Hình thái của VK có khả năng tiết enzyme
cellulase: Mười hai dòng VK tiết enzyme cellulase
được phân lập có 88% khuẩn lạc có hình tròn, 12%
có dạng không đều. Màu sắc của các dòng VK phân
lập gồm 75% khuẩn lạc có màu trắng đục và 25%
trắng trong. Dạng bìa chủ yếu là bìa nguyên (75%),
bìa chia thùy chiếm 16,7% và còn lại là bìa răng cưa.
Độ nổi của khuẩn lạc ở mức độ lài chiếm 83,3% và
còn lại là dạng mô. Khi quan sát dưới kính hiển vi
hình dạng tế bào VK chủ yếu là hình que, chiếm
91,7% còn lại là hình cầu.
3.1.2. Kết quả đánh giá khả năng phân hủy rác
thải hữu cơ của các dòng VK được tuyển
chọn
Nhóm VK phân hủy protein: Kết quả đánh giá
khả năng phân huỷ thịt vụn của 10 dòng VK cho
thấy các dòng VK đều có khả năng phân huỷ thịt vụn
ở các nồng độ khác nhau và khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,01) so với nghiệm thức đối chứng.
Khả năng phân hủy thịt vụn của các dòng VK có xu
hướng giảm dần khi tăng khối lượng thịt vụn từ 10-
30% trong nghiên cứu này. Ở 3 mức nồng độ thịt
vụn thì dòng pAT3, pTVC3, pPT1 và pHL2 thể hiện
hiệu quả phân hủy thịt vụn cao dao động trong
khoảng 55- 82,5% tùy nồng độ của mẫu thịt, đối với
nghiệm thức đối chứng tỉ lệ phân hủy thịt vụn đạt
dao động từ 12 đến 27% sau 15 ngày ủ (Hình 1). Kết
qủa thí nghiệm cho thấy tại thời điểm kết thúc thí
nghiệm, các mẫu thịt vụn có màu trắng và mùi của
mẫu thịt thay đổi tùy thuộc vào dòng VK được
chủng cho thí nghiệm (Bảng 2) và các nghiệm thức
được chủng với dòng pAT3, pTVC3, pPT1 mẫu thịt
vụn có mùi chấp nhận nhưng nghiệm thức được
chủng với dòng pHL2 có mùi hôi không chấp nhận
(Bảng 3).
Đối với mẫu cá vụn, bốn dòng VK pAT3,
pTVC3, pPT1 và pHL2 có triển vọng phân hủy thịt
vụn đều thể hiện hiệu quả phân hủy mẫu cá vụn với
tỉ lệ phân hủy cá vụn dao động trong khoảng 64,34
- 78,96% và khác biệt ở mức ý nghĩa thống kê (p <
0,05) so với nghiệm thức đối chứng (34%) tại thời
điểm kết thúc thí nghiệm. Kết quả này cho thấy khi
chủng các dòng VK pAT3, pTVC3, pPT1 và pHL2
giúp gia tăng tỉ lệ phân hủy gấp đôi so với nghiệm
thức đối chứng không chủng VK. Các mẫu cá vụn
có màu trắng tại thời điểm kết thúc thí nghiệm
nhưng nghiệm thức được chủng với dòng pTVC3,
mẫu cá vụn có màu xanh (Bảng 2). Bốn nghiệm thức
này có mùi chấp nhận được so với nghiệm thức đối
chứng có mùi hôi (Bảng 3).
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 57, Số Chuyên đề Môi trường và Biến đổi khí hậu (2021)(1): 34-41
38
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |