Tinh hoa và SỰ phát triển của ĐẠo phật buddhism- its Essence and Development



tải về 1.45 Mb.
trang5/38
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích1.45 Mb.
#37968
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   38

THUYẾT BI QUAN TRIỆT ĐỂ


Một khía cạnh khác của thuyết anattà, cốt khước từ tất cả những gì tạo thành hay lôi cuốn cái ngã thực nghiệm đã khiến cho Đạo Phật nổi tiếng là một đức tin “bi quan”.  Quả thật thế giới này, nghĩa là tất cả những gì hữu hạn và vô thường, đều bị rứt khoát coi như hoàn toàn xấu xa, hoàn toàn thấm nhiễm đau khổ, đáng bị bỏ rơi hoàn toàn, vì một cứu cánh duy nhất, Niết Bàn.  Tuy nhiên, tôi không hoàn toàn chắc chắn rằng “thuyết bi quan triệt để” này có đúng là một danh từ thích hợp để chỉ thái độ đó đối với thế giới không.  Những quan sát viên ở những nước Phật giáo như Miến Điện, Tây Tạng ghi nhận rằng dân cư ở đây bản chất vui vẻ, sung sướng nữa - người thường cũng như thầy tu.  Thật là bối rối khi thấy nỗi u-uẩn bi quan người đọc trong kinh điển Phật giáo lại phản chiếu bằng một thái độ vui vẻ đến thế.  Thế giới này có thể là một đại dương nước mắt, nhưng còn có nguồn vui khi trút bỏ gánh nặng.  Phải khước từ thế giới.  Nhưng nếu có thiên đàng khi từ bỏ thế giới, phần lợi vô song so với phần mất mát.  Trong mọi trường hợp, điều tốt nhất chúng ta có thể làm trước một danh từ như “chủ nghĩa bi quan” là gạt nó sang một bên và nhìn thẳng vào vấn đề.

Thái độ Tiêu cực của những tư tưởng gia Phật giáo đối với thế giới có liên hệ rõ rệt với vấn đề ý nghĩa cuộc đời và định mệnh con người.  Mặc dầu vấn đề khó khăn thế nào chăng nữa, và mặc dầu thái độ quan tâm tới vấn đề đó của chúng ta có vẻ thiếu khoa học thế nào đi nữa, chúng ta vẫn phải tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề này, bởi vì tất cả hạnh phúc và sự phong phú của cuộc đời chúng ta tùy thuộc câu trả lời nàỵ  Quan điểm về bản chất và định mệnh con người hay ý nghĩa của cuộc nhân sinh, một cách tổng quát, có thể xếp vào hai loại: Theo một số người, con người là sản phẩm của trần gian.  Trái đất là nhà hắn.  Công việc của hắn là làm sao cảm thấy ở nhà mình trên trái đất.  Tự bảo tồn là luật cao viễn nhất, có thể kể là một bổn phận, của con người.  Những người khác, trái lại, tin rằng con người là một tinh thần bất an, một linh hồn xa đọa từ thiên đàng, một kẻ lạ mặt trên trái đất.  Bổn phận của hắn là khôi phục lại trạng thái hoàn hảo trước khi xa đọa xuống trần.  Tự khước từ là luật cao cả nhất và là bổn phận của con người.

Nền văn minh hiện tại của chúng ta đề cao quan điểm thứ nhất, Phật giáo quan điểm thứ hai.  Dĩ nhiên chủ trương rằng những con đuờng này có thể quyết định bằng luận chứng suông là một việc làm vô ích.  Trong tất cả mọi quyết định về giá trị người ta phải cẩn thận tránh không được đề cao sở thích, khí chất và lòng ưa chuộng lên ngang hàng với luật khách quan và tự nhiên.  Người ta chỉ được lựa chọn thế đứng của mình và không được ép buộc người khác theo mình.  Quan điểm của Phật giáo chỉ thích hợp với những người đã hoàn toàn tuyệt vọng với đời, với mình, người hết sức nhậy cảm với khổ đau, và bất cứ một hỗn loạn nào, người khao khát hạnh phúc, và có đủ khả năng từ bỏ.  Không có người Phật tử nào giả định rằng tất cả mọi người đều có thể hoặc muốn hiểu tôn giáo của mình.

Người Phật-tử tìm kiếm một nguồn hạnh phúc vẹn toàn bên kia thế gian nàỵ  Tại sao hắn có nhiều tham-vọng thế ?  Tại sao không bằng lòng vun quán hạnh phúc dù giới hạn của trần gian có hơn không ?  Câu trả lời là, trong thực tế, người ta không thấy chúng ta bằng lòng.  Nếu sự gia tăng tiện nghi vật chất và thỏa mãn trần-tục có thể khiến chúng ta hài lòng thì những người dân ngoại ô thành phố Luân Đôn phải tươi tỉnh và bằng lòng hơn người cu ly Trung-Hoa và người nông dân Tây Ban Nha rất nhiều.  Thực tế lại ngược lại hẳn.  Bản chất con người, theo quan điểm Phật giáo, được cấu tạo để chúng ta chỉ có thể mãn nguyện với thường trụ trọn-vẹn, dễ chịu trọn vẹn, yên ổn trọn vẹn.  Và không có điều nào trong những điều ấy chúng ta có thể tìm thấy trong cõi đời vô thường nàỵ

Khám phá mà những nhà triết gia và những nhà tâm lý học mới thực hiện trong những năm gần đây về những tầm quan trọng cực kỳ của nỗi xao xuyến trong tận cùng hiện thể chúng ta có một âm hưởng rất là Phật giáo.  Theo quan điểm tạo thành bởi Schler, Freud, Heidegger và Jaspers trong phần sâu thẳm của con người chúng ta có nỗi xao xuyến nền tảng, một khoảng trống nơi mà tất cả những hình thái âu lo và bất an tuôn trào.  Trong hình thức đơn thuần của nó, nỗi xao xuyến này chỉ được thực cảm nghiệm bởi những người có khuynh hướng nội quan và triết ly, và nó cũng chỉ được chứng nghiệm một cách hiếm hoi.  Nếu người ta không tự mình cảm thấy nó, không có một giải thích nào có thể thuyết phục người ta tin.  Nếu người ta đã cảm thấy nó rồi, người ta sẽ không bao giờ quên được nó dù người ta cố gằng thế nào đi nữa.  Nỗi xao xuyến đó thình lình đến với chúng ta khi chúng ta đang mơ màng, tách lìa thế giới; chúng ta vùng thức giấc giữa đêm tối, và cảm thấy một thứ kinh ngạc thấy mình ở đây, rồi điều đó đem đến sợ hãi và thảng thốt chỉ vì sự kiện hiện hữu đơn thuần.  Rồi chúng ta bắt được chúng ta, trong một khoảnh khắc, dưới chân một bức tường của một thứ hư vô bủa vây chung quanh, với một cảm giác bất lực, trần truồng cô đơn đối diện với sự kiện kinh hoàng thấy mình ở đâỵ  Thường thường chúng ta cố tránh kinh nghiệm này, bởi vì kinh nghiệm này đau đớn và chia xé con người chúng ta.  Luôn luôn, tôi cẩn thận tránh mặt tôi, nhưng “tôi” cộng với đủ loại kinh nghiệm của những kẻ khác.  Những người luôn luôn bận rộn, suốt ngày, những người luôn luôn phải nghĩ tới một điều gì, người luôn luôn phải làm một việc gì, là những người không ngừng chạy trốn cái kinh nghiệm xao xuyến nền tảng và uyên nguyên độc đáo nàỵ  Điều mà chúng ta thường làm là nương tựa và trông cậy vào một vài điều gì khác hơn là cái trung tâm hư không này của chúng ta.  Phật giáo cho rằng không bao giờ chúng ta có thể sung sướng, trước khi chúng ta chiến thắng được nỗi xao xuyến nền tảng này, và chúng ta chỉ có thể thực hiện được điều đó bằng cách không nương tựa vào bất cứ điều gì. 

---o0o---


BẤT TỬ TÍNH


Với viễn quan hùng tráng về bản chất con người, Phật giáo coi nỗ lực chiến đấu chinh phục bất tử của chúng ta là một việc hợp lý và hợp tình.  Mục tiêu của Phật giáo cũng như của nhiều tôn giáo khác, là thu phục bất tử, một cuộc sống không bị khuất phục bởi cái chết.  Đức Phật sau khi giác ngộ tuyên bố đã mở tung được “những cánh cửa của Bất diệt”.  Hiển nhiên có sự khác biệt sâu xa giữa sự tiếp nối của cá tính một bên và bất tử tính ở phía bên kia.  Bất tử tính đúng là đối cực của cuộc sống này, cuộc sống bị ràng buộc với cái chết và không thể vùng vẫy thoát khỏi.  Chúng ta bắt đầu lên đường đi đến cái chết lúc chúng ta mới chào đời.  Mức độ của sự biến hóa trong cơ thể bắt đầu chậm lại ngay sau khi thụ thai.  Sinh là nguyên nhân của tử diệt.  Mọi cảnh ngộ có thể gieo rắc chết chóc chỉ là cơ ngẫu sự sinh đẻ, đúng hơn sự thụ thai là nguyên nhân quyết định khiến cái chết không thể nào tránh được.  Đôi khi tôi tin rằng người Anh duy trì cái tập quán dễ thương trừng phạt tội nhân bằng cách treo cổ bởi vì hình thức gia hình này cho ta một biểu tượng khít khao về dòng đời.  Lúc thụ thao chúng ta nhẩy từ tấm ván xuống với một cái giây thòng lọng cuốn quanh cổ.  Rồi chúng ta sẽ bị xiết cổ - đó chỉ là vấn đề thời gian.  Chúng ta ý thức hoàn cảnh hiểm nghèo của chúng ta trong từng giây phút, tùy theo chúng ta có dám đối diện với nó hay không.  Làm sao người ta có thể cảm thấy dễ chịu được trong lúc chờ đợi ?  Bất tử tính vì thế không phải là một ước vọng kéo dài cá tính bị mua bằng một giá của một sự suy đồi không thể tránh được, nhưng là một ước vọng siêu việt cái cá tính nàỵ

Bây giờ giả dụ ông John Smith chán mứa cái trạng thái phù du của mọi vật, được tạo ra trong một thời gian ngắn hạn để lại bị hủy diệt ngaỵ  Giả dụ ông muốn trở nên bất tử.  Lúc đó ông không còn một lựa chọn nào khác hơn là tự khước từ mình trong suốt cuộc hiện hữu của ông.  Ông phải trừ bỏ tất cả những gì là vô thường trong ông.  Chúng ta hãy thử tưởng tượng cái gì của ông Smith còn lại sau khi ông đã trở nên bất tử.  Thân thể ông ta hiển nhiên mất đi.  Cùng với thân thể những bản năng của ông ta cũng biến mất -  vì chúng nối kết với thân thể.  Tinh thần của ông ta như ông ta biết nó, cũng bị hy sinh.  Bởi vì cái tinh thần này của chúng ta ràng buộc với những quá trình tiến của thân thể, sự vận hành của nó căn cứ trên những dữ kiện do những cơ quan vật lý của giác quan cung cấp, và tinh thần cho thấy tính cách vô thường của nó bằng cách nhẩy như vượn từ sự vật này qua sự vật khác không lúc nào ngơi nghỉ.  Cùng với tinh thần, cảm thức và sự nhất trí luận lý cũng ra đi.  Như thế, một khi trở thành bất tử ông Smith sẽ không còn nhận ra mình là ai nữa.  Ông đã mất hết tất cả những gì khiến ông và những người khác nhận biết ông.  Và ông ta sẽ chỉ có thể tái sinh nếu ông ta biết cách khước từ tất cả những gì làm mờ ám khía cạnh bất tử của con người ông - nằm bên ngoài ngũ uẩn như Phật giáo đã nói - nếu ông ta biết khước từ tất cả những gì tạo thành cái ngã nhỏ bé thân yêu của ông.  Phương pháp đào luyện của phật giáo, quả thực, nhằm làm muội lược một cách có hệ thống sự chấp thủ của chúng ta với những cái trong chúng ta ngăn cản chúng ta thư hồi lại bất tử tính mà chúng ta đã đánh mất khi ra chào đời.  Thân thể bị chinh phục, bản năng bị làm yếu đi, tâm trí thanh tĩnh, tư tưởng luận lý, bị ngăn chặn tiêu diệt bởi những điều phi lý, và sự kiện giác quan ít được nghĩ đến, con mắt của lòng tin và con mắt của trí tuệ thay cặp mắt của thân thể.  Người ta nhớ tới ngay huấn giới của John Wesley khi ông hối thúc đệ phải “tự giết mình từng chút một”.

Nhưng, như tôi đã nói, tất cả những điều đó tùy thuộc quan điểm của người ta đối với bản chất con người.  Những người nào chỉ nhìn con người như một sinh vật của trần gian sẽ có khuynh hướng so sánh khát vọng bất tử của Phật giáo với con sên rời bỏ nhà mình để làm một cuộc thám thiểm không gian.  Những người coi con người cốt yếu là một hiện thể tâm linh sẽ thích tỷ dụ của Phật giáo về những con thiên nga núi khi rời bỏ hồ nước trên núi, khi từ vũng nước này sang vũng nước khác mà không đậu ở đâu cho đến khi quay trở lại nhà của chúng trong làn nước trong vắt của cái hồ nước trên đỉnh cao.

 

---o0o---



Каталог: downloads -> sach -> quoc-te
quoc-te -> LƯỢc sử thời gian (a brief History of Time) Tác Giả:-Steven Hawking
quoc-te -> ĐƯỜng mây qua xứ tuyếT
quoc-te -> Tâm Lý Và Triết Học Phật Giáo Áp Dụng Trong Đời Sống Hằng Ngày Nguyên tác: "Abhidhamma in daily life"
quoc-te -> Những Chuyện Luân Hồi Hiện Đại tt. Thích Tâm Quang Dịch o0o Nguồn
quoc-te -> ÐẠi thừa và SỰ liên hệ VỚi tiểu thừa nguyên tác: Nalinaksha Dutt ht. Minh Châu Dịch, Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh 1999
quoc-te -> Chuyển sang ebook
quoc-te -> LƯỢc sử thời gian (a brief History of Time) Tác Giả:-Steven Hawking
quoc-te -> SẮc tưỚng và thật tưỚng vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái của Phật Giáo Prof. Guy Newland, Ph. D
quoc-te -> Con đƯỜng đẾn tĩnh lặng -tuệ Giác Hằng Ngày

tải về 1.45 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   38




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương