخْبَرَنِي أَنَّ اللهَ يُبَاهِي بِكُمْ الْمَلاَئِكَةَ))

Không phải Ta bảo các bạn thề vì Ta nghi ngờ hay vu oan cho các bạn nói dối nhưng Đại Thiên Thần Jibreel báo cho Ta biết Allah đang khoe các bạn với các Thiên Thần khác.” Hadith do Muslim 8/72 (40 & 2701) ghi lại.

dkf


56- CHƯƠNG LỜI TỤNG NIỆM SÁNG TỐI
Allah phán:

ﮋوَٱذۡكُر رَّبَّكَ فِي نَفۡسِكَ تَضَرُّعٗا وَخِيفَةٗ وَدُونَ ٱلۡجَهۡرِ مِنَ ٱلۡقَوۡلِ بِٱلۡغُدُوِّ وَٱلۡأٓصَالِ وَلَا تَكُن مِّنَ ٱلۡغَٰفِلِينَ ٢٠٥ﮊ الأعراف: 205

Này hỡi (Muhammad) hãy tụng niệm Thượng Đế Ngươi trong thanh tâm bằng sự khiêm nhường sùng kính, âm thầm chớ có phô trương, vào mỗi sáng và mỗi chiều, và Ngươi đừng như những kẻ lơ là trong việc tụng niệm. Al-A’raaf: 205 (Chương 7), Allah phán ở chương khác:

ﮋ فَٱصۡبِرۡ عَلَىٰ مَا يَقُولُونَ وَسَبِّحۡ بِحَمۡدِ رَبِّكَ قَبۡلَ طُلُوعِ ٱلشَّمۡسِ وَقَبۡلَ غُرُوبِهَاۖ ﮊ طه: 130

(Hỡi Muhammad) hãy kiên nhẫn với những gì họ nói (xấu), Ngươi hãy tán dương Thượng Đế của Ngươi vào lúc trước mặt trời mọc và lúc trước mặt trời lặn. Taa-ha: 130 (chương 20), Allah phán ở chương khác:

ﮋوَسَبِّحۡ بِحَمۡدِ رَبِّكَ بِٱلۡعَشِيِّ وَٱلۡإِبۡكَٰرِ ٥٥ﮊ غافر: 55

Và hãy tán dương Thượng Đế của Ngươi vào mỗi sáng và mỗi chiều. Ghaafir: 55 (chương 40), Allah phán ở chương khác:

ﮋفِي بُيُوتٍ أَذِنَ ٱللَّهُ أَن تُرۡفَعَ وَيُذۡكَرَ فِيهَا ٱسۡمُهُۥ يُسَبِّحُ لَهُۥ فِيهَا بِٱلۡغُدُوِّ وَٱلۡأٓصَالِ ٣٦ رِجَالٞ لَّا تُلۡهِيهِمۡ تِجَٰرَةٞ وَلَا بَيۡعٌ عَن ذِكۡرِ ٱللَّهِﮊ النور: 36 - 37

Trong nhà Allah cho phép lớn tiếng tụng niệm các Đại Danh của Ngài và hãy tán dương Ngài vào mỗi sáng và mỗi chiều * Giới đàn ông không được quá loan toan việc thương mại cũng như mua bán rồi sao lãng việc tụng niệm Allah. Al-Noor: 36 - 37 (chương 24), Allah phán ở chương khác:

ﮋإِنَّا سَخَّرۡنَا ٱلۡجِبَالَ مَعَهُۥ يُسَبِّحۡنَ بِٱلۡعَشِيِّ وَٱلۡإِشۡرَاقِ ١٨ﮊ ص: 18

TA đã chế ngự để cho Y sai bảo và tụng niệm TA vào mỗi chiều và lúc rạng đông. Sod: 18 (chương 38).

525- Ông Abu Hurairah  dẫn lời Rasul  rằng:

((مَنْ قَالَ حِيْنَ يُصْبِحُ وَحينَ يُمْسِي: سُبْحَانَ اللهِ وَبِحَمْدِهِ لَمْ يَأْتِ أَحَدٌ يَومَ القِيَامَةِ بِأَفْضَلَ مِمَّا جَاءَ بِهِ، إِلاَّ أَحَدٌ قَالَ مِثْلَ مَا قَالَ أَوْ زَادَ))

Ai nói vào mỗi sáng và mỗi chiều câu: Sub ha nol lo hil wa bi ham dih một trăm lần, vào ngày phán xử sẽ không một ai sẽ tốt đẹp hơn y ngoại trừ người đó nói giống như y hoặc nhiều hơn.

(Ý nghĩa: Vinh quang thay Allah và mọi lời ca ngợi tán dương là của Ngài.) Hadith do Muslim 8/69 (29 & 2692) ghi lại.
526- Cũng do ông Abu Hurairah  kể: Một người đàn ông đến gặp Nabi , ông nói: Thưa Rasul, tối qua tôi bị bò cạp cắn.

((أَمَا لَوْ قُلْتَ حِيْنَ أَمْسَيْتَ: أَعُوْذُ بِكَلِمَاتِ اللهِ التَّامَاتِ، مِنْ شَرِّ مَا خَلَقَ، لَمْ تَضُرَّكَ))

Giá như anh nói vào mỗi chiều câu: A u’ zu bi ka li ma til la hit ta maat, min shar ri ma kho laq, là anh chẳng bị hại gì cả.

(Ý nghĩa: Bề tôi cầu xin những Đại Danh và những Kinh Sách hoàn hảo của Allah che chở tránh khỏi những điều xấu, hung tợn mà Ngài đã tạo). Hadith do Muslim 8/76 (2709) ghi lại.


527- Cũng do ông Abu Hurairah  kể: Cứ mỗi sáng Rasul  nói:

((اللَّهُمَّ بِكَ أَصْبَحْنَا، وَبِكَ أَمْسَيْنَا، وَبِكَ نَحْيَا، وَبِكَ نَمُوتُ، وَإِلَيْكَ النُّشُورُ))

(Ol lo hum ma bi ka os bah na, wa bi ka am say na, wa bi ka nah ya, wa bi ka na moot, wa i lay kan nu shoor.)

Buổi chiều thì nói:

((اللَّهُمَّ بِكَ أَمْسَيْنَا، وَبِكَ أَصْبَحْنَا، وَبِكَ نَحْيَا، وَبِكَ نَمُوتُ، وَإِلَيْكَ المَصِيرِ))

(Ol lo hum ma bi ka am say na, wa bi ka os bah na, wa bi ka nah ya, wa bi ka na moot, wa i lay kal ma seer.)

(Ý nghĩa: Mỗi sáng bình minh lên và mỗi chiều hoàng hôn xuống bề tôi nằm trong sự bảo vệ của Ngài. Ngài ban cho bề tôi sự sống và làm cho bề tôi chết rồi sau đó Ngài dựng sống bề tôi lại (để phán xử)). Hadith do Abu Dawood (5068) và Al-Tirmizhi (3391) ghi lại.


528- Cũng do ông Abu Hurairah  kể: Ông Abu Bakr nói với Rasul  rằng: Thưa Rasul, xin hãy dạy tôi lời tụng niệm để tôi tụng niệm vào mỗi sáng và mỗi chiều, Người đáp:

((قُلْ: اللَّهُمَّ فَاطِرَ السَّمَاوَاتِ وَالأَرْضِ، عَالِمَ الْغَيْبِ وَالشَّهَادَةِ، رَبَّ كُلِّ شَيْءٍ، وَمَلِيْكَهُ، أَشْهَدُ أَنْ لاَ إِلَـٰهَ إِلاَّ أَنْتَ، أَعُوذُ بِكَ مِنْ شَرِّ نَفْسِي، وَمِنْ شَرِّ الشَّيْطَانِ، وَشِرْكِهِ))

Hãy nói: Ol lo hum ma fa ti ras sa ma wa ti wa ar dhi, a’ li mal ghoi bi wash sha ha dah, rab ba kul li shay in, wa ma il kah, ash ha du al la i la ha il la an ta, a u’ zu bi ka min shar ri naf sy, wa min shar rish shay taan, wa shir kih.

(Ý nghĩa: Lạy Allah! Đấng am tường mọi việc huyền bí và hiện thực, Đấng tạo ra các tầng trời và trái đất, Thượng Đế của vạn vật và quyền cai quản thuộc về Ngài, bề tôi tuyên thệ rằng không có Thượng Đế nào xứng đáng được thờ phụng mà chỉ có Ngài duy nhất, bề tôi cầu xin Ngài che chở tránh những điều xấu của bản thân, của Shayton và sự tổ hợp của hắn, và cầu xin che chở khi bề tôi phạm tội và truyền bá (tội lỗi đó) cho người Muslim khác.)

Người nói tiếp:

((قُلْهَا إِذَا أصْبَحْتَ، وَإِذَا أَمْسَيْتَ، وَإِذَا أَخَذْتَ مَضْجَعَكَ))

Hãy tụng niệm lời này vào mỗi sáng, mỗi chiều và trước khi ngủ.” Hadith do Abu Dawood (5067) và Al-Tirmizhi (3392) ghi lại.

529- Con trai ông Mas-u’d  kể: Vào mỗi chiều Nabi  tụng niệm rằng:

((أَمْسَيْناَ، أَمْسىَ الْمُلْكُ لِلهِ، وَالْحَمْدُ للهِ لاَ إِلَـٰهَ إِلاَّ اللهُ وَحْدَهُ لَا شَرِيْكَ لَهُ))

(Am say na, am sal mul ku lil lah, wal ham du lil lah, la i la ha il lol loh wah da hu la sha ri ka lah) Người truyền lại Hadith nói: Tôi thấy được Người nói thêm:

((لَهُ المُلْكُ وَلَهُ الحَمْدُ وَهُوَ عَلَى كُلِّ شَيْءٍ قَدير. رَبِّ أَسْأَلُكَ خَيْرَ مَا فِي هَذِهِ اللَّيْلَةِ وَخَيْرَ مَا بَعْدَهاَ، وَأَعُوذُ بِكَ مِنْ شَرِّ مَا فِي هَذِهِ اللَّيْلَةِ وَشَرِّ مَا بَعْدَهاَ، وَشَرِّ مَا بَعْدَهاَ، رَبِّ أَعُوذُ بِكَ مِنَ الكَسَلِ، وَسُوءِ الكِبَرِ، رَبِّ أَعُوذُ بِكَ مِنْ عَذَابٍ فِي النَّارِ، وَعَذَابٍ فِي القَبْرِ))

(La hul mul ku wa la hul ham du wa hu wa a’ la kul li shay in qa deer. Rab bi as a lu ka khoi ra ha zi hil lay lah wa khoi ra ma ba’ da ha, wa a u’ zu bi ka min shar ri ma fi ha zi hil lay lah wa shar ri ma ba’ da ha. Rab bi a u’ zu bi ka mi nal ka sal, wa su il ki bar. Rab bi a u’ zu bi ka min a’ za bin fin naar, wa a’ za bin fil qab ri)

(Ý nghĩa: Buổi chiều đã đến, vương quyền buổi chiều là của riêng Allah, xin tạ ơn Ngài, không có Thượng Đế nào xứng đáng được thờ phụng ngoại trừ Allah duy nhất không có đối tác hay cộng tác cùng Ngài.)

(Ý nghĩa: mọi quyền lực và mọi lời ca ngợi là của riêng Ngài và Ngài có khả năng trên tất cả. Lạy Thượng Đế! bề tôi cầu xin Ngài mọi sự tốt đẹp nhất của đêm nay và đêm mai, khẩn cầu xin Ngài che chở khỏi những điều xấu bất lợi của đêm nay và đêm mai. Lạy Thượng Đế, xin che chở khỏi mọi sự lười biếng, xấu xa của bản tính tự cao, khỏi hành phạt của hỏa ngục và trong mộ phần). Vào buổi sáng thì nói tương tự chỉ đổi chữ (Am say na wa am sal) bằng chữ (Os bah na wa os ba hal) chữ (ha zi hil lay lah) bằng chữ (ha zal yaw mi) Hadith do Muslim 8/82 (75 & 2723) ghi lại.


530- Ông Abdullah bin Khubaib  kể: Rasul  nói với tôi:

((اِقْرَأْ: قُلْ هُوَ اللهُ أَحَدٌ، وَالْمُعَوِّذَتَيْنِ حِيْنَ تُمْسِي وَحِينَ تُصْبحُ، ثَلَاثَ مَرَّاتٍ تَكْفِيْكَ مِنْ كُلِّ شَيْءٍ))

Anh hãy đọc chương: (قُلْ هُوَ اللهُ أَحَدٌ) và hai chương sau đó vào mỗi sáng và mỗi chiều ba lần sẽ được bảo vệ tránh khỏi mọi điều.” Hadith do Abu Dawood (5082) và Al-Tirmizhi (3575) ghi lại và nói: (Hadith Hasan Saheeh).
531- Ông U’thmaan bin Affaan  dẫn lời Rasul  rằng:

((مَا مِنْ عَبْدٍ يَقُولُ فِي صَبَاحِ كُلِّ يَوْمٍ وَمَسَاءِ كُلِّ لَيْلَةٍ: بِسْمِ اللهِ الَّذِي لَا يَضُرُّ مَعَ اسْمِهِ شَيْءٌ فِي الأَرْضِ وَلاَ فِي السَّمَاءِ وَهُوَ السَّمِيعُ العَلِيمُ، ثَلاثَ مَرَّاتٍ ، إِلاَّ لَمْ يَضُرَّهُ شَيْءٌ))

Bất cứ người nào nói vào mỗi sáng và mỗi chiều câu: Bis mil la hil la zi la ya dhur ru ma a’s mi hi shay in fil ar dhi, wa la fis sa ma i, wa hu was sa mi u’l a’ lim, lặp lại ba lần, sẽ chẳng có gì gây hại được y.

(Ý nghia: Ai tán dương như vậy ba lần vào mỗi sáng và mỗi chiều thì không có gì làm hại đến y). Hadith do Abu Dawood (5088 & 5089), Ibnu Maajah (3869) và Al-Tirmizhi (3388) ghi lại và nói: (Hadith Hasan Saheeh).

dkf
IV- MỤC CẦU XIN

57- CHƯƠNG LỆNH PHẢI CẦU XIN, ÂN PHƯỚC VÀ NHỮNG LỜI CẦU XIN CỦA NABI
Allah phán:

ﮋوَقَالَ رَبُّكُمُ ٱدۡعُونِيٓ أَسۡتَجِبۡ لَكُمۡۚﮊ غافر: ٦٠

Và Thượng Đế của các ngươi phán rằng: “Hãy cầu xin TA đi sẽ được TA đáp lại cho các ngươi. Ghaafir: 60 (chương 40), Allah phán ở chương khác:

ﮋٱدۡعُواْ رَبَّكُمۡ تَضَرُّعٗا وَخُفۡيَةًۚ إِنَّهُۥ لَا يُحِبُّ ٱلۡمُعۡتَدِينَ ٥٥ﮊ الأعراف: 55

Các người hãy cầu xin Thượng Đế các người thật trịnh trọng và từ tốn. Quả thật, Ngài không yêu thích những kẻ làm điều quá đáng. Al-A'raaf: 55 (chương 7), Allah phán ở chương khác:

ﮋوَإِذَا سَأَلَكَ عِبَادِي عَنِّي فَإِنِّي قَرِيبٌۖ أُجِيبُ دَعۡوَةَ ٱلدَّاعِ إِذَا دَعَانِۖﮊ البقرة: ١٨٦

Và khi bầy tôi của TA hỏi Ngươi Muhammad về TA thì hãy bảo họ rằng TA luôn gần kề. TA sẽ đáp lại lời cầu xin của người cầu nguyện khi y cầu xin TA. Al-Baqarah: 186 (chương 2), Allah phán ở chương khác:

ﮋأَمَّن يُجِيبُ ٱلۡمُضۡطَرَّ إِذَا دَعَاهُ وَيَكۡشِفُ ٱلسُّوٓءَﮊ النمل: 62

Há (không ưu việt ư !) Đấng đã đáp lại lời cầu xin của người hoạn nạn và giúp y thoát khỏi nạn kiếp. Al-Naml: 62 (chương 27).

532- Ông Al-Nu’maan bin Basheer  dẫn lời Rasul  rằng:

((الدُّعَاءُ هُوَ العِبَادَةُ))

Lời cầu xin là sự hành đạo.” Hadith do Abu Dawood (1479), Ibnu Maajah (3828), Al-Tirmizhi (2969, 3247 & 3372) ghi lại.


533- Bà A’-y-shah  kể: “Rasul rất thích cầu xin bằng lời lẽ súc tích và Người bỏ hết mọi lời cầu xin khác.” Hadith do Abu Dawood (1482) ghi lại.
534- Ông Anas  kể: Rasul  cầu xin nhiều nhất là câu:

((اللَّهُمَّ آتِنَا في الدُّنْيَا حَسَنَةً، وَفِي الآخِرَةِ حَسَنَةً، وَقِنَا عَذَابَ النَّارِ))

(Ol lo hum ma a ti na fid dun ya ha sa nah, wa fil a khi ra ti ha sa nah, wa qi na a’ za ban naar)

(Ý nghĩa:Lạy Allah, xin hãy ban cho bầy tôi mọi điều tốt đẹp ở trần gian lẫn cả ngày sau và xin cứu vớt bầy tôi thoát khỏi hành phạt của hỏa ngục). Hadith do Al-Bukhary 8/102 (6389) và Muslim 8/68 (26 & 2690) ghi lại.


535- Con trai ông Mas-u’d  kể: Rasul  đã câu xin:

((اللَّهُمَّ إِنِّي أَسْألُكَ الهُدَى، وَالتُّقَى، وَالْعَفَافَ، وَالْغِنَى))

(Ol lo hum ma in ny as a lu kal hu da, wat tu qa, wal a’ fa fa, wal ghi na)

(Ý nghĩa: Lạy Allah, xin hãy ban cho bề tôi sự hướng dẫn, lòng biết kính sợ, biết tự chủ bản thân và sự giàu có). Hadith do Muslim ghi lại.


536- Ông Taariq bin Ashyam  kể: Trước kia khi ai đó vào Islam là Rasul  dạy họ cách hành lễ Salah và dạy họ lời cầu xin:

((اللَّهُمَّ اغْفِرْ لِي، وَارْحَمْنِي، وَاهْدِني، وَعَافِني، وَارْزُقْنِي))

(Ol lo hum magh fir ly, war ham ny, wah din ny, wa a’ fi ny, war zuq ny)

(Ý nghĩa: Lạy Allah xin hãy dung thứ, thương xót, hướng dẫn, độ lượng và ban bố cho bề tôi). Hadith do Muslim 8/71 (35, 36 & 2697) ghi lại.

Theo đường truyền khác cũng của ông Taariq đã nghe được câu hỏi của một người đàn ông: Thưa Rasul, khi cầu xin Thượng Đế tôi cần cầu xin ra sao?, Người đáp:

((قُلْ:اللَّهُمَّ اغْفِرْ لِي، وَارْحَمْنِي، وَعَافِني، وارْزُقْنِي، فَإِنَّ هَؤُلاَءِ تَجْمَعُ لَكَ دُنْيَاكَ وَآخِرَتَكَ))

Hãy nói: Ol lo hum magh fir ly, war ham ny, wah din ny, wa a’ fi ny, war zuq ny. Chắc chắn những lời này sẽ man lại cho anh mọi điều tốt đẹp ở trần gian và ngày sau.
537- Ông Abdullal bin Al-A’s dẫn lời Rasul  rằng:

((اللَّهُمَّ مُصَرِّفَ القُلُوبِ صَرِّفْ قُلُوبَنَا عَلَى طَاعَتِكَ))

(Ol lo hum ma mu sor ri fal qu loob, sor rif qu lu ba na a’ la ta a’ tik)

(Ý nghĩa: Lạy Allah, Đấng thay đổi lòng người, xin hãy thay đổi lòng bầy tôi lòng đến với sự phục tùng Ngài). Hadith do Muslim 8/51 (17 & 2654) ghi lại.


538- Ông Abu Hurairah  dẫn lời Rasul  rằng:

((تَعَوَّذُوا بِاللهِ مِنْ جَهْدِ البَلاَءِ، وَدَرَكِ الشَّقَاءِ، وَسُوءِ القَضَاءِ، وَشَمَاتَةِ الأَعْدَاءِ))

Các người hãy câu xin Allah tránh khỏi sự nghèo khổ, sự bất hạnh, mọi định mệnh xấu và sự chế nhạo của kẻ thù.” Hadith do Al-Bukhary 8/157 (6616) và Muslim 8/76 (53 & 2707) ghi lại.
539- Ông Abu Hurairah  dẫn lời Rasul  rằng:

((اللَّهُمَّ أَصْلِحْ لِي دِينِي الَّذِي هُوَ عِصْمَةُ أَمْرِي، وَأَصْلِحْ لِي دُنْيَايَ الَّتي فِيهَا مَعَاشِي، وَأَصْلِحْ لِي آخِرتِي الَّتي فِيهَا مَعَادِي، وَاجْعَلِ الحَيَاةَ زِيَادَةً لِي فِي كُلِّ خَيْرٍ، وَاجْعَلِ المَوتَ رَاحَةً لِي مِنْ كُلِّ شَرٍّ))

(Ol lo hum ma os leh ly di ni yal la zi hu wa i’s ma tu am ry, wa os leh ly dun ya yal la ti fi ha ma a’ shy, wa os leh ly a khi ra ti al la ti fi ha ma a’ dy, waj a’ lil ha ya ta zi y da tan ly fi kul li khoir, waj a’ lil maw ta ra ha tan ly min kul li shar)

(Ý nghĩa: Lạy Allah! Xin hãy cải thiện tôn giáo của bề tôi cho bề tôi, bởi nó là thần hộ mệnh của bệ tôi, xin hãy cải thiện trần gian cho bề tôi, bởi nó là sự sống của bề tôi, xin hãy cải thiện ngày sau cho bề tôi, bởi nó là nơi bề tôi phải trở về, xin hãy ban cho bề tôi thêm mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống và xin hãy ban cho cái chết là sự nhẹ nhàng cho bề tôi tránh được mọi điều xấu). Hadith do Muslim 8/81 (71 & 2720) ghi lại.


540- Ông Aly  kể: Rasul  bảo tôi rằng:

((قُلْ: اللَّهُمَّ اهْدِنِي، وسَدِّدْنِي))

Con hãy nói: Ol lo hum mah di ny, wa sad did ny.

(Ý nghĩa: Lạy Allah, xin hãy chỉ đạo bề tôi và ban cho bề tôi luôn kiên định trên đường ngoan đạo).

Theo đường truyền khác thì ghi:

((اللَّهمَّ إِنِّي أَسْأَلُكَ الْهُدَى وَالسَّدَادَ))

(Ol lo hum ma in ny as a lu kal hu da was sa daad). Hadith do Muslim 8/83 (78 & 2725) ghi lại.
541- Ông Anas  kể: Rasul  đã cầu xin rằng:

((اللَّهُمَّ إنِّي أَعُوذُ بِكَ مِنَ العَجْزِ، وَالكَسَلِ، وَالجُبْنِ، وَالْهَرَمِ، وَالْبُخْلِ، وَأَعُوذُ بِكَ مِنْ عَذَابِ الْقَبْرِ، وَأَعُوْذُ بِكَ مِنْ فِتْنَةِ المَحْيَا وَالمَمَاتِ))

“Ol lo hum ma in ny a u’ zu bi ka mi nal a’j zi wal ka sal, wal jub ni wal ha ra mi wal bukh li. Wa a u’ zu bi ka min a’ za bil qab ri, wa a u’ zu bi ka min fit na til mah ya wal ma maat”

(Ý nghĩa: Lạy Allah! bề tôi cầu xin Ngài tránh khỏi sự bê bối (về nhiệm vụ hành đạo), lười biếng (hành đạo trong lúc có khả năng), lơ là (việc hành đạo bắt buộc), yếu đuối lúc già nua và keo kiệt. Cầu xin Ngài che chở khỏi hành phạt trong mộ phần và mọi thử thách xấu trong cuộc sống và lúc chết).

Theo đường truyền khác ghi thêm:

((وَضَلَعِ الدَّيْنِ، وَغَلَبَةِ الرِّجَالِ))

(wa dha la i’d dain, wa gha la ba tir ri jaal)

(Ý nghĩa: thiếu nợ và sợ hãi ai đó). Hadith do Al-Bukhary 8/97 (6363) & 98 (6367) và Muslim 8/75 (50 & 2706) ghi lại.


542- Ông Abu Bakr Al-Siqqeed  kể: Tôi đã hỏi Rasul : Xin hãy dạy tôi lời cầu xin để tôi cầu xin tron lúc hành lễ Salah, Người nói:

((اللَّهُـمَّ إِنِّـي ظَلَمْتُ نَفْسِـي ظُلْمـاً كَثِـيرًا، وَلاَ يَغْفِـرُ الذُّنُـوبَ إِلاَّ أَنْتَ، فَاغْفِـرْ لِـي مَغْفِـرَةً مِـنْ عِنْـدِكَ، وَارْحَمْنِـي، إِنَّك أَنْتَ الْغَفُـورُ الرَّحِيـمُ))

(Ol lo hum ma in ny zo lam tu naf sy zul manh ka thi ra, wa la yagh fi ruz zu nu ba il la an ta, fagh fir ly magh fi ra tanh min i’n dik, war ham ny, in na ka an tal gha fu rur ra him)

(Ý nghĩa: Lạy Allah! Quả thực, bề tôi đã sai quấy rất nhiều, không ai có khả năng tha thứ cho sự sai quấy đó mà chỉ có Ngài. Cầu xin hãy dung thứ, khoan dung cho bề tôi. Quả thực, Ngài là Đấng Rất Mực Khoan Dung, Rất Mực Nhân Từ). Hadith do Al-Bukhary 8/89 (6326) & 9/144 (7387 & 7388) và Muslim 8/74 (48 & 2705) ghi lại.


543- Ông Abu Musa  kể: Rasul  đã cầu xin:

((اللَّهُمَّ اغْفِرْ لِي خَطِيئَتِي وَجَهْلِي، وَإِسرَافِي فِي أَمْرِي، وَمَا أَنْتَ أَعْلَمُ بِهِ مِنِّي، اللَّهُمَّ اغْفِرْ لِي جِدِّي وَهَزْلِي، وَخَطَئِي وَعَمْدِي، وَكُلُّ ذَلِكَ عِنْدِي، اللَّهُمَّ اغْفِرْ لِي مَا قَدَّمْتُ وَمَا أخَّرْتُ، وَمَا أَسْرَرْتُ وَمَا أعْلَنْتُ، وَمَا أَنْتَ أَعْلَمُ بِهِ مِنِّي، أَنْتَ المُقَدِّمُ، وَأَنْتَ الْمُؤَخِّرُ، وَأَنْتَ عَلَى كُلِّ شَيْءٍ قَدِيرٌ))

(Ol lo hum magh fir ly kho ti a ty wa jah ly, wa is ra fy fi am ry, wa ma an ta a’ la mu bi hi min ny. Ol lo hum magh fir jid dy wa haz ly, wa kho to y wa a’m dy, wa kul lu za li ka i’n dy. Ol lo hum magh fir ly ma qad dam tu wa ma akh khar tu, wa ma as rar tu wa ma a’ lan tu, wa ma an ta a’ la mu bi hi min ny, an tal mu qad di mu wa an tal mu akh khi ru, wa an ta a’ la kul li shay in qa deer)

(Ý nghĩa: Lạy Allah, xin hãy dung thứ mọi tội lỗi của bề tôi do sai lầm, do vô thức, do lơ là và tất cả tội lỗi mà Ngài am tường hơn bề tôi, xin hãy tha thứ mọi tội lỗi do bề tôi nói thật hay nói đùa, do lỡ tay cũng như cố ý và tất cả mọi tội lỗi khác do bề tôi gây ra. Lạy Allah, cầu xin hãy dung thứ tất cả tội lỗi đã phạm trước kia và sau này, về những tội lỗi mà bề tôi còn giấu giếm hoặc đã truyền bá, những tội lỗi đã phạm nhiều lần, và về những tội lỗi mà Ngài biết rõ hơn bề tôi. Ngài là Đấng bắt đầu cũng là Đấng kết thúc và Ngài có khả năng trên tất cả mọi việc). Hadith do Al-Bukhary 8/105 (6399) và Muslim 8/80 (70 & 2719) ghi lại.


544- Bà A’-y-shah  kể: Rasul  đã cầu xin rằng:

((اللَّهُمَّ إِنِّي أَعُوذُ بِكَ مِنْ شَرِّ مَا عَمِلْتُ وَمِنْ شَرِّ مَا لَمْ أَعْمَلْ))

(Ol lo hum ma in ny a u’ zu bi ka min shar ri ma a’ mil tu wa min shar ri ma lam a’ mal)

(Ý nghĩa: Lạy Allah, cầu xin Ngài che chở tránh mọi điều xấu do bề tôi đã làm và chưa kịp làm còn trong dự định). Hadith do Muslim 8/79 (66 & 2716) ghi lại.


545- Con trai ông U’mar  kể: Trong những lời cầu xin của Rasul  là:

((اللَّهُمَّ إِنِّي أَعُوذُ بِكَ مِنْ زَوالِ نِعْمَتِكَ، وَتَحَوُّلِ عَافِيَتِكَ، وَفُجَاءَةِ نِقْمَتِكَ، وَجَمِيعِ سَخَطِكَ))

(Ol lo hum ma in ny a u’ zu bi ka min ne’ ma tik, wa ta haw wu li a’ fi ya tik, wa fu ja a ti niq ma tik, wa ja mi i’ sa kho tik)

(Ý nghĩa: Lạy Allah, cầu xin Ngài che chở tránh mất đi bổng lộc của Ngài, sức khỏe bị thay đổi, bị Ngài ghét bỏ và tất cả mọi điều Ngài chê bai.) Hadith do Muslim 8/88 (96 & 2739) ghi lại.


546- Ông Zaid bin Arqam  kể: Rasul  đã cầu xin:

((اللَّهُمَّ إِنِّي أَعُوذُ بِكَ مِنَ العَجْزِ وَالكَسَلِ، وَالْبُخْلِ وَالْهَرَمِ، وَعَذَابِ القَبْرِ. اللَّهُمَّ آتِ نَفْسِي تَقْوَاهَا، وَزَكِّها أَنْتَ خَيْرُ مَنْ زَكَّاهَا، أَنْتَ وَلِيُّهَا وَمَوْلاَهَا. اللَّهُمَّ إِنِّي أَعُوذُ بِكَ مِنْ عِلْمٍ لَا يَنْفَعُ، وَمِنْ قَلْبٍ لَا يَخْشَعُ، وَمِنْ نَفْسٍ لاَ تَشْبَعُ، وَمِنْ دَعْوَةٍ لَا يُسْتَجابُ لَهَا))

(Ol lo hum ma in ny a u’ zu bi ka mi nal a’j zi, wal ka sal, wal bukh li, wal ha ram, wa a’ za bil qab ri. Ol lo hum ma a ti naf sy taq wa ha, wa zak ki ha an ta khoi ru man zak ka ha, an ta wa li yu ha wa maw la ha. Ol lo hum ma in ny a u’ zu bi ka min i’l min la yan fa’, wa min qol bin la yakh sha’, wa min naf sin la tash ba’, wa min da’ wa tin la yus ta ja bu la ha)

(Ý nghĩa: Lạy Allah! bề tôi cầu xin Ngài tránh khỏi sự bê bối (về nhiệm vụ hành đạo), lười biếng (hành đạo trong lúc có khả năng), keo kiệt, yếu đuối lúc già nua và hành phạt trong mộ phần. Lạy Allah, xin hãy ban cho bản thân bề tôi biết kính sợ, xin hãy tân bốc nó bởi sự tân bốc của Ngài là tốt nhất, Ngài là Chủ Nhân và là Thượng Đế của nó. Lạy Allah, cầu xin Ngài tránh khỏi mọi kiến thức vô bổ, khỏi con tim không biết kính sợ, một tấm lòng không hề biết thỏa mãn và lời cầu xin không được đáp lại). Hadith do Muslim 8/81 (73 & 2722) ghi lại.


547- Con trai ông A’bbaas  kể: Rasul  cầu xin rằng:

((اللَّهُمَّ لَكَ أَسْـلَمْتُ، وَعَلَيْكَ تَوَكَّلْتُ، وَبِكَ آمَنْتُ، وَإِلَيْكَ أَنَبْتُ، وَبِكَ خَاصَمْتُ، وَإِلَيْكَ حَاكَمْتُ. فَاغْفِرْ لِـي مَـا قَدَّمْتُ، وَمَـا أَخَّرْتُ، وَمَـا أَسْرَرْتُ، وَمَا أَعْلَنْتُ، أَنْتَ الْمُقَدِّمُ، وَأَنْتَ الْمُؤَخِّرُ لاَ إِلَـٰهَ إِلاَّ أَنْتَ، أَنْتَ إِلَـٰهِـي لاَ إِلَـٰهَ إِلاَّ أَنْتَ))

(Ol lo hum ma la ka as lam tu, wa a’ lay ka ta wak kal tu, wa bi ka a man tu, wa i lay ka a nab tu wa bi ka kho sam tu, wa i lay ka ha kam tu, fagh fir ly ma qad dam tu wa ma akh khar tu, wa ma as rar tu wa ma a’ lan tu, wa ma an ta a’ la mu bi hi min ny, an tal mu qad di mu wa an tal mu akh khi ru la i la ha il la an ta, an ta i la hy la i la ha il la an ta)

(Ý nghĩa: Lạy Allah! Vì Ngài bề tôi phủ phục, vì Ngài bề tôi phó thác, vì Ngài bề tôi tin tưởng, vì Ngài bề tôi sám hối và vì Ngài bề tôi thánh chiến và cũng vì Ngài bề tôi phân xử. Cầu xin hãy tha tội cho bề tôi về những gì đã làm trong quá khứ cũng như những gì chưa làm trong tương lai và về những việc làm thầm kín cũng như những việc đã phô bày. Ngài là Đấng bắt đầu cũng là Đấng kết thúc, không có Thượng Đế nào xứng đáng được thờ phụng ngoại trừ Ngài, Ngài là Thượng Đế của bề tôi mà không có Thượng Đế nào xứng đáng được thờ phụng ngoại trừ Ngài).

Vài đường truyền khác ghi thêm rằng:

((وَلاَ حَـوْلَ وَلاَ قُـوَّةَ إِلاَّ بِاللهِ))

(Wa la haw la wa la qu wa ta il la bil lah)

(Ý nghĩa: Không có sự chuyển động nào chuyển động và cũng không có quyền lực nào phát huy ngoại trừ Allah muốn). Hadith do Al-Bukhary 2/60 (1120) và Muslim 2/184 (199 & 769) ghi lại.


548- Bà A’-y-shah kể: Rasul  đã cầu xin rằng:

((اللَّهُمَّ إِنِّي أَعُوذُ بِكَ مِنْ فِتْنَةِ النَّارِ، وَعَذَابِ النَّارِ، وَمِنْ شَرِّ الغِنَى وَالفَقْرِ))

(Ol lo hum ma in ny a u’ zu bi ka min fit na tin naar, wa a’ za bin naar, wa min shar ril ghi na wal faq ri)

(Ý nghĩa: Lạy Allah, xin Ngài che chở bề tôi thoát khỏi mọi điều xấu từ lửa và khỏi hành phạt của hỏa ngục, tránh khỏi mọi điều xấu do sự giàu sang cũng như nghèo khó gây ra). Hadith do Abu Dawood (1543) và Al-Tirmizhi (3495) ghi lại và nói: (Hadith Hasan Saheeh), lời Hadith này là của Abu Dawood.


549- Ông Ziyaad bin A’laqah được truyền lại từ người (chú) bác ông Qutbah bin Maalik  kể: Rasul  đã cầu xin rằng:

((اللَّهُمَّ إِنِّي أَعُوذُ بِكَ مِنْ مُنْكَرَاتِ الْأَخْلاَقِ، وَالأَعْمَالِ، وَالْأَهْوَاءِ))

(Ol lo hum ma in ny a u’ zu bi ka min mun ka ra til akh laaq, wal a’ maal, wal ah wa)

(Ý nghĩa: Lạy Allah, xin Ngài che chở tránh mọi điều xấu của nhân cách, của việc làm và của sở thích.)Hadith do Al-Tirmizhi (3591) ghi lại và nói: (Hadith Hasan)


550- Ông Shakal bin Humair  kể: Tôi đã nói: Thưa Rasul, xin hãy dạy cho tôi lời cầu xin, Người đáp:

((قُلْ: اللَّهُمَّ إِنِّي أَعُوذُ بِكَ مِنْ شَرِّ سَمْعِي، وَمِنْ شَرِّ بَصَرِي، وَمِنْ شَرِّ لِسَانِي، وَمِنْ شَرِّ قَلْبِي، وَمِنْ شَرِّ مَنِيِّي))

Anh hãy cầu xin: Ol lo hum ma in ny a u’ zu bi ka min shar ri sam y’, wa min shar ri ba so ry, wa min shar ri li sa ny, wa min shar ri qol by wa min shar ri ma ni yi.

(Ý nghĩa: Lạy Allah, cầu xin Ngài che chở tránh mọi điều xấu từ cái nghe, từ cái nhìn, từ lời nói, từ sự suy nghĩ và từ sự khao khát tình dục). Hadith do Abu Dawood (1551), Al-Tirmizhi (3492) và Al-Nasaa-y 8/255, 259, 260 và 267 trong bộ Al-Kubra (7875, 7877 & 7891) ghi lại và nói: (Hadith Hasan).


551- Ông Anas  kể: Rasul  đã cầu xin rằng:

((اللَّهُمَّ إِنِّي أَعُوذُ بِكَ مِنَ البَرَصِ، وَالجُنُونِ، وَالْجُذَامِ، وَسَيِّيءِ الأسْقَامِ))

(Ol lo hum ma in ny a u’ zu bi ka mi nal ba ros, wal junoon, wal ju zaam, wa say yi il as qaam)

(Ý nghĩa: Lạy Allah, xin hãy che chở bề tôi tránh khỏi bệnh bạch tạng, bệnh thần kinh, bệnh cùi hủi và bệnh nan y.) Hadith do Abu Dawood (1554) ghi lại.


552- Ông Abu Hurairah  kể: Rasul  đã cầu xin rằng:

((اللَّهُمَّ إِنِّي أَعُوذُ بِكَ مِنَ الجُوعِ، فَإِنَّهُ بِئْسَ الضَّجِيعُ، وَأَعُوذُ بِكَ منَ الخِيَانَةِ، فَإِنَّهَا بِئْسَتِ البِطَانَةُ))

(Ý nghĩa: Lạy Allah, xin hãy che chở bề tôi thoát khỏi đói khát, bởi nó là căn bệnh làm cho bề tôi ngủ li bì, xin hãy che chở bề tôi tránh khỏi gian lận bởi nó là bản tính rất xấu xa.) Hadith do Abu Dawood (1547), Ibnu Maajah (3354) và Al-Nasaa-y 8/263 trong bộ Al-Kubra (7903) ghi lại.
553- Ông Aly  kể: Một nô lệ muốn tự chuộc thân nhưng bất lực tìm đến Aly và nói: Tôi không thể tự chuộc thân mình, xin hãy giúp tôi. Aly đáp: Tôi sẽ chỉ cho anh một câu cầu xin chính Rasul  đã dạy tôi, nếu anh cầu xin sẽ được Allah giúp anh giải quyết hết nợ nầy cho dù nợ có to như quả núi, hãy cầu xin:

((اللَّهُمَّ اكْفِنِي بِحَلاَلِكَ عَنْ حَرَامِكَ، وَأَغْنِنِي بِفَضْلِكَ عَمَّنْ سِوَاكَ))

(Ol lo hum mak fi ny bi ha la li ka a’n ha ra mik, wa agh ni ny bi fadh li ka a’m man si waak)

(Ý nghĩa: Lạy Allah! Cầu xin hãy thay đổi (cuộc đời) bề tôi bằng những bổng lộc sạch sẽ (halal), chứ đừng bằng những bổng lộc dơ bẩn (haram). Hãy ban cho bề tôi sự giàu có bằng sự biệt đãi của Ngài, không ai có thể làm được mà chỉ có Ngài). Hadith do Al-Tirmizhi (3563) ghi lại và nói: (Hadith Hasan).


554- Cha của Al-Fadh-l ông Al-A’bbaas bin Abdul Muttalib  kể: Tôi nói: Thưa Rasul, xin hãy dạy tôi lời để cầu xin Allah, Người bảo:

((سَلوا اللهَ العَافِيَةَ))

Hãy cầu xin Ngài được bình an.” Vài ngày sau trôi qua tôi tìm đến Người tiếp và nói: Thưa Rasul, xin hãy dạy tôi lời cầu xin để tôi cầu xin Allah, Người bảo:

((يَا عَبَّاسُ، يَا عَمَّ رَسُوْلَ اللهِ، سَلُوا اللهَ العَافِيَةَ فِي الدُّنيَا وَالْآخِرَةِ))

Này A’bbaas, bác của Rasul Allah, bác hãy cầu xin Allah được bình an ở trần gian và ngày sau.” Hadith do Al-Tirmizhi (3514) ghi lại và nói: (Hadith Hasan Saheeh).
555- Ông Shahr bin Hawshab  kể: Tôi nói với bà Um Salamah : Này mẹ của nhóm người có đức tin, trước kia lúc ở bên cạnh bà Rasul  thường cầu xin nhiều nhất điều gì? Bà đáp: Người thường cầu xin câu:

((يَا مُقَلِّبَ القُلُوبِ ثَبِّتْ قَلْبِي عَلَى دِينِكَ))

(Ya mu qal li bal qu loob, thab bit qal by a’ la di nik)

(Ý nghĩa: Lạy Đấng có khả năng thay đổi lòng người, xin hãy ban cho lòng bề tôi luôn kiên định trên tôn giáo Ngài). Hadith do Al-Tirmizhi (3522) ghi lại.


556- Ông Anas  dẫn lời Rasul  rằng:

((أَلِظُّوا بِيَاذَا الجَلاَلِ وَالْإِكْرَامِ))

Các người hãy luôn mở lời cầu xin bằng câu: Ya zal ja la li wal ik raam.

(Ý nghĩa: Lạy Đấng Hùng Mạnh và Rộng Lượng.) Hadith do Al-Tirmizhi (3525) ghi lại từ Anas, Al-Nasaa-y trong bộ Al-Kubra (7716) và Al-Haakim 1/498 – 499 ghi lại từ Rabee-a’h.


557- Ông Abu Umaamah  kể: Tôi nói: Thưa Rasul, tôi đã nghe được Rasul cầu xin rất nhiều lời nhưng tôi lại không thuộc được câu nào. Người nói:

((أَلَا أَدُلُّكُمْ عَلَى مَا يَجْمَعُ ذَلِكَ كُلَّهُ ؟ تَقُوْلُ: اللَّهُمَّ إنِّي أَسَألُكَ مِنْ خَيْرِ مَا سَأَلَكَ مِنْهُ نَبِيُّكَ محمَّدٌ ؛ وَأَعُوذُ بِكَ مِنْ شَرِّ مَا استَعَاذَ مِنْهُ نَبِيُّكَ مُحَمَّدٌ ، وَأَنْتَ الْمُسْتَعانُ، وَعَليْكَ البَلاَغ، وَلاَ حَولَ وَلاَ قُوَّةَ إِلاَّ بِاللهِ))

Ta sẽ chỉ cho anh câu cầu xin gom hết tất cả những gì Ta đã cầu xin, hãy cầu: Ol lo hum ma in ny as a lu ka min khoi ri ma sa a la ka min hu na bi yu ka Muhammad , wa a u’ zu bi ka min shar ri mas ta a’ za min hu na bi yu ka Muhammad , wa an tal mus ta a’n, wa a’ lay kal ba lagh, wa la haw la va la qu wa ta il la bil lah.

(Ý nghĩa: Lạy Allah, bề tôi cầu xin Ngài mọi điều tốt đẹp mà Nabi Muhammad của Ngài đã từng cầu xin; và cầu xin Ngài che chở tránh mọi điều xấu mà Nabi Muhammad của Ngài đã từng cầu xin che chở. Ngài là Đấng duy nhất để bề tôi nương tựa và nhờ cậy, quả thật không có sự chuyển động nào chuyển động và cũng không có quyền lực nào phát huy ngoại trừ Allah muốn). Hadith do Al-Tirmizhi (3521) ghi lại.

dkf


Каталог: data
data -> HƯỚng dẫn càI ĐẶt và SỬ DỤng phần mềm tạo bài giảng e-learning
data -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
data -> Qcvn 81: 2014/bgtvt
data -> Trung taâm tin hoïC Ñhsp ñEÀ thi hoïc phaàn access
data -> PHỤ LỤC 2 TỔng hợp danh mục tài liệu tham khảO
data -> Công ty cổ phần Xây dựng Điện vneco3
data -> Nghiên cứu một số đặc điểm
data -> NHỮng đÓng góp mới của luậN Án tiến sĩ CẤP ĐẠi học huế Họ và tên ncs : Nguyễn Văn Tuấn
data -> Mẫu 01/hc-sn-dn (Ban hành kèm theo Thông tư số 83/2007/tt-btc ngày 16/7/2007 của Bộ Tài chính) TỜ khai hiện trạng sử DỤng nhà, ĐẤt thuộc sở HỮu nhà NƯỚc và ĐỀ xuất phưƠng án xử LÝ

tải về 5.32 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương