Thơ Biểu hiện Đức



tải về 425.82 Kb.
trang1/4
Chuyển đổi dữ liệu12.09.2017
Kích425.82 Kb.
#33116
  1   2   3   4


_______________________________________________________ Văn học Đức - Thơ Biểu Hiện



Thơ Biểu hiện Đức (phần I)

Bản dịch này để tặng các Bạn tôi

ở Hải-phòng, Hà-nội, Huế và Sài-gòn.

(Diễm Châu)

 

Đôi lời của người dịch:

        Đây là một tư liệu ngắn nhằm cung cấp một số bài thơ của các nhà thơ biểu hiện Đức ở thế kỷ XX. Trường Biểu hiện, liên hệ tới nhiều ngành nghệ thuật ở Âu châu, ở đây đã được giới hạn vào lãnh vực thơ của 25 người sử dụng tiếng Đức. Bột phát vào hồi đầu thế kỷ trước, trong khung cảnh chiến tranh và hậu quả, xã hội sôi sục những khát vọng đổi đời, trường phái này đã để lại những nguồn cảm hứng đáng kể cho thế giới và một phần Việt-nam. Có những nhà thơ đã đi từ dada qua biểu hiện rồi rẽ sang siêu thực hay những trường phái khác. Số phận của họ, trong thực tế, thật hẩm hiu. Lẽ dĩ nhiên chúng ta cần phải khời sự nghiên cứu tác phẩm của họ. Và đây cũng chỉ là một trong những bước đầu.

        Phần thơ trích dịch của các tác giả được chia làm hai kỳ. Kỳ I gồm: 1. Paul Scheerbart (1863-1915), 2. Else LASKER-SCHÜLER (1869-1945), 3. Hans PAASCHE (1881-1920), 4. Paul ZECH (1881-1946), 5. Wilhem KLEMM (1881-1968), 6. Ernst STADLER (1883-1914),7. Hugo BALL (1886-1927), 8. Gottfried BENN (1886-1956), 9. Albert EHRENSTEIN (1886-1950), 10. Georg HEYM (1887-1912), 11. Georg Trakl (1887-1914).

        Và kỳ II gồm: 12. Jacob van HODDIS (1887-?), 13. Oskar KANEHL (1888-1929),14. Alfred WOLFENSTEIN(1888-1945),15. Rudolf LEONHARD (1889-1953),16. Alfred LICHTENSTEIN (1889-1914),17. Richard OEHRING (1889-1940), 18. Heinrich NOWAK (1890~), 19. Franz WERFEL (1890-1945),20. Kurt HEYNICKE (1891~),21. Iwan GOLL (1891-1950),22. Edlef KÖPPEN (1893-1939), 23. Ernst TOLLER (1893-1939), 24. Hugo HINTZ (1894-1914), và 25. Herbert KÜHNE (1895~).

        Xin mời bạn đọc xem thêm trích đoạn các tham luận của Iwan Goll về “Khuynh hướng Biểu hiện” (1914, 1920, 1921), đăng song song.

_________________________

 

PAUL SCHEERBART (1863-1915)

 

Những ngọn lửa lớn

 

Thế là tôi nắm lấy những bóng tối



Cuộn chúng lại

Và ném thật xa, hết sức xa,

Tới mãi những ngọn lửa lớn,

Những ngọn lửa tôi chưa thấy

Nhưng đã có — đã có ở đâu đó

Đang bừng lên...



***

 

Giàn cây xưa

 

Tôi đã quên quá nhiều.



Tôi không còn biết nữa,

Mình từ đâu tới.

Tôi ngồi trong một giàn cây

Của những viên bích ngọc to màu lá;

Chúng lấp loáng như đom đóm.

Nhưng tôi cũng chẳng biết gì hơn.

Ấy là ở mãi tận cùng không gian

Và gần như trong mơ,

Một giấc mơ kỳ diệu nhất đối với chúng ta.

------------

PAUL SCHEERBART (1863-1915) được coi như một trong những người tiền phong của trường thơ biểu hiện Đức. Hai bài "Những ngọn lửa lớn" và "Giàn cây xưa" trích trong Katerpoesie của Paul Scheerbart, xuất hiện lần đầu vào năm 1909, ấn bản mới, 1963.  

__________

 

ELSE LASKER-SCHÜLER (1869-1945)

 

Nỗi đau vũ trụ
 

Ta, ngọn gió bỏng cháy của sa mạc,

đã lạnh dần và trở lại với hình thù.

 

Đâu là vầng thái dương có thể giải thoát ta,



hay ánh chớp có thể đập nát ta!

 

Một cái đầu nhân-sư đã hóa đá,



ánh mắt lúc này giận dữ hướng tới mọi tầng trời.

*** 

 

Tận thế

 

Có những giọt nước mắt trên thế giới,



Như thể chính Thượng đế đã chết,

Và chiếc bóng bằng chì, rơi xuống,

Đè nặng như nấm mồ.

 

Nào, chúng ta hãy ẩn tránh gần hơn...



Cuộc sống nằm trong mọi con tim

Như trong những cỗ áo quan.

 

A! Chúng ta hãy ôm nhau thật chặt —



Có một khát vọng nồng cháy quất xuống thế giới,

Khiến chúng ta phải chết.



*** 

 


Một bài ca

 
Dưới mắt tôi là những dòng nước,

Mà tôi phải khóc thương tất cả.

 

Luôn luôn tôi chỉ muốn bay đi,



Cùng loài chim thiên di;

 

Thổi tán loạn cùng với mọi cơn gió



Trong bầu khí bao la.

 

Ôi tôi buồn quá đỗi —



Gương mặt trong trăng cũng biết.

 

Khắp bốn bề trầm mặc tựa nhung tơ



Và bình minh gần gụi chung quanh tôi.

 

Khi va phải những trái tim người bằng đá



Đôi cánh tôi đã gãy,

 

Những con sáo rụng rơi như những đóa hồng tang tóc



Từ mãi cao trên những bụi bờ xanh.

 

Mọi tiếng ríu rít bị cầm hãm



Lại sắp sửa bật tung,

 

Và tôi tôi chỉ muốn bay đi



Cùng loài chim thiên di.

------------ 

ELSE LASKER-SCHÜLER (1869-1945) sinh tại Elberfeld năm 1869. Sống một cuộc đời lưu lạc. Kết thân với mọi nghệ sĩ biểu hiện. Năm 1933 di cư qua Thụy-sĩ , rồi đến năm 1937 qua Palestine, nơi bà mất ngày 18.1.1945. "Nỗi đau vũ trụ" trích từ Styx, Axel Juncker Verlag, Berlin, 1902; "Tận thế", từ Der Siebente Tag, Berlin, 1905; "Một bài ca", từ Menschheitsdammerung (Ein Document des Expressionismus) do Kurt Pinthus thực hiện, Rowohlt Verlag, 1920 (đã tái bản nhiều lần). 

__________

 

HANS PAASCHE (1881-1920)

 

Đêm sao

 

Sương giá; đất rạn nứt.



Các vì sao sâu và cao.

Bước tới!

Súc vật. Bia và bắn

Rên rỉ.


Bánh xe nghiến. Đường dài ngay đơ.

Những thân cây kề cận.

Điều huyễn hoặc: không một người nào sống.

Tất cả vẫn gián đoạn.

Những người khác đã chết hoặc lạc đường,

Bọn khờ khạo. Hay họ ngủ.

Không một ai có đó nơi có tôi.

Yêu cái chết!

Nín thinh!

------------ 

HANS PAASCHE (1881-1920) sinh năm 1881 ở Rostock. Mất ngày 21-5-1920 do quân canh phòng biên giới giết. Tờ Die Aktion cho biết thêm ông bị quân của NOSKE ám sát. Ông từng tham dự các cuộc chiến đấu trong cuộc cách mạng Spartakus và là thành viên Hội đồng quân nhân và công nhân. Ông là một sĩ quan hải quân nhưng cũng là một trong những người lãnh đạo phong trào vì hòa bình ở thời ông. Từ 1912 tới 1916, đã cùng với Hermann POPERT, ấn hành tạp chí Der Vortrupp. «Đêm sao» đăng trên Die Aktion , 28-5-1921. 

__________

PAUL ZECH (1881-1946)

 

Tiếng hát mới ngợi ca sự sống

 

Không có đêm nào đen tối hơn đêm



trong hầm mỏ đã biến chúng tôi thành súc vật,

và qua nhiều bậc cấp lao sâu xuống dưới thành phố

đã dựng những bức tường bằng khói đen;

ở đó không có sao, không có cây, hay mùi hoa thơm

chỉ có chúng tôi trong nước ngập tới đầu gối.

 

Đêm đen tối, đêm đầy ham hố thẳm sâu



khoét trong lòng thế giới bằng thép đen:

ở đó những mái vòm đen tối ngột ngạt hết hầm này tới hầm khác

với những đường rầy, kênh đào và những vết rạn nứt,

với những khối ga lận trong đá

và những con ngựa khốn khổ không kém gì chúng tôi.

 

Chúng tôi chịu đựng cái chết bị nguyền rủa



từng giáng xuống Ađam và đã biến tính chúng tôi thật ác nghiệt

hơn ai hết ở thế giới-khốn cùng này,

mà chẳng hề cam phận. Chúng tôi đã sẵn sàng!

Chống lại thời đại này chúng tôi vung cao nắm tay

và ngọn cờ của chúng tôi, ngọn cờ đỏ.

 

Chúng tôi không phải mươi người, cũng chẳng phải chỉ một ngàn:



chúng tôi đã là cả triệu người chung một lời ước thệ.

Và trên cao ấy, trong khu rừng-ống khói đen,

nơi cơn bão gào thét, nơi tia chớp trắng lóe lên:

Thần linh trá ngụy còn thống trị tư hữu bao lâu nữa?!

Đến bao giờ thời súc vật bị chà đạp mới tự giải thoát?

Súc vật đứng dậy. Súc vật tự vạch một con đường,

người thợ mỏ và con ngựa mỏ đui mù.

Lúc đó không còn tiếng súng nổ và cũng chẳng còn gươm đao

vung lên chống chúng tôi. Chúng tôi không còn dễ bị tổn thương,

chúng tôi mở rộng không gian cho chúng tôi.

 

Chúng tôi chỉ còn chờ bên cột cây số



chờ các người tới, các người những kẻ vẫn còn chưa chịu nhìn nhận,

ngọn triều đỏ sẽ đưa chúng tôi, nhân dân chúng tôi, tới đâu

khi tất cả sẽ được cân nhắc và tính toán xong...

Không phải chúng tôi, cũng chẳng phải chỉ các người mà thôi là những kẻ đáng được hưởng hạnh phúc đời đời,

toàn nhân loại phải được thế.

 

Này đây, như chưa từng có một đêm nào về trước,



đêm Bethlehem, đêm Giáng sinh,

đêm biến chúng ta thành trẻ nhỏ của những thời nguyên thủy,

đêm trả lại cho chúng ta cùng với cội cây, con thú, con sâu và hòn đá

chất sống muôn đời

từng bước lại từng bước.

------------

PAUL ZECH sinh tại Briesen (Tây Phổ) năm 1881. Mất tại Buenos Aires năm 1946. Vì lý tưởng xã hội, từng bỏ học để đi làm thợ mỏ ở miền Ruhr, ở Bỉ và ở miền bắc nước Pháp. Kế đó trở thành nhà báo, người viết kịch, và thủ thư viện ở Berlin. Là một trong những người biên tập tạp chí biểu hiện Das neue Pathos. Khi quốc xã Đức lên nắm quyền, ông bị giam giữ ở Spandau. Ra khỏi tù năm 1937, ông di cư qua Nam Mỹ, tiếp tục đấu tranh chống phát-xít. Từng dịch nhiều thơ Pháp của Villon, Louise Labé, Rimbaud, Mallarmé, Verlaine, Baudelaire và tiểu thuyết của Balzac... Trong thời quốc xã, các sách của ông bị cấm ở Đức. Bài trích in trong Das Schwarze Revier, 1922. 

__________

 

WILHEM KLEMM (1881-1968)

 

Trận chiến ở sông Marne

 

Chầm chậm những tảng đá bắt đầu lay động và lên tiếng.



Cỏ sững lại thành một màu kim khí xanh. Những rừng cây,

Những nơi ẩn núp thấp, rậm rạp, nuốt trửng những đoàn quân xa.

Trời, niềm bí ẩn trắng như vôi, đe dọa nổ tung.

Hai giờ vĩ đại trải ra thành những phút.

Chân trời trống rỗng phình lên.

 

Trái tim tôi cũng lớn bằng nước Đức và nước Pháp hợp lại,



Bị hết mọi phi đạn của thế giới xuyên qua.

Dàn súng lớn cất tiếng gầm

Sáu chục lần trên vùng đất. Những trái lựu đạn rúc lên.

Im lặng. Ở xa xa sôi sục hỏa lực của bộ binh,

Trọn những ngày, trọn những tuần lễ.

*** 

Triết lý

 

Chúng ta không rõ ánh sáng là gì



Cũng chẳng hay khí ê-te và những rung động của nó —

Chúng ta không hiểu sự sinh trưởng

Và những liên hệ tương ứng của các nguyên tố.

 

Lạ lùng với chúng ta là những gì các vì sao báo trước



Và bước đi long trọng của thời gian.

Những vực thẳm của tâm hồn, chúng ta không nắm được

Cũng như những trò hề khiến các dân tộc bị tiêu tan.

 

Cái đi và cái đến vẫn xa lạ đối với chúng ta



Thượng đế là gì, chúng ta không hay biết!

Ôi hiện diện như cây cỏ trong khu rừng đầy những điều bí hiểm,

Phép mầu tuyệt vời nhất của mi là sự đợi trông!

------------ 

WILHEM KLEMM (1881-1968) sinh tại Leipzig năm 1881. Học thuốc ở München, Erlangen, Leipzig, Kiel. Là bác sĩ  quân y trong cuộc chiến tranh 1914-18. Kế đó hoạt động trong ngành xuất bản. Ông bị loại ra khỏi Viện văn học của Hitler năm 1937. Mất năm 1968. 

__________

 ERNST STADLER (1883-1914)

 

Lover's seat

 

Buổi chiều chúng ta đã trèo lên



    những con đường dốc trên những đụn cát

    có những bụi cây xanh.

Em nằm dài ép sát vào tôi.

    Tảng đá vôi ngầm đu đưa bộ lông chim lấp lánh

    trên vùng biển sâu.

Nơi đây, nơi ngọn núi đá

    trong một cơn thèm chết đột ngột tựa mình vào

Trống không, ngày nọ có hai người tình

    đã trườn xuống

    chiếc giường xanh êm.

Xa xa vang dậy những ngọn sóng dội lại.

    Giữa hai nụ hôn tôi lắng nghe

    câu truyện thần kỳ,

Mà môi em tươi cười

    trong buổi chiều hè nhuộm thắm

    nói với tôi.

Nhưng khi nghiêng mình thật sâu

    tôi thấy như trong niềm hạnh phúc giá băng lại

    khuôn mặt em

Và chờ đợi sau hàng mi em

    là một nỗi muộn phiền âm ỉ và

    chung cuộc đã gần.

***

Qua cầu sông Rhin ở Köln ban đêm

 

Chuyến tầu tốc hành mò mẫm tiến tới



    đẩy lùi tối tăm.

Không một vì sao nào muốn xuất hiện. Toàn thế giới

    chỉ là một đường hầm mỏ nhỏ hẹp, bít bùng đêm tối,

Nơi đây đôi lúc ánh sáng xanh của những nơi khai mỏ

    xé nát những chân trời bất chợt: vòng lửa

của những ngọn đèn tròn, những mái nhà, những ống khói lò,

    mịt mù, sôi sục...   chỉ trong vài giây...

Rồi tất cả lại tối đen.

    Như thể chúng tôi tiến sâu vào lòng đêm tới tầng mỏ.

Lúc này những ngọn đèn chao đảo...  lạc lõng, bị tách biệt khôn nguôi...

    tăng thêm...  và tụ lại...  và trở nên dầy đặc.

Những khung sườn tiền diện xám của những ngôi nhà phơi trần,

    tái nhợt trong bóng mờ, chết chóc —

    có điều gì đó phải tới...  ôi chao, tôi thấy nó nặng nề

Trong đầu óc. Một cảm giác ngột ngạt reo trong máu.

    Rồi mặt đất bỗng ầm ầm như biển cả:

Được nhấc bổng lên, chúng tôi bay

    qua không khí giành được của đêm tối, thật cao trên dòng sông.

    Ôi khúc sông uốn quanh của hằng triệu ánh sáng, kẻ canh gác thầm lặng,

Trước cuộc diễu hành rực sáng ấy

    nặng nề những dòng nước ở bên dưới lăn đi.

    Ôi hàng dài không cùng đêm tối đã thành lập để chào đón!

Như những ngọn đuốc cuồng lộng! Nguồn vui!

    Lời chào của những con tầu trên làn nước xanh! Hội lễ lấp lánh sao!

Chi chít, với muôn vàn con mắt trong trẻo đổ tràn tới!

    Mãi cho tới nơi mà thành phố

    cáo biệt khách với những ngôi nhà chót.

Và rồi những vùng hiu quạnh kéo dài. Những khu bờ sông trơ trụi.

    Im lặng. Đêm. Suy tưởng. Trở về với bản thân. Hiệp thông.

    Và sự nhiệt thành và nhu cầu đòi hỏi

Phải đi tới tột cùng, tới sự chúc lành. Tới hội lễ tạo sinh.

    Tới hoan lạc. Tới nguyện cầu. Tới biển.

    Tới chìm đắm.

***   

Khu phố Do-Thái ở Luân-Đôn

 

Kề bên vẻ lộng lẫy của những quảng trường là những đường phố tăm tối,



Nghiến ngấu và phá phách lẫn nhau, cắn xé nhau thật man rợ,

Như những vết sẹo hé mở trên da thịt trần trụi

    bị rách tươm của những ngôi nhà,

Và ngập ngụa rác rến mà những rãnh nước dơ đổ tràn ra.

 

Những cửa hàng chật ních chen chúc tới ngoài trời.



Trên những bàn dài cả một mớ lộn xộn dị kỳ chồng chất:

Vải vóc và áo quần,

    trái cây, thịt, cá, từng rặng thật ghê tởm

Xếp đống và tung tóe

    những ngọn lửa dầu hỏa vàng vàng.

 

Một mùi hôi thối của thịt rữa và cá bám trên những bức vách.



Một mùi lờ lợ bốc lên ngấm vào không khí đang âm thầm tối lại.

Một bà già

    bươi những đồ phế thải với đôi tay ham hố,

Một người ăn mày mù

    rống lên một bài hát chẳng ai buồn quan tâm.

 

Người ta ngồi trước cửa, người ta chen chúc quanh những chiếc xe đẩy.



Những đứa trẻ ăn mặc rách rưới la ó bên những trò chơi vặt vãnh.

Một cái máy hát ré lên,

Những tiếng nói nát tan của đàn bà nghiến rít,

Và xa xa thành phố vang dội

    trong tiếng ầm ầm của xe cộ.

***

Những bông hồng trong vườn

 

Những bông hồng trong vườn nở một lần thứ nhì.



    Mỗi ngày chúng vươn tới với những chùm hoa dầy đặc

Trong nắng. Nhưng

    vẻ dịu dàng khoan khoái không còn nữa,

Cùng với vẻ ấy mùa hoa nở đầu tiên của chúng đã đong đưa

    trong quầng sáng trắng và đỏ của ngọn lửa thiên thể.

Lúc này chúng trào ra thèm khát hơn,

    như từ những mạch máu mở toang cuồn cuộn,

Trên da thịt

    phồng lên mạnh mẽ của những chiếc lá.

Mùa hoa nở man dại của chúng

    tựa như hơi thở rền của cái chết

Mà mùa hè bỏ đi

    cuốn theo trong ánh sáng chập chờn của mùa thu.

*** 

Thành phố nhỏ

 

Đông đảo những đường phố nhỏ,



    cắt ngang chiều dọc của đường phố chính dài,

Hết thảy đều tiến về vùng xanh tươi.

    Ở khắp nơi đồng quê khởi sự.

Ở khắp nơi bầu trời tràn tới và mùi thơm của cây cối

    và hương ngát của đồng nội.

Ở khắp nơi thành phố mờ nhạt đi

    trong vẻ tráng lệ ẩm ướt của những cánh đồng cỏ,

Và qua khe hở xám

    của những mái nhà thấp đu đưa

Những ngọn núi, trên đó những nhành nho leo lên,

    lấp lánh trong nắng với những cây cột chống sáng rỡ.

Bên trên hết thảy rừng thông khép lại:

    liền lạc

Như một lũy thành đen rộng bao lấy vẻ thanh tịnh đỏ thắm

    của những ngôi thánh đường bằng sa thạch.

 

Buổi chiều, khi những nhà máy đóng cửa,



    đường phố chính đầy ắp những người,

Họ bước đi chầm chậm

    hoặc đứng lại giữa mặt đường.

Họ lem luốc vì công việc và khói nhà máy.

    Nhưng đôi mắt vẫn còn mang

Mẩu đất, khí lực dai dẳng của đất

    và ánh sáng trọng thể của những cánh đồng.

*** 

Xuân tới

 

Buổi tối tháng Ba này tôi bước ra khỏi nhà trễ.



Đường phố xao động hương mùa Xuân và một cơn mưa xanh mầm hạt.

Những cơn gió đập mạnh. Qua những ngôi nhà lún sâu bị lay động tôi bước xuống nơi xa

Tới tận vùng đất bằng trống trải và cảm thấy: dâng lên mãi tới tim tôi là một nhịp điệu mới.

Trong từng hơi gió vươn ra một biến dịch trẻ trung.

Tôi lắng tai, những dòng nước cuồn cuộn mãnh liệt dường như lăn trong máu.

Cánh đồng, đã chuẩn bị, kéo dài. Ở chân trời bừng cháy

Màu thiên thanh của những giờ khắc muộn màng buổi sáng, những giờ khắc hẳn đã phải dẫn đưa ta tới chốn xa.

 

Những cửa cống nghiến rít. Cuộc phiêu lưu bộc phát từ khắp mọi chân trời.



Trên con kênh đào mà những làn gió khởi hành trẻ trung uốn gợn, những dòng nước trong trẻo nở ra.

Trong làn ánh sáng của chúng, tôi trôi giạt. Định mệnh đang trông chờ nơi các vì sao được gió đưa lên.

Trong tim tôi là một trận cuồng quay tựa những ngọn cờ trương rộng.

 

(Das Reichsland, số 3, 1902; in lại trong Die Aufbruch, 1914.)



*** 

Ngôi nhà của những người điên

Le Fort Jacco, Uccle

 

Ở đây là cuộc sống không còn biết gì về mình nữa —



Ý thức qua ngàn sợi giây chìm đắm dưới lòng vũ trụ.

Ở đây vang dội qua những gian phòng trơ trụi ban hợp xướng của hư vô.

Ở đây là sự khuây khỏa, nơi ẩn trú,

    sự trở lại nhà, căn buồng trẻ nhỏ.

Ở đây không có sự đe dọa của con người. Những con mắt sững,

Hoảng hốt và ghê rợn lơ lửng trong trống không,

Chỉ làm rung rung những nỗi kinh hoàng mà chúng đã thoát.

Với nhiều người tuy vậy vẫn còn bám trên thân thể khiếm khuyết một điều gì đó thuộc về trần thế.

Họ không muốn rời bỏ ánh ngày đang biến đi.

Họ lao vào những cơn co quắp,

    thốt ra những tiếng kêu the thé trong khi tắm,

Hoặc ngồi xổm rên rỉ và chúi vào

    những xó xỉnh.

Nhưng với nhiều người thời trời cao lại rộng mở.

Họ nghe thấy tiếng nói đã mất của hết mọi sự

    bao quanh họ.

Và âm nhạc nổi trôi của vũ trụ.

Họ đôi khi nói những chữ xa lạ

    mà người ta không hiểu.

Họ mỉm cười lặng lẽ và nhã nhặn như trẻ thơ.

Ở lại trong đôi mắt xa lánh, không lưu giữ một điều gì thuộc về thể chất, là hạnh phúc.

------------ 

ERNST STADLER (1883-1914) sinh tại Colmar. Học tại Strasbourg và München. Từ 1906 đến 1908 học tại Oxford. Giáo sư tại đại học Bruxelles từ 1912 đến 1914. Chết tại Ypres năm 1914. Các bài dịch trích trong các tác phẩm đã in từ 1911 đến 1914: «Lover's Seat» trong Die Aktion, 4. 12. 1911; «Qua cầu sông Rhin...» trong Die Aktion, 23. 4. 1913; «Khu phố Do-thái...» trong Die Aktion, 12. 7. 1913; «Những bông hồng...» (Die Rosen im Garten); «Thành phố nhỏ», «Xuân tới» và «Ngôi nhà của những người điên» trong Der Aufbruch, 1914. 

__________

HUGO BALL (1886-1927)

 

Cimio

 

Bầu trời đỏ Bucarest ở Paris:



Thân hình em tràn ngập những con mắt đen.

Chúng ta áp đôi tay vào nhau như những chiếc quạt lớn,

Khi chúng ta yêu nhau.

Em bị sưng ruột thừa, bởi thế em vàng lắm.

 

Những bó lilas mọc trong vành tai em.



Trọn đầu em đầy lilas. Em

Trang sức bằng lilas.

 

Mi em mấp máy và đập tựa



Những cánh bướm.

Mũi em thật giống một phím dương cầm.

 

Em có đôi bàn tay nhảy múa, hỡi em bé gái.



Hông em nhỏ hẹp chuyển động, khi em

Trôi nổi ở bên tôi,

Lả mềm trước gió. Em yêu

Những người đàn bà cao lớn nồng nàn bỏng cháy.

Trên nụ cười em bập bẹ những khúc ca của người da đỏ.

 

Ở Constanza biển thét gào vào tai em.



Như những mũi dao găm những ngón tay em nhấn những nốt đàn liên tiếp lướt nhanh trên phím vang động trong không.

Lưỡi em là đầu đỏ một con rắn,

Mảnh bấc bừng bừng của một ngọn đèn.

Trên bóng em, Cimio, lộn nhào lũ tiểu yêu

Như những con cá vỗ đen đét khi người ta từ thùng lớn

Trút lên cạn.



---------------- 

HUGO BALL sinh tại Pirmasens, có bằng tiến sĩ về Nietzche. Đạo diễn sân khấu tại Plauen và München (1911-14). Tình nguyện tham dự chiến tranh, sau đó trở thành đối lập và bỏ qua Thụy-sĩ năm 1915. Tham gia phong trào Dada rồi đoạn tuyệt với Dada. Viết báo chính trị tại Berne từ 1917-1919. Mất tại Thụy-sĩ. Tên tuổi gắn liền với Richard Hülsenbeck trong việc thành lập phong trào Dada. Trường phái Biểu hiện chỉ liên hệ tới sự nghiệp văn chương của ông trong một giai đoạn ngắn. Tác phẩm thi ca: Gesammelte Gedichte, Verlag Die Arche, Zurich (1963). "Cimio" đăng trên Die Aktion, số 27, 1914

__________

GOTTFRIED BENN

(1886-1956)



Bông thúy cúc nhỏ

 

Một người giao la-ve chết đuối được đặt trên bàn mổ.



Có ai đó đã gắn một bông thúy cúc tím thẫm và sáng

giữa hai hàm răng anh.

Khi khởi đi từ lồng ngực

dưới lớp da

với một lưỡi dao dài

tôi đã rứt lưỡi và khẩu cái của anh ta,

chắc là tôi đã xô phải bông hoa, là vì nó trườn xuống

đám não ở ngay bên cạnh.

Khi bắt đầu khâu lại,

tôi đã gói ghém nó cho anh trong hốc ngực

giữa đám dăm bào để lót.

Hãy uống thỏa thuê trong bình chứa của mi!

Hãy nghỉ yên,

hỡi bông thúy cúc nhỏ!



--------------- 

GOTTFRIED BENN (1886-1956) sinh năm 1886, cha là mục sư. Học thần học và văn chương trước khi quay lại học thuốc. Bác sĩ quân y trong thế chiến I ở mặt trận phía tây rồi tại một bệnh viện ở Bruxelles. Sau 1918 mở một phòng mạch ở Berlin. Gặp nhiều khó khăn và đã xin tái ngũ như quân y sĩ. Tuy ủng hộ đảng quốc xã nhưng bị khai trừ khỏi Hàn lâm viện Phổ về nghệ thuật năm 1938. Từ 1936-1948 không xuất bản gì ngoại trừ một tập thơ bỏ tiền túi ra in. Sau chiến tranh lại mở một phòng mạch ở Berlin. Bắt đầu xuất bản từ 1948. Năm 1951 được tặng giải Georg Büchner. Ông mất năm 1956. «Bông thúy cúc nhỏ» trích trong Morgue und andere Gedichte (Nhà xác và những bài thơ khác, 1912). 

__________

 



tải về 425.82 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương