THẾ thân bồ TÁt câu xá luận tụng lưỢc thích I


Tiết 2: Danh và thể của đổi pháp



tải về 0.86 Mb.
trang7/19
Chuyển đổi dữ liệu13.03.2018
Kích0.86 Mb.
#36476
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   19

Tiết 2: Danh và thể của đổi pháp


Luận chủ giảng luận Đối pháp tạng  này, trong đó, chữ “Đối pháp” có ý nghĩa gì và thể của nó ra sao?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Tịnh huệ tùy hành danh đối pháp


Cập năng đắc thử chư huệ luận

Việt dịch: 

Tịnh huệ, tùy hành gọi là đối pháp; 
các huệ và các luận có công năng đưa đến tịnh huệ và tùy hành ấy đều được gọi là Đối pháp.

Đoạn văn này trả lời cho vấn đề được đặt ra ở trên.

Liên quan đến danh xưng Đối Pháp (Abhidharma), kinh Phân biệt công đức có hai cách giải thích, luận Đại tì-bà-sa có 24 cách giải thích, luận Nhiếp đại thừa của ngài Thế Thân có 2 cách giải thích, và văn trường hàng của luận này cũng có 2 cách giải thích. Ngoài ra còn có rất nhiều cách giải thích khác, ở đây không thể nêu lên hết được. Nay, y cứ vào bản luận để thuyết minh nghĩa của Đối pháp.

Chữ “đối” có hai nghĩa: đối quán và đối hướng. Đối quán  nghĩa là tâm và cảnh đối nhau; tức đem tâm chủ quan cùng với cảnh khách quan đối nhau để quan sát cảnh giới khách quan. Đối hướng  nghĩa là nhơn và quả đối nhau; tức từ nguyên nhân này hướng đến kết quả kia để tiến bước tu hành.

Chữ “pháp ”, theo văn trường hàng giải thích, chỉ có một nghĩa nhiệm trì mà thôi. Nhưng căn cứ theo lời văn thì lẽ đáng phải đủ cả hai nghĩa: nhiệm trì tự tánh và quĩ sanh vật giải. Phàm bất cứ sự vật gì tồn tại, dù hữu hình hay vô hình, có hiện tượng hay không hiện tượng, đều có tự tánh riêng của chúng, không mảy may lẫn lộn, cho nên nó có nghĩa “nhiệm trì tự tánh.” Ví dụ như cây tùng; nó vẫn giữ lấy tự tánh của cây tùng, dù trong trường hợp nào cũng không bỏ mất tánh chất của nó là tùng. Cây mai giữ lấy tự tánh của cây mai, dù trong trường hợp nào vẫn không bỏ mất tánh chất của nó là mai. Nghĩa nhiệm trì là như vậy. Thế nhưng, mọi vật không chỉ giữ lấy tự tánh của chúng, mà còn có một khuôn khổ qui tắc nhất định, nhờ đó chúng ta có thể biết ngay đó là vật gì, cho nên còn có nghĩa “quĩ sanh vật giải” nữa. Như cây tùng, cây mai không chỉ giữ lấy tự tánh của chúng mà đồng thời còn khiến cho chúng ta biết được đó là cây tùng, cây mai. Vì thế, danh từ “Pháp” (dharma) trong Phật giáo được dùng để chỉ chung cho vạn vật. Nhưng chữ “pháp” được nói ở đây chính là Lý pháp  tức “Khổ-tập-diệt-đạo” và quả pháp “Niết-bàn”. Lý “Khổ-tập-diệt-đạo” là đạo lý của “nhơn quả mê ngộ.” Khổ là quả của mê; Tập là nhơn của mê. Diệt là quả của ngộ; Đạo là nhơn của ngộ. Bởi người đời ở trong cảnh ngộ mê lầm, luôn luôn bị sự nguy hiểm của luật vô thường đe dọa mà không có được niềm vui an tịnh chơn chánh, cho nên gọi kết quả của mê là khổ. Phiền não hiện khởi hay tiềm phục trong tâm thức và những thứ nhiễm nghiệp phát động nơi thân và khẩu chúng ta, chúng có khả năng chiêu tập kết quả mê lầm, cho nên gọi nguyên nhơn của mê là Tập.

Diệt có nghĩa là bất sanh. Khi chúng ta giác ngộ cảnh giới Niết-bàn thì tất cả các hoặc nghiệp bị tiêu trừ. Mà đã tiêu trừ rồi thì không còn làm phát sanh sự nguy hiểm của mê lầm trở lại, cho nên gọi là Diệt. Đạo là khả năng đi suốt. Muốn đạt đến quả vị Niết-bàn, chúng ta phải tu giới-định-huệ để làm nhơn cho khả năng đi thông suốt đó, cho nên gọi là Đạo.

Lý Tứ đế được nêu trên là tánh và tướng của tất cả các pháp và được gọi là “pháp tướng pháp .” Còn quả Niết-bàn, tánh của nó là thiện, là thường nên gọi là “thắng”, có thật thể nên gọi là “nghĩa.” Vì vậy, nó còn được gọi là “Thắng nghĩa pháp ”. Như vậy, “đối” có hai nghĩa; “pháp” cũng có hai nghĩa. Nói là “đối pháp” vì nó không ngoài hai nghĩa đối quán lý Tứ đế, và đối hướng quả Niết-bàn. Đối quán là tâm và cảnh đối nhau. Đối hướng là nhơn và quả đối nhau.

Nhưng khả năng đối quán lý Tứ đế và đối hướng quả Niết-bàn ấy như thế nào?

Tụng đáp.

Âm Hán Việt:

Tịnh huệ tùy hành danh đối pháp
Cập năng đắc thử chư huệ luận

Dịch nghĩa:

Tịnh huệ, tùy hành, gọi là Đối pháp;
Các huệ và các luận có công năng đưa đến tịnh huệ đều được gọi là Đối pháp.

Đây chính là đoạn văn nêu lên thể của Đối pháp vậy.

Thể của Đối pháp có hai: 1. Thắng nghĩa đối pháp thuộc vô lậu; 2. Thế tục đối pháp thuộc hữu lậu.

Trong bài tụng, câu “tịnh huệ, tùy hành danh đối pháp”, chỉ cho Thắng nghĩa đối pháp. Câu “cập năng đắc thử chư huệ, luận” chỉ cho Thế tục đối pháp.

Tịnh huệ (prajñāmāla) là trí tuệ vô lậu thanh tịnh, không mảy may ô nhiễm, có thể giản trạch các pháp về sự cũng như về lý một cách rõ ràng.

Tùy hành (sāmucāra) là tâm, tâm sở, đắc, bốn tướng hữu vi và vô biểu sắc tương ưng với tịnh huệ mà sanh khởi. Tịnh huệ vốn ví như người chủ, tùy hành được ví như tôi tớ. Khi người chủ tịnh huệ dấy khởi, thì đồng thời một bọn tôi tớ gồm tâm, tâm sở, v.v… cùng dấy khởi theo. Bộ phận tôi tớ ấy được gọi là tùy hành. Đó là Thắng nghĩa đối pháp.

Nhưng không những chỉ tịnh huệ và tùy hành mới được gọi là Đối pháp mà các huệ và các luận có công năng đưa đến tịnh huệ ấy cũng gọi là Đối pháp nữa. Đó là các huệ và các luận.

Các huệ  là sanh đắc huệ, văn huệ, tư huệ và tu huệ. Sanh đắc huệ (upapatti-jñāna) là trí huệ cùng có một lần với lúc sanh. Văn huệ (śruta-maya-jñāna) là trí huệ phát sanh nhờ nghe kinh, luật, luận. Tư huệ (cintā-maya-jñāna) là trí huệ phát sanh nhờ quán sát tư duy. Tu huệ (bhāvanā-maya-jñāna) là trí huệ phát sanh nhờ sức thiền định. Các luận chỉ cho các luận Lục túc và Phát trí, liệt kê dưới đây.



Lục túc  (sáu luận làm bộ phận chân):

1. Tập dị môn túc luận (Saṅgītiparyāyapāda-śāstra), tác giả là ngài Xá-lợi-phất (Sāriputra), Huyền Trang dịch Hán, 1 vạn 2 ngàn bài tụng, 20 quyển.

2. Pháp uẩn túc luận (Dharma-skandha-pāda-śāstra), 6 ngàn bài tụng, tác giả là ngài Đại Mục-kiền-liên (Mahā-Maudgalyana), Huyền Trang dịch, 12 quyển.

3. Thi thiết túc luận (Prajñaptipāda-śāstra), 1 vạn 8 ngàn bài tụng, tác giả Ca-đa-diễn-ni-tử (Kātyāyanīputra), Huyền Trang thỉnh về, chưa dịch.

4. Thức thân túc luận (Vijñāna-kāya-pāda-śāstra), 10 ngàn bài tụng, tác giả Đề-bà Thiết-ma (Devaśarma), sau Phật diệt độ khoảng 10 năm), Huyền Trang dịch, 16 quyển.

5. Phẩm loại túc luận (Prakarana-pāda-śāstra), tác giả Thế Hữu (Vasumitra, sau Phật 300 năm), Huyền Trang dịch, 18 quyển.

6. Giới thân túc luận (Dhātu-kāya-pāda-śāstra), tác giả Thế Hữu, 6 ngàn bài tụng, Huyền Trang dịch, 3 quyển.

Thân luận (luận làm bộ phân thân):

Phát trí luận (Jñānaprathāna-śāstra), Ca-đa-diễn-ni-tử (Kātyāyanī-putra), Huyền Trang dịch, 20 quyển.

Các huệ và các luận này chẳng phải là đối pháp của Thắng nghĩa vô lậu, mà là phương tiện tư lương cần có để được Thắng nghĩa đối pháp , cho nên gọi chúng là Thế tục đối pháp .

Hai loại Đối pháp, Thắng nghĩa và thế tục, nếu phân tỉ mỉ hơn thì có bốn loại:

* Tự tánh đối pháp , tức là tịnh huệ;
* Tùy hành đối pháp , tức là quyến thuộc của tịnh huệ;
* Phương tiện đối pháp  là 4 huệ hữu lậu;
* Tư lương đối pháp  là các luận.

Hai loại đầu thuộc thắng nghĩa đối pháp. Hai loại sau thuộc thế tục đối pháp. Nếu gồm chung cả sở đối quán và sở đối hướng mà nói, thì có sự khác biệt giữa cảnh đối pháp (lý tứ đế) và quả đối pháp (quả Niết bàn). Tuy nhiên, cái chính yếu mà luận này muốn giải thích là năng đối pháp của 4 loại đối pháp đã nói trước. 

Xin xem đồ biểu. 

Đồ biểu 5


ĐỐI PHÁP:

1. Thắng nghĩa đối pháp:

   a) Tự tánh đối pháp........................ tịnh huệ
   b) Tùy hành đối pháp...................... tùy hành

2. Thế tục đối pháp:

   a) Phương tiện đối pháp.................. chư huệ
   b) Tư lương đối pháp......... chư luận
 

Trên đây chỉ mới giải thích khái quát về tụng văn. Còn như thể của tùy hành, tức là tâm, tâm sở, bốn tướng hữu vi và vô biểu sắc của đạo cọng giới tương ưng với tịnh huệ như thế nào? 

Tịnh huệ không sanh khởi một mình mà còn có tâm vương, tâm sở cùng khởi theo.Tâm vương ở đây là đệ lục ý thức. Tâm sở ở đây là 9 đại địa pháp (vì đã trừ huệ tâm sở), 10 đại thiện địa pháp, 2 bất định địa pháp (tầm tứ). Vì sao chúng tương ưng với tịnh huệ? Tâm sở đại địa bất luận hữu lậu hay vô lậu, lúc tâm khởi thì chúng liền tương ưng sanh khởi theo. Tâm sở đại thiện pháp lúc thiện tâm dấy khởi thì chúng cùng khởi. Tầm là suy cầu, tứ là nghiệm xét; tính chất của chúng bao gồm cả hữu lậu và vô lậu.

Ngoài ra, các thứ không cùng tương ưng với tịnh huệ gồm có 24 món. Đó là 6 phiền não địa pháp, 2 bất thiện địa pháp, và 6 bất định địa pháp. Vì các tâm sở này chỉ thuộc về hữu lậu chứ không thuộc về vô lậu. Vậy thì, lúc tịnh huệ dấy khởi những tâm sở tương ưng cùng sanh khởi với nó chỉ 21 món như các tâm sở thuộc đại địa pháp v.v... mà thôi.

Đắc : hiểu là năng đắc. Đã có pháp sở đắc thì đương nhiên phải có pháp năng đắc đi theo. Nay tịnh huệ sở đắc đã dấy khởi thì năng đắc không thể không đi theo. Bốn tướng hữu vi cũng vậy. Hễ là pháp hữu vi, thì đương nhiên phải chịu biến đổi qua bốn giai đoạn sanh, trụ, dị và diệt. Tịnh huệ cũng là pháp hữu vi cho nên 4 tướng ấy cùng đi theo.

Đạo cọng giới không giống như biệt giải thoát giới. Vì biệt giải thoát giới có tác pháp và giới thể. Còn đạo cọng giới thì tùy theo chân trí vô lậu mà dấy khởi, tự nhiên xa lìa được tội lỗi ở nơi thân và khẩu, cho nên gọi là đạo cọng giới vô biểu. Nó là bạn tùy hành của tịnh huệ. 

Xem đồ biểu dưới đây.

Đồ biểu 6


TÙY HÀNH: 

Sắc pháp...................................... đạo cọng giới vô biểu


Tâm pháp................................................ đệ lục ý thức

Tâm sở pháp:

- đại địa pháp............ thọ, tưởng, tư, xúc, dục, niệm, tác

                                               ý, thắng giải, tam ma địa.

- đại thiện địa pháp. tín, cần, hành xả, tàm, quí, vô tham,

                                                vô sân, bất hại, khinh an.

- Bất định địa pháp......................................... tầm, tứ.

Tâm bất tương ưng hành pháp.. đắc, sanh, trụ, dị, diệt.

---o0o---



tải về 0.86 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương