THẾ thân bồ TÁt câu xá luận tụng lưỢc thích I


Chương IV: Văn nghĩa của phần tựa



tải về 0.86 Mb.
trang6/19
Chuyển đổi dữ liệu13.03.2018
Kích0.86 Mb.
#36476
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   19

Chương IV: Văn nghĩa của phần tựa

Tiết 1: Quy kính và phát khởi


Phần tựa chia làm hai phần: Quy kính và phát khởi. Vậy, qui kính bậc hữu đức như thế nào? Và phát khởi phần chánh tông ra sao?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt: 

Chư nhất thiết chủng chư minh diệt


Bạt chúng sanh xuất sanh tử nê
Kính lễ như thị Như lý sư
Đối pháp Tạng luận ngã đương thuyết

Việt dịch: 

Các đấng đã dứt trừ nhất thiết chủng minh và chư minh,
Cứu vớt chúng sanh ra khỏi bùn sanh tử;
Kính lễ bậc Thầy Như lý như thế;
Tôi sẽ nói luận Đối pháp tạng.

Giải thích:

Trong bài tụng trên đây, ba câu đầu là tựa quy kính. Câu còn lại là tựa phát khởi

Chư, chỉ đức Thế Tôn.

Vì sao gọi đức Thế Tôn là “Chư[1]” (những vị)? Sở dĩ gọi đức Thế Tôn là “chư” (những vị) mà không nói thẳng danh hiệu Ngài, như Thích Ca Mâu Ni chẳng hạn, là vì Luận chủ muốn tránh lời chê bài của ngoại đạo, sợ họ cho rằng học trò thiên vị mà tán thán đức độ của thầy mình chứ không phải hết lòng yêu chuộng chân lý. Nay nêu chữ “chư” lên đầu là nhằm nói rằng bất luận thầy của mình hay của ngoại đạo, nếu vị nào đầy đủ trí tuệ đức, đoạn hoặc đức và đại bi đức thì Luận chủ đều quy kính. Tuy nhiên, bậc mà đầy đủ ba đức đó không ai khác hơn là đức Phật. Cho nên, nói “chư” chính là chỉ cho đức Phật vậy.

Nhất thiết chủng chư minh diệt:

Hai chữ “minh diệt” gồm tán thán qua hai phương diện: nhất thiết chủng[2] minh diệt và chư minh diệt. Vì rằng, “minh” (andhakāra, sự mờ ám) có hai thứ:

1. Nhất thiết chủng minh (sarvathā-andhakāra) tức liệt huệ. Liệt huệ này đối với tất cả sự lý không thể hiểu biết một cách rõ ràng. Nó thường làm cho tư tưởng của chúng ta hôn mê mờ ám. Đối với vạn sự vạn vật, lẽ ra chúng ta có thể hiểu biết một cách trọn vẹn, nhưng vì không có trí tuệ viên mãn cao thượng, cho nên đối với chúng, chúng ta không thể hiểu hoặc hiểu một cách mù mờ. Sở dĩ như vậy chính do liệt huệ làm chướng ngại.

2. Chư minh (sarva-andhakāra) tức phiền não. Phiền não chính là cơ năng làm nhiễu loạn thân tâm, khiến cho chúng ta mê ám đối với tất cả sự lý.

Nhất thiết chủng minh được gọi là bất nhiễm ô vô tri. Chư minh được gọi là nhiễm ô vô tri.

Sự khác biệt giữa nhiễm ô và bất nhiễm ô như thế nào?

Tánh chất của tâm có thể được chia làm hai loại:

* Chia làm 3 tánh thì có thiện, ác và vô ký.

* Chia làm 2 tánh thì có nhiễm ô và bất nhiễm ô.

Phần nhiễm ô chính là tánh ác (thuộc hữu phú vô ký) trong ba tánh. Phần bất nhiễm ô là tánh thiện (thuộc vô phú vô ký) trong ba tánh. Nay, nhất thiết chủng minh, tức liệt huệ, tánh chất của nó là thiện và một phần vô ký cho nên gọi là bất nhiễm ô. Chư minh, tức phiền não, tánh chất của nó là ác và một phần vô ký cho nên gọi là nhiễm ô.

Tóm lại, nhất thiết chủng minh hay chư minh đều là minh ám. Tuy nhiên, căn cứ theo tánh chất của chúng, chư minh thuộc về phiền não, có sự nhiễm ô, cho nên gọi là nhiễm ô vô tri. Nhất thiết chủng minh thuộc liệt huệ, không có sự nhiễm ô, nên gọi là bất nhiễm ô vô tri. Xin xem, đồ biểu dưới đây.

Đồ biểu 4

*Thiện tánh


Nhất thiết 
chủng minh 
(tức liệt huệ)
 Hữu phú vô ký
 Vô phú vô ký 
 * vô ký tánh
Ba tánh
*Ác tánh
 
Chư minh 
(tức phiền não)
* Nhiễm ô
* Bất nhiễm ô
Hai tánh
 

Diệt (hata) tức khả năng diệt, chia làm hai lớp:

1. Diệt nhất thiết chủng minh: đức Thế Tôn đã xả trừ tất cả liệt huệ, chứng đắc trí tuệ cao thượng viên mãn, hiểu biết cùng tột tất cả các pháp một cách như thật, do đây mà thành tựu được Trí đức,

2. Diệt chư minh: Đức Thế Tôn lại đoạn trừ tất cả phiền não, do đó thành tựu được Đoạn đức.

Nói cách khác, “diệt nhất thiết chủng minh” chính là Trí đức, và “diệt chư minh” chính là Đoạn đức.

Theo bản cựu dịch, luận Cu-xá, câu này được dịch là: “Nhất thiết chủng trí diệt chư minh”, nghĩa là đặt chữ “diệt” dưới chữ “nhất thiết chủng trí” và trên “chư minh”, ý nghĩa bị hạn hẹp. Còn bản dịch này đặt chữ “diệt” ở cuối câu, ý nghĩa bao quát và hàm súc hơn.

Vì sao? Vì “diệt” có hai - nghĩa về thể và nghĩa về dụng. Về dụng thì hiển bày nghĩa năng diệt. Về thể thì hiển bày nghĩa trạch diệt và phi trạch diệt.

Trong văn trường hàng giải thích rằng, “Diệt chư cảnh nhất thiết phẩm minh”, diệt sự mê mờ đối với các cảnh và tất cả sự lý, tức là khả năng diệt trừ hai thứ mê ám. Đây là hiểu nghĩa về dụng. Trường hàng lại nói tiếp: “Ư nhất thiết cảnh minh, nhất thiết chủng minh, chứng bất sanh pháp cố xưng vi diệt”, ngay nơi tự thể của nhất thiết chủng minh và nhất thiết cảnh minh mà chứng đắc pháp vô sanh cho nên nói là “diệt”; tức y vào sự diệt trừ hai thứ minh ám mà chứng đắc trạch diệt và phi trạch diệt. Đây là hiểu nghĩa về thể.

Chữ “diệt” ở trong tụng văn cũng bao gồm 2 nghĩa. Do đó, bản cựu dịch là “Nhất thiết chủng trí diệt chư minh.” Nếu đem chữ diệt đặt lên trên và đọc là: “Nhất thiết trí diệt nhất thiết chủng chư minh”, đó chỉ là nêu lên được cái nghĩa về dụng mà thôi. Còn bản dịch này dịch, “Chư nhất thiết chủng chư minh diệt”, tức đặt chữ diệt ở cuối câu, thì bao gồm được cả hai nghĩa bao quát và hàm súc hơn.

Thế nào là trạch diệt và phi trạch diệt? Trạch diệt tức dùng trí lực có khả năng giản trạch mà đoạn trừ tất cả phiền não để chứng đắc diệt lý. Phi trạch diệt, không giống như diệt lý được chứng đắc bởi trạch diệt; diệt này do thắng duyên hiện tại khiếm khuyết, các phiền não không sanh, nên chứng được pháp bất sanh một cách cùng tột.

Nay nói “diệt chư minh” tức nhờ vào trí lực có khả năng giản trạch mà đạt được trạch diệt. “Diệt nhất thiết chủng minh” tức những thắng duyên làm sở y cho liệt huệ bị khiếm khuyết không sinh khởi được, do đó chứng đắc phi trạch diệt.

Bạt chúng sanh xuất sanh tử nê:

Chúng sanh (skt: jagad, thế gian) là tên gọi khách của hữu tình, là loài có nhiều tính chất sinh tử. Tam giới, ngũ thú là nơi mà tất cả chúng sanh đang bị chìm đắm, thực khó thoát khỏi, nên gọi là bùn sanh tử (saṃsāra-paṅka). Vì từ vô thỉ đến nay, chúng sanh cứ mãi lặn hụp trong đó không biết lúc nào ra khỏi, nên đức Phật thương xót vô hạn. Ngài truyền trao Chánh pháp để cứu độ tất cả; đó là đức tự lợi và lợi tha của Ngài. Đức lợi tha trong hai đức, chính là ân đức trong ba đức.

Kính lễ như thị Như lý sư:

Kính lễ (namaskṛta): là cúi đầu đặt sát chân Phật; tức đem phần tôn quí của mình mà đặt vào chỗ thấp nhất của Ngài, để biểu lộ tấm lòng tôn kính cùng tột.

Như thị (tasmai): nhắc lại những gì đã nói ở hai câu đầu. Hai đức tự lợi và lợi tha cũng chính là ba đức: đoạn, trí và ân.

Như lý sư (yathārthaśāstṛ): Đức Phật khéo léo nói pháp đúng như lý để cứu vớt chúng sanh. Ngôn giáo như lý ấy dạy dỗ khuyên răn đúng như sự thật, không điên đảo, lại hợp lý, hợp thời và hợp cơ, làm lợi lạc cho hữu tình. Cho nên trong văn trường hàng giải thích rằng, lời nói của bậc thầy Như lý biểu thị đức lợi tha.

Tóm lại, ba câu trên nói rằng, bậc nào diệt trừ nhất thiết chủng minh và chư minh thì đầy đủ ba đức. Bậc mà đầy đủ ba đức nơi chính mình, ban bố ân đức vô biên như thế, không ai khác hơn là đức Thế Tôn. Đó là nơi mà Luận chủ đem hết lòng qui kính hướng đến.

Trước khi tạo luận, tại sao Luận chủ tán thán các đức của đức Phật như thế, và tỏ bày sự kính lễ ấy? Theo thông lệ, luận sư nào khi tạo luận trước hết cũng đều tán thán các đức của đức Phật, hoặc qui kính Tam bảo, chứ không riêng gì luận này mới như vậy. Chẳng hạn, luận Thành duy thức, luận Khởi tín, v.v… trước tiên đều có bài tựa qui kính. Nhưng ý qui kính ấy như thế nào?

Nếu đức Phật không nói Pháp thì pháp đâu mà chúng ta nghe? Nay may mắn gặp được giáo pháp tối thắng của Ngài, chúng ta cần phải báo đáp ân đức ấy.

Lại nữa, công nghiệp tạo luận quá lớn lao, nếu không nhờ Phật gia hộ thì khó mà hoàn thành. Cho nên, thỉnh cầu Ngài gia hộ để đạt đến mục đích ấy.

Vì trí tuệ của Luận chủ không đầy đủ, nếu đem kiến thức của mình để tạo luận, e mọi người không tin, nên trước phải qui kính đức Phật để tạo lòng tin, và nói lên ý Luận chủ chỉ là người thừa tiếp.

Ở đời, bậc tôi trung hay người con hiếu thảo muốn làm việc gì trước tiên tâu với vua hoặc thưa cùng cha mẹ. Là đệ tử Phật, Luận chủ phải qui kính Ngài để biểu lộ phần lễ nghi của mình.

Đức Phật là vua trong tất cả các Thánh, trước tiên qui kính Ngài để nói lên rằng Ngài là bậc cao cả nhất.

Các ý trên đây đều cần có trong phần tựa qui kính. Nhưng nay Luận chủ qui kính Phật, chính vì Ngài là bậc cao cả nhất. Cho nên văn trường hàng giải thích rằng: Nay muốn tạo luận này để làm sáng tỏ thực thể cao quí siêu việt hơn các Thánh của Thầy mình, nên trước hết tán thán các đức, rồi sau mới tỏ bày sự kính lễ.

Đối pháp tạng luận ngã đương thuyết:

Câu này là văn ý của phần tựa phát khởi. Lý do qui kính bậc đầy đủ ba đức như vậy là để làm gì? Để Luận chủ thuyết giảng A-tì-đạt-ma Cu-xá. Đây là đầu mối phát khởi cho phần chánh tôn của bộ luận.

Tóm lại, hai phần tựa qui kính và phát khởi chính là lời tựa của bộ luận này.


 

---o0o---




tải về 0.86 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương