Thơ Biểu hiện Đức



tải về 425.82 Kb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu12.09.2017
Kích425.82 Kb.
#33116
1   2   3   4

ALFRED LICHTENSTEIN

(1889-1914)

 

Capriccio

 

Thế là tôi sắp chết.



Trời tối đen. Và trời đã mưa.

Nhưng em không còn cảm thấy sự nặng nề của những đám mây

Hãy còn bao phủ bầu trời phía sau đó

Bằng nhung êm.

Tất cả những đường phố trôi đi, những tấm gương đen

Dọc theo những khối nhà, nơi những ngọn đèn

Những chuỗi ngọc, rủ sáng.

Và tít trên cao bay bay cả ngàn vì sao,

Những con bọ ánh bạc, quanh vầng trăng—

Tôi ở đâu đó, chính giữa. Chăm chú

Và rất nghiêm nghị, hơi có vẻ ngượng nghịu,

Nhưng khá cao thượng, đang ngắm nghía cặp giò

Tinh tế, màu thiên thanh của một mệnh phụ

Một chiếc xe hơi vụt xé nát tươm người tôi ra

Khiến đầu tôi như một hòn bi đỏ

Lăn lăn tới chân bà...

 

Mệnh phụ ngạc nhiên. Rủa xả thật đoan trang. Rồi kiêu hãnh đẩy nó



Bằng cái gót cao thanh nhã

Của chiếc giầy nho nhỏ

Xuống đường mương...

*** 


 

Cơn bão

 

Dưới cơn gió cháy bùng thế giới. Các thành phố lốp đốp nổ.



Ô kìa, cơn bão, cơn bão lớn đã tới.

Một em gái nhỏ bay đi rời bỏ các chị em.

Hướng về Ithaca một chiếc xe hơi kiểu mới bỏ chạy.

 

Một con đường đã đánh mất lộ trình của mình.



Các vì sao bị bứt khỏi trời cao.

Một người điên mới sinh đã ra đời quá sớm

Ở Cựu-kim-sơn trăng đã rã tan.

*** 


 

Trận chiến ở Sarrebourg

 

Đất mốc meo trong sương mù.



Buổi chiều như chì đè nặng.

Khắp nơi vang ầm tiếng đổ vỡ như điện

Và mọi sự rên xiết nát tan thành từng mảnh.

 

Như những đám giẻ rách mịt mù bốc khói



Những thôn làng ở chân trời.

Bị Thượng đế bỏ rơi tôi nằm

Giữa lằng đạn lép bép ở mặt trận.

 

Nhiều con chim bằng đồng hung hãn



Vút quanh tim và óc tôi.

Tôi nằm cứng nhắc trong màu xám xịt

Và đương đầu với những cuộc tấn công đẫm máu.

 

---------- 



ALFRED LICHTENSTEIN (1889-1914) sinh ngày 23. 8. 1889 tại Berlin. Học luật. Đậu tiến sĩ năm 1913 tại Erlangen. Mất ngoài mặt trận ngày 25.9.1914, tại Vermandovillers, gần Reims. «Capriccio» đã đăng trong Simplicissimus, ngày 12.8.1912; «Cơn bão» viết ngày 1.1.1914; và «Trận chiến ở Sarrebourg» được gửi từ mặt trận ngày 16.9.1914. Thơ và văn xuôi của ông đã được xuất bản vào năm 1966 tại Zurich (Verlag Die Arche).

 

___________



 

RICHARD OEHRING (1889-1940)

 

Những người được giải thoát

 

Họ hãy còn ngập ngừng. Tứ chi mới được tháo gỡ



hãy còn cảm thấy sự xiết chặt của xích xiềng đã bứt phá.

Họ hãy còn nhìn xuống đất...

Nhưng đã cảm thấy, như trái tim mình nở ra,

như cái tin nọ bao phủ họ bằng tuyệt phúc,

như tan chảy mọi băng hà từng đọa đày họ

trong giá băng của cô độc, và

như xích xiềng trở thành những tràng hoa,

bao bọc họ trong một kết hợp hạnh phúc.

 

Lúc này thế giới đã đứng dậy.



Kẻ xa lạ nhất cũng được nhận ra trên quê hương.

Cái tin nọ rực sáng trong tiếng hát say sưa của biển.

 

---------- 



RICHARD OEHRING (1889-1940) sinh năm 1889 tại Düsseldorf. Nhà báo ở Liên Sô. Di cư năm 1933 qua Hòa-lan, nơi ông tự sát vào năm 1940 để thoát khỏi tay quân quốc xã Đức. Nguyên tác của bài thơ dịch trên đây đã đăng trên Die Aktion, 1913.

 

__________



HEINRICH NOWAK (1890-?)

 

Buổi chiếu cuối cùng

 

Cuộc đời nhăn trán thật ác độc;



ngày cuối cùng gặm buồn từng miếng lại từng miếng.

Ý nghĩ của tôi lúc này nát tan.

Trong đớn đau sâu thẳm nhất bay đi một chớp mắt.

Ánh dương không còn yêu tôi nữa và trái đất,

trời và địa ngục đều liệng tôi ra ngoài.

Tôi không còn là người, chỉ còn là hình hài,

và mỉm cười tôi xóa tên tôi đi

 

 



Khốn cùng

 

Trong lạnh lẽo mùa đông, nơi những đêm tối khóc than và rên rỉ,



một cơn bão theo đuổi tôi.

 

Từ đồi Golgotha bầy quạ quang quác bay đi.



 

Ở đâu đó xảy ra nhiều sự dữ.—

Trên các thành phố của con người

hết thảy đều chập chờn trong vươn cánh âm u.

 

Đức Chúa nhân từ đã chận cửa nhà trời



và khóc.

 

Trăng hấp hối; gương mặt trăng nhăn nhó vì những cực hình.



 

«Trăng đã chết!»,

có ai đó nói, rồi thắp một ngọn đèn điện

và bắt đầu trửng giỡn như người điên.

---------- 

 HEINRICH NOWAK sinh năm 1890 tại Vienne. Năm 1913 cho xuất bản một tập thơ (nxb Saturn-Verlag). Cộng tác với các tạp chí Der SturmRevolution. Năm 1939 còn sống ở Vienne, rồi di cư sang Thụy-sĩ. «Từ đấy, không để lại dấu tích.»

__________

FRANZ WERFEL (1890-1945)

 

Gửi người đọc

 

Ước nguyện duy nhất của tôi, hỡi Người, là thuộc về gia đình bạn!



Dù bạn là người đen, kẻ nhào lộn, hay chưa biết đi còn ở dưới sự trông chừng chăm chú của bà mẹ,

Dù tiếng hát người thiếu nữ của bạn vang vang trên sân, dù bạn lèo lái chiếc bè dưới ánh tà huy,

Dù bạn là người lính, hay người lái máy bay đầy chịu đựng và can trường.

 

Hồi nhỏ bạn cũng đã chẳng từng mang một khẩu súng với dây quai xanh?



Khi nó nổ bung một miếng nút chai thoát ra khỏi nòng súng.

Hỡi Người của tôi, khi tôi ca kỷ niệm,

Xin đừng quá cứng rắn, hãy để nước mắt chan hòa với tôi!

 

Bởi tôi đã từng trải qua mọi mệnh số. Tôi biết rõ



Cái cảm giác của người chơi hạc cầm đơn độc trong những ban nhạc vùng suối nóng,

Cái cảm giác ngượng ngập của những cô kèm trẻ trong những gia đình xa lạ,

Cái cảm giác của kẻ mới vào nghề run rẩy đứng ngây ra trước chỗ người nhắc tuồng.

 

Tôi đã sống trong rừng, đã là công nhân ở nhà ga,



Tôi đã ngồi khòm lưng trên những cuốn sổ kế toán và đã phục vụ những khách hàng nóng nảy.

Là người coi hầm tàu tôi đã đứng trước những nồi súp-de, mặt nóng bỏng,

Và là người cu-li tôi đã ăn những rác rến và đồ thừa.

 

Bởi thế mà tôi thuộc về bạn và hết mọi người!



Xin đừng chống lại tôi, tôi van bạn đấy!

Ôi, ước chi sẽ tới một ngày,

Chúng ta sẽ, hỡi người anh em, rơi vào vòng tay nhau!

 ----------



FRANZ WERFEL (1890-1945) sinh tại Praha, sống tại Hamburg, Leipzig và Vienne. Năm 1912 cho xuất bản Der Weltfreund (Người bạn của thế giới). Làm việc tại nhà xuất bản Kurt Wolff, nơi ông tập hợp các nhà thơ biểu hiện. Từ 1915 đến 1917 làm lính trong quân đội Áo. Năm 1938 khi quân Đức quốc xã tràn vào Áo, ông di cư qua Pháp, từ đó qua Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha, rồi Hoa-kỳ. Ông mất ở Beverly Hills, California ngày 27.8.1945 vì một cơn đau tim.

__________

 

KURT HEYNICKE

(1891-?)


 

Biến cố

 

Tôi là một vực thẳm không mặt trời. Thần trí tôi đã chết. Tôi không cảm thấy gì hết. Tôi đọc lá thư với ánh mắt đã gãy. Tôi bừng cháy trong căm thù và tuyệt vọng, Melitta, kẻ phản bội tôi. Nàng là một ngọn lửa lạnh lẽo. Một tiếng kêu xuyên qua trong tăm tối. Chúng tôi là cuộc xung kích. Tôi là lửa và tiếng thét, thanh kiếm và mũi nhọn. Tôi không phải một thân xác, tôi không còn phổi cũng chẳng còn tim. Không khí đã nung chín lửa, khói và những tiếng kêu. Tôi là một đợt sóng trong biển náo động khổng lồ. Là quên lãng và không gì hết.



 

Buổi sáng lách tách. Những ngọn lửa sa xuống như tuyết trong sương mù. Khu làng ngã quỵ. Tôi đè nặng trên chiếc cáng. Chân tôi đã chết. Tôi không còn biết gì hết nữa. Tôi là một giấc mơ.

*** 

 

Đài quan sát



 

Trước mắt tôi những ngọn đồi lướt qua,

rừng sản sinh vầng trăng đỏ-canh chừng.

Một khẩu súng máy lóp bóp sau những vì sao.

 

Tôi là một khoảnh khắc trong thinh lặng.



Từ những nấm mồ

buổi sáng lần mò bước ra.

Một tiếng amen

nhỏ xuống những ý nghĩ tôi.

 ***

 

Khúc ca



 

Trong tôi là trời xanh;

tôi mang trái đất,

mang tình yêu,

mang tôi

và niềm vui.

 

Mặt trời quỳ gối trước mặt tôi,



hạt mầm trỗi dậy,

nguồn suối muôn đời chảy trên lưng trái đất.

 

Hãy biến dịch!



Hỡi hồn thiêng hoan hỉ của Vũ trụ!

Tôi là một người trong đôi cánh tay của biến thiên hằng cửu,

niểm bí ẩn đã mở toang,

tôi tràn lan trong trẻo trong chính bản thân tôi,

với đôi cánh lớn biếc xanh tôi trôi nổi tới mặt trời!

 

Hãy sụp đổ cõi xa xăm trong hồn tôi,



hãy cất lên khúc ca êm dịu trong tôi,

tôi cảm thấy

thật vô tận

rằng tôi không phải là đơn độc...

Anh đã thật gần,

hỡi Người, người anh em,

cõi xa xăm bao trùm lên chúng ta vòng cầu

đã hợp nhất giấc mộng của chúng ta,

khi khuôn mặt của Thượng đế uốn cong trên chúng ta

và không gian ầm ầm dậy sấm của những ý nghĩ chúng ta

rơi trên những lời khẩn nguyện như nhau của tình bằng hữu...

 

Khát vọng duy nhất



là vòng bàn tay của chúng ta!

A, chúng ta hãy mỉm cười trên các thung lũng của loài người—

như linh hồn của vầng trăng bạc

đang mơ...

 ***

 Nửa đêm



 

Tình em là một con hoãng trắng

đã bỏ trốn vào nửa khuya niềm khao khát của tôi,

một cội cây nước mắt đứng giữa rừng mơ mộng của tôi hướng về em,

và lúc này em có đó—

trăng đã rót ánh ngời lên tôi thỏa lời ước nguyện...—

tôi tôi yêu em,

em,


và đặt hương cẩm trướng trước buồng em,

và liệng những bông thủy tiên lên giường em.

Tôi đến màu ánh bạc như em

và từ cao khum mình,

một cụm rừng thiêng

trên ban thờ của hồn em trong trắng.

 ***

 

Vườn thống khổ*



 

Hết mọi người đều là đấng Cứu thế.

Trong khu vườn âm u chúng ta uống chén đắng.

Lạy Cha, xin đừng để chén này qua.

Chúng tôi hết thảy đều một tình yêu.

Chúng tôi hết thảy đều là nỗi đau sâu thẳm.

Hết thảy đều muốn được cứu chuộc.

Lạy Cha, thế giới của người là thập giá của chúng tôi.

Xin đừng để thập giá ấy qua.

 

-----------



* Gethsemane. (ND.)

----------- 



KURT HEYNICKE sinh ở Silésie năm 1891. Đoạt giải thưởng Kleist cho một tập thơ (1913). Nhà soạn kịch của «Schauspielhaus» ở Düsseldorf (1933). «Biến cố» trích từ tạp chí Der Sturm, số 2, 1916; «Đài quan sát» trích từ Lyrik des expressionistischen Jahrzehnts, với lời đề tựa của Gottfried Benn (Limes Verlag, Wiesbaden, 1955, in lại trong tủ sách bỏ túi DTV), ban đầu in trong Rings fallen Sterne, Berlin, 1917; «Khúc ca», «Nửa đêm» và «Vườn thống khổ» trích từ Menschheitsdammerung (Ein Document des Expressionismus) do Kurt Pinthus thực hiện, Rowohlt Verlag, 1920 (tái bản nhiều lần). Theo tác giả, tất cả các bài trên đã được viết trong chiến tranh 1914-18.

__________

 

IWAN GOLL (1891-1950)

 

Ngọn cờ

 

Như một ngọn lửa đỏ



Như một giải phướn đỏ

Mi đưa ta tới phía trước

Hỡi nhân dân, mi biển thét gào.

 

Từ đám cháy của ta



Ngọn lửa đốt sáng rực cả nước,

Từ sự nồng nàn của ta

Dòng máu nhạt của mọi người nhuộm đỏ.

 

Và khi ta trở thành tro:



Một lớp bụi hồng bao phủ mọi con đường của trái đất.

*** 


 

Quán

 

Tất cả những đồng loại của tôi trong thành phố



Chỉ là những ngọn đèn đường bụi bặm, mờ nhạt,

Đẫm một ánh sáng vay mượn.

Duy ở nơi đây tôi đã tìm được những người bạn,

Hãy còn là những khu rừng thực sự, rậm rạp và sâu thẳm,

Hay những bình nguyên

Với những tình cảm tinh ròng như gió.

Ở đây là thiên tính của những loài thú xinh đẹp,

Những bàn tay có dáng điệu

Của những bông hồng đương nụ.

 

Như âm nhạc



Nổi trôi, những gì họ nói,

Trên tiếng lao xao của thành phố những quái vật một mắt.

*** 

 

Orphée mới



 

Cho Claire

 

Orphée



Người nhạc sĩ của mùa Thu

Say rượu êm của các vì tinh tú

Anh không nghe tiếng xoay vòng của trái đất

Hôm nay nghiến mạnh hơn bao giờ hết sao?

Trục của thế giới đã rỉ sét

Chim sơn ca sáng chiều bay vút trời cao

Hoài công kiếm tìm vô hạn

Những con sư tử chán chường

Những dòng suối già đi

Và những bông lưu ly nghĩ đến tự sát

 

Mỏi mệt Thiên nhiên thật hiền hậu



Thoáng nhạt làn dưỡng khí của những khu rừng muôn thủa

Người ta ngạt thở trong vùng xú khí của những đỉnh cao

Những đám mây mưa xuống và khao khát bùn

Con người luôn luôn phải trở lại với con người

 

Muôn thủa đối với chúng ta là định mệnh



Eurydice:

Em người đàn bà  cuộc đời không được ai hiểu

Và mỗi người đều là Orphée

 

Orphée: ai người không biết:



1 m 78

68 kí


Mắt nâu

Trán hẹp


Mũ quả dưa

Trích lục khai sinh trong túi áo choàng

Thiên chúa giáo La mã

Người tình cảm

Phò dân chủ

Và nhạc sĩ chuyên nghiệp

 

Chàng đã quên đất Hy lạp



Tiếng hót ban mai của con bói cá

Nỗi buồn đen của đám tùng bách hương

Hội vui của những đóa hoa

Và tình thân của biết bao dòng suối thanh xuân

Đối với chàng hôm nay chỉ còn là giống cây miền núi và loài linh dương

Con người thật khốn khổ

Tù nhân của những khu lam lũ

Nơi những thành phố bằng xi-măng cốt sắt

Bằng tôn và bằng giấy

Chàng phải giải thoát họ

Những kẻ bị tước đoạt trăng gió và chim ấy

 

Này ông, hãy đứng yên



Ông mang bộ-đồ-lớn-có-đuôi cắt thật khéo đó

Dừng lại: kiểm tra trái tim!

Nền văn minh Trung Âu

Với những lễ đăng quang của các vị hoàng đế

Những hãng xây cất

Những cuộc đấu quyền anh

 

Hỡi người đồng thời của tôi, kính thưa Ông!



Orphée đã tới với ông

Từ núi đồi Hy-lạp

Nhà thơ đã bước xuống

Lề thói thường ngày

 

Khắp nơi ta gặp chàng nơi những vành môi thèm thuồng



Nơi những con tim đói khát

 

Âm nhạc như một lớp bao ấm áp



Chàng đặt lên cho ta trên mọi đớn đau của thế giới

 

Orphée ca hát   con người   mùa xuân



 

Ngày thứ tư giữa 12g30 và 13g30

Như một giáo sư dương cầm nhút nhát

Chàng giải thoát một thiếu nữ khỏi tính keo kiệt của bà mẹ

 

Buổi tối ở ca vũ trường



Giữa tiết mục cô Yankeegirl và người đàn ông-rắn

Phiên khúc của chàng về tình yêu nhân loại mang số 3

 

Một anh hề lúc nửa đêm



Ở rạp xiếc sáng chói ánh mặt trời

Chàng đánh thức những kẻ ngủ mê với cái thùng to

 

Ngày chúa nhật trước những hiệp hội cựu chiến binh



Trong phòng khiêu vũ trần thiết những lá sồi

Chàng điều khiển những bài ca yêu nước

 

Nhạc sĩ đại phong cầm gầy ốm



Trong những gian để đồ lễ êm đềm

Chàng chơi đại phong cầm nhè nhẹ cho lũ trẻ hát lễ trong giáo đường

 

Tại tất cả những buổi hòa nhạc cho những người mua vé dài hạn



Với Gustav Mahler

Thật ác độc chàng nghiến nát những con tim

 

Trong những rạp chiếu bóng ngoại ô trên một chiếc dương cầm thật khủng khiếp



Chàng đệm nhạc cho ca đoàn những người hành hương

Than van về cái chết của người Trinh nữ—

 

Những máy hát dĩa



Những quản cầm tự động

Những quản cầm quay tay

Phổ biến nhạc Orphée

 

Trên tháp Eiffel



Ngày 11 tháng Chín

Chàng trình diễn một buổi hòa nhạc vô tuyến truyền thanh

 

Orphée là kẻ thiên tài:



Chàng đi từ xứ này qua xứ khác

Luôn luôn trên những toa giường nệm

 

Bản sao y chữ ký của chàng



Cho những thi tập

Giá cả ngàn mã-khắc

 

Và từ Nhã-điển chàng đi Bá-linh



Băng qua những hồng đông Đức quốc

Tại Ga miền Đông đứng đợi chàng

Eurydice! Eurydice!

Nàng đứng đó   người yêu dấu khiến chàng mòn mỏi

Với cây dù cũ kỹ

Với đôi găng đã rạn

Một tấm mạng tuyn trên chiếc nón mùa đông

Và quá nhiều son trên môi

Như ngày xưa

Không âm nhạc

Không màng giàu sang

Eurydice: Nhân loại không cứu chuộc!

 

Và Orphée nhìn quanh chàng



Chàng nhìn quanh chàng — và đã muốn ôm ghì lấy

Giật thoát nàng ra khỏi địa ngục của nàng một lần cuối

Chàng đưa tay

Chàng cất tiếng

Vô ích! Đám đông đã không còn nghe thấy chàng

Đám đông quay về  với  những khu lam lũ  với  tầm thường nhạt nhẽo  và  với  khổ đau!

 

Orphée một mình trong phòng đợi



Bắn vào trái tim chàng tan nát!

*** 


----------

 

IWAN GOLL (1891-1950) hay Yvan Goll đối với người Pháp, sinh năm 1891 tại Saint-Dié. Học đại học ở Strasbourg. Trong chiến tranh 1914-18 trốn qua Thụy-sĩ để tránh nạn Đức bắt lính. Định cư tại Paris năm 1919. Di cư sang Hoa-kỳ vào năm 1939 rồi trở lại Paris năm 1947. Viết bằng các thứ tiếng Pháp, Đức và Anh. Cộng tác với nhiều tạp chí Biểu hiện Đức. Mất vì bệnh leucémie ngày 14.3.1950. «Ngọn cờ» xuất hiện lần đầu trên tạp chí Revolution, số ngày 1.11.1913; «Quán» trên tờ Die Aktion, 11.4.1914; «Orphée mới» (viết năm 1923) in trong Der Eiffelturm, Berlin, 1924. Xin xem thêm phần trích đoạn các bài tham luận của Iwan Goll về “Khuynh hướng Biểu hiện” đã đăng trên Tiền Vệ.

__________

EDLEF KÖPPEN (1893-1939)

 

Loretto

 

Cho Hermann Kasack

 

Trọn một ngày chìm nghỉm trong im lặng!



Trọn một ngày tắm mát đầu mình giữa những đóa hoa

và buông đôi bàn tay

và mơ: giấc mơ êm ái bằng nhung đen ấy:

trọn một ngày không chém giết.

---------- 

EDLEF KÖPPEN (1893-1939) đã cho đăng phần lớn thơ và truyện trên tạp chí Die Aktion, từng cộng tác với đài phát thanh Berlin. «Loretto» đăng trên tờ Die Aktion số ngày 25.9.1915.

__________

 

ERNST TOLLER (1893-1939)

 

Canh đại pháo

 

Trời đầy sao.



Quái vật được chế ngự

lấp lánh khẩu đại bác của tôi,

thao láo với họng súng đen ngòm

hướng tới vành trăng sữa.

Cú rúc.

Oe oe trong làng một đứa trẻ.



Trái phá,

con sói hiểm độc,

tông cửa ngôi nhà đang thiếp ngủ.

Đêm thơm mùi hoa ti-dơn.

*** 

 

Cùng những người chết của cách mạng



 

Thân xác được cái chết thánh hóa vẫn một mực đương đầu

Với liên hiệp của bọn áp bức man rợ.

Định mệnh đã xóa các người đi bằng một cử chỉ thảm đạm.

Trên ngưỡng cửa, kẻ chuẩn bị những con đường trút hơi thở cuối cùng,

Nhưng trước mặt người cái chết nghiêng mình kính phục.

*** 

 

Gửi những người sống



 

Không hợp với các người

Là sầu khổ.

Không hợp với các người

Là ngừng lại.

Của các người là di sản,

Thấm đượm

Máu con tim của những người anh em

Ở các người

Là hành động sáng tạo

Trông đợi.

 

Nặng nề



Đè lên gáy

Là thời gian.

Hãy phá toang

Cho buổi mai trong sáng hơn

Những cánh cửa!

---------- 

 

ERNST TOLLER sinh năm 1893. Học trung học ở Bromberg rồi khởi sự đại học ở Grenoble. Tình nguyện tham dự chiến tranh trong 13 tháng ngoài mặt trận, rồi bị đau nặng. Trở thành người chủ hòa, tham dự Cộng hòa Bavière (1918-1919), được bầu làm chủ tịch Ủy ban Trung ương các Hội đồng Nông dân và Binh sĩ. Sau khi cách mạng thất bại, bị án tù 5 năm. Được phóng thích năm 1924. Di cư sang Hoa-kỳ năm 1933. Tự sát ở Nữu-ước ngày 22.5.1939. Một tuyển tập thơ, văn... đã được xuất bản năm 1961 (Rowohlt Verlag). «Canh đại pháo» viết trong chiến tranh; hai bài sau viết năm 1921.

__________

 

HUGO HINTZ (1894-1914)

 

Những vần thơ chót

 

I

 

Với nỗi muộn phiền trong tim băng qua những đường phố



Và trong lúc tiếng chuông vang vang

Chỉ biết ở yên:

Ấy nỗi đớn đau của tôi

Từ biết bao ngày.

 

II

 

Mùa hè tới



Và sự sung mãn của mi lại lớn thêm, hỡi thiên nhiên.

Rồi chầm chậm trái chín

Tiến tới hồi sinh nở

Và trào vọt lên hắn quay về ánh sáng.—

Chúng tôi chỉ mới vừa mơ mơ màng màng dưới rặng cây đương hoa

Về nỗi bọt bèo của kiếp sống,

Bóng tối nặng nề sung mãn của nấm mộ

Đã chụp lấy chúng tôi.

---------- 

HUGO HINTZ (1894-1914) sinh năm 1894 tại Berlin. Mất ngày 7.12.1914 trong lúc chiến tranh. Thơ và truyện ngắn đăng trên các tạp chí. Bài trích đã đăng trên Die Aktion, 13.2.1915.

__________

 

HERBERT KÜHNE

(1895-?)

 

Cảnh

 

Cây cối gắn trên mầu xanh.



Giấy láng, vàng, đẫm nắng.

Mầu lục ngời lên. Mặt hồ nhảy múa trong ánh sáng.

 

Tôi khoác cảnh lên người, như khoác một tấm áo.



Cây cối, tôi trồng trên đầu mình,

Đồng cỏ, tôi trải rộng trên ngực,

Chung quanh hông tôi, tôi quấn mặt hồ,

Mặt trời, tôi mang nó trên tay.

 

Ngẩng cao đầu tôi rảo qua thế giới



và lao mình vào bầu khí ê-te.

*** 


 

Những ngày tách rời

 

Những ngày tách rời chúng ta



Như những vũng tàu trống vắng.

Chúng ta không còn mang chúng nữa.

Chúng ta không còn rõ tình trạng chúng,

Và đôi chân chúng ta không tìm ra đường.

Nhạt nhẽo, trống rỗng chúng rời rã.

Thật xa.


***

 

 



Khốn cùng

 

Tôi không còn nắm bắt được ngày nữa



Với đôi tay tôi.

Hết thảy các vì sao đều tan tác.

 

Chúng bằng chì.



Trời đè bẹp tôi

Đêm tối lăn lăn như những trái bóng.

Cười nhạo.

Những con đường của tôi gẫy đôi.

 

---------- 



HERBERT KÜHNE sinh năm 1895 tại Beelitz. Học văn chương. Đậu tiến sĩ năm 1923. Giáo sư lịch sử nghệ thuật tại Cologne rồi Mayence. Ba bài «Cảnh», «Những ngày..» và «Khốn cùng» xuất hiện (theo thứ tự trên) trong Die Aktion, các số ngày 17.6.1916, 19.5.1917, và 27.7.1918.

 

____________



Khuynh hướng Biểu hiện

IWAN GOLL

(Bản dịch Diễm Châu)

 

IWAN GOLL (1891-1950) hay Yvan Goll đối với người Pháp, sinh năm 1891 tại Saint-Dié. Học đại học ở Strasbourg. Trong chiến tranh 1914-18, ông trốn qua Thụy-sĩ để tránh nạn Đức bắt lính. Định cư tại Paris năm 1919. Di cư sang Hoa-kỳ vào năm 1939 rồi trở lại Paris năm 1947. Viết bằng các thứ tiếng Pháp, Đức và Anh. Cộng tác với nhiều tạp chí biểu hiện Đức. Mất vì bệnh leucémie ngày 14. 3. 1950.



        Xin mời bạn đọc xem thêm phần thơ của Iwan Goll và các nhà thơ biểu hiện khác trong “Vài nét về Thơ Biểu hiện Đức”, đăng song song ở trên.

__________ 

 



tải về 425.82 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương