PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri


III. VỀ LĨNH VỰC DẠY NGHỀ, GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG



tải về 3.72 Mb.
trang25/48
Chuyển đổi dữ liệu09.07.2016
Kích3.72 Mb.
#1608
1   ...   21   22   23   24   25   26   27   28   ...   48

III. VỀ LĨNH VỰC DẠY NGHỀ, GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG

29/ Cử tri Vĩnh Long, Hưng Yên, Ninh Thuận, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Hòa Bình, Cao Bằng, Hậu Giang, Bến Tre, Nghệ An, Hà Nội, Lạng Sơn, Đà Nẵng kiến nghị: “Đề nghị nhà nước tăng cường đầu tư mở trường dạy nghề cho thanh niên trong độ tuổi lao động ở khu vực nông thôn đặc biệt là miền núi, vùng sâu, vùng xa, học sinh tốt nghiệp THPT,... Có những chính sách cụ thể trong việc giúp người lao động được đào tạo nghề có định hướng rõ ràng, phù hợp trong xu thế hiện nay để người lao động có cơ hội tìm được những công việc có thu nhập cao, giúp ích cho gia đình và góp phần vào phát triển chung của đất nước. Tăng chỉ tiêu và kinh phí dạy nghề dài hạn và ngắn hạn hàng năm và có chương trình cụ thể nhằm giải quyết việc làm cho các địa phương, đặc biệt là con em đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng là thanh niên vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn”.

Trả lời:

Trong những năm qua Nhà nước đã tăng cường đầu tư để mở trường dạy nghề, ngoài nguồn đầu tư từ ngân sách địa phương, Chính phủ đã dành một phần nguồn ngân sách Trung ương để đầu tư cho dạy nghề thông qua Dự án Tăng cường năng lực đào tạo nghề thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia Giáo dục và Đào tạo. Trong giai đoạn 2001-2005 kinh phí dành cho dự án là 870 tỷ đồng. Ngày 10/1/2008 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2006-2010, trong đó tổng kinh phí dành cho Dự án Tăng cường năng lực dạy nghề là 5.500 tỷ đồng. Kinh phí Dự án sẽ hỗ trợ đầu tư thiết bị dạy nghề cho 50 trường trung cấp nghề và khoảng 100 trung tâm dạy nghề mới được thành lập; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất (nhà xưởng, phòng học, ký túc xá) cho 30 trường trung cấp nghề và 100 trung tâm dạy nghề của các tỉnh khó khăn.

Về xây dựng cơ chế chính sách Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) đã chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng trình Thủ tướng ban hành nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện cho người lao động học nghề và tìm kiếm việc làm như:

Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành về chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn và Thông tư liên tịch số 06/2006/TTLT/BTC-BLĐTBXH ngày 19/1/2006 của liên Bộ Tài chính và Bộ LĐTBXH hướng dẫn thực hiện Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg.

Quyết định số 267/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành về chính sách dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số nội trú và Thông tư liên tịch số 65/2006/TTLT/BTC-BLĐTBXH ngày 12/7/2006 của liên Bộ Tài chính và Bộ LĐTBXH hướng dẫn thực hiện Quyết định 267/2005/QĐ-TTg.

Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày 5/02/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 trong đó có các chính sách, dự án như: “Dạy nghề cho người nghèo” hỗ trợ chủ yếu cho các thanh niên gia đình nghèo. Thông tư 102/2007/TTLT/BTC/BLĐTBXH ngày 20/8/2007 của liên Bộ Tài chính và Bộ LĐTBXH hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính đối với một số dự án của Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo.

Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành về việc hỗ trợ tín dụng đối với học sinh, sinh viên và Thông tư số 27/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/11/2007 của Bộ LĐTBXH hướng dẫn quy trình xác nhận đối tượng được vay vốn với nguyên tắc đảm bảo tính chính xác, dân chủ, công bằng, công khai và có sự tham gia bình xét của người dân.

Về chỉ tiêu tuyển sinh và kinh phí dạy nghề dài hạn và ngắn hạn.

Từ năm 2007 Chính phủ không giao chỉ tiêu tuyển sinh cho các Bộ, ngành, địa phương. Chỉ tiêu tuyển sinh dạy nghề do các Bộ, ngành, địa phương xác định trên cơ sở năng lực đào tạo của các cơ sở dạy nghề. Do đó việc tăng chỉ tiêu tuyển sinh dạy nghề do các Bộ, ngành, địa phương quyết định.

Về kinh phí dạy nghề căn cứ quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước hàng năm, các địa phương ra quyết định về định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên của địa phương mình. Riêng đối với dạy nghề cho lao động nông thôn, hàng năm ngân sách Trung ương hỗ trợ cho ngân sách địa phương một phần thông qua Dự án “Tăng cường năng lực đào tạo nghề”, chủ yếu để đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu số, người tàn tật và các đối tượng xã hội khác.

30/ Cử tri Quảng Ngãi, Lâm Đồng, Nam Định, Hà Tây, Cần Thơ, Vĩnh Long kiến nghị: “Đề nghị xem xét, ban hành quy định về đào tạo nghề và sử dụng lao động đối với vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp để người dân có điều kiện ổn định cuộc sống. Mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 về chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn và chỉ thị 11/2006/CT-TTg ngày 27/3/2006 về giải pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp; Chính phủ đã có Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 7/7/2006 về phát triển ngành nghề nông thôn nhưng hiện nay tình trạng thất nghiệp của người dân vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp vẫn diễn ra phổ biến. Chủ trương của Đảng “chuyển đổi cơ cấu kinh tế đi liền với chuyển đổi cơ cấu lao động, tạo việc làm, tăng thu nhập, phát triển nông thôn, trước hết là tạo việc làm và ổn định đời sống cho nhân dân ở vùng bị thu hồi đất” vẫn chưa thực hiện được”.

Trả lời:

Để hỗ trợ dạy nghề, chuyển đổi nghề nghiệp và giải quyết việc làm cho đối tượng là lao động ở khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng đất, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo và ban hành các chính sách giúp các địa phương và người lao động bị thu hồi đất có hướng đi phù hợp trong việc học nghề, chuyển đổi nghề nghiệp và giải quyết việc làm.

Tuy nhiên việc áp dụng các chính sách trên trong thời gian qua cũng còn nhiều hạn chế do:

- Việc tuyên truyền vận động các đối tượng ở vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất tham gia học nghề ở cấp cơ sở còn chưa tốt, chưa có chỉ đạo chặt chẽ các cơ sở dạy nghề trên địa bàn thực hiện nhiệm vụ dạy nghề cho lao động bị thu hồi đất; một số cơ sở dạy nghề còn thụ động, chưa tích cực phối hợp với các tổ chức, đoàn thể... trong công tác hướng nghiệp và vận động người dân bị thu hồi đất tham gia học nghề;

- Thông tin thị trường lao động và việc làm, ngành nghề đào tạo chưa đáp ứng đầy đủ và kịp thời nên người lao động còn lúng túng trong việc lựa chọn ngành nghề học với việc làm ổn định đời sống; có tình trạng người lao động muốn tìm những ngành nghề phù hợp để học cũng không nhận được tư vấn, giúp đỡ từ phía chủ đầu tư Dự án và chính quyền địa phương, do đó cũng gặp nhiều khó khăn trong việc học nghề và tìm việc làm mới;

- Tâm lý, thói quen của người dân ở khu vực bị thu hồi đất còn nặng về trông chờ vào chính sách đầu tư đền bù, hỗ trợ, sắp xếp việc làm của chính quyền các cấp và của các nhà đầu tư, chưa chủ động trong việc chuyển đổi nghề nghiệp, tự tạo việc làm; một số chủ đầu tư do khả năng tài chính có hạn nên triển khai dự án chậm, kéo dài do đó lao động bị mất việc do thu hồi đất ít có cơ hội vào làm việc tại khu công nghiệp, cụm công nghiệp...

- Nhiều địa phương hiện nay áp dụng cơ chế bồi thường, hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề là đền bù trực tiếp bằng tiền cho người lao động để họ tự đi học nghề, tìm nghề. Chính sách này bề ngoài có vẻ như phù hợp với mong muốn của người dân vì họ có một khoản tiền mặt trong tay để chủ động trong sinh hoạt và học tập, tuy nhiên, chưa thực sự là một chính sách phù hợp, bởi lẽ thực tế cho thấy đa số những đối tượng nhận được tiền thường dùng để chi tiêu vào các nhu cầu sinh hoạt gia đình, xây dựng hoặc sửa chữa nhà cửa; thậm chí một bộ phận đã sa vào các tệ nạn xã hội như ma tuý, cờ bạc.

Để thực hiện tốt hơn công tác dạy nghề và sử dụng lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp trong thời gian tới, Bộ LĐTBXH sẽ phối hợp với các địa phương rà soát các chính sách đã ban hành và đề xuất các cơ chế chính sách và giải pháp mới, đồng thời chỉ đạo kiểm tra các địa phương trong việc tổ chức thực hiện việc dạy nghề cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất.



31/ Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: “Đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng mới trường trung cấp nghề thanh niên dân tộc tỉnh Phú Yên tại thị trấn Củng Sơn, huyện Sơn Hòa để dạy nghề cho thanh niên dân tộc thiểu số thuộc 3 huyện miền núi tỉnh Phú Yên và vùng phụ cận”.

Trả lời:

Việc xây dựng mới Trường trung cấp nghề thanh niên dân tộc tỉnh Phú Yên là phù hợp với quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề của Tỉnh để đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc của 3 huyện miền núi và các vùng phụ cận. Đề nghị Tỉnh lập dự án đầu tư và đưa vào kế hoạch đầu tư xây dựng của Tỉnh. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ trình Chính phủ hỗ trợ kinh phí đầu tư tăng cường cơ sở vật chất trang thiết bị từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo khi Trường hoàn thành việc xây dựng các công trình xây dựng của Trường.



32/ Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: “Đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức đánh giá kết quả thực hiện chính sách dạy nghề cho học sinh dân tộc thiểu số nội trú theo quyết định số 267/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ để nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình. Hiện tại, tuy chính sách trên có nhiều ưu đãi nhưng học sinh dân tộc thiểu số nội trú vẫn chưa được theo học nghề trong điều kiện kinh tế, đi lại và ăn ở còn nhiều khó khăn”.

Trả lời:

Để triển khai thực hiện quyết định số 267/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số nội trú. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 65/2006/TTLT/BTC-BLĐTBXH Ngày 12/7/2006 để hướng dẫn thực hiện quyết định trên.

Trong thời gian qua Bộ LĐTBXH đã cử cán bộ kiểm tra việc thực hiện chính sách dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số ở một tỉnh, thời gian tới sẽ tăng cường công tác kiểm tra hơn nữa.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tổ chức đánh giá, kiểm điểm việc thực hiện quyết định của Thủ tướng và đề xuất những giải pháp khắc phục các tồn tại, vướng mắc để tổ chức tốt hơn, hiệu quả hơn việc dạy nghề cho học sinh dân tộc thiểu số trong thời gian tới.



33/ Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị:Đề nghị hỗ trợ tỉnh Sơn La xây dựng 2 trung tâm dạy nghề thuộc huyện Mường La và Mộc Châu để sớm đi vào hoạt động, tiếp nhận, đào tạo nghề cho lao động thuộc diện tái định cư thủy điện Sơn La”.

Trả lời:

Việc tỉnh Sơn La xây dựng 2 trung tâm dạy nghề thuộc huyện Mường La và Mộc Châu là cần thiết. Đề nghị Tỉnh sớm xây dựng và phê duyệt các dự án thành lập các trung tâm dạy nghề. Bộ LĐTBXH sẽ trình Chính phủ hỗ trợ một phần kinh phí thông qua dự án “Tăng cường năng lực đào tạo nghề” để 2 trung tâm mau chóng đi vào hoạt động.



34/ Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: “Đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nâng cấp Trường trung học nghề ở tỉnh Gia Lai hiện nay lên quy mô trường cao đẳng nghề, để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh và thực hiện mục tiêu đào tạo của Chính phủ đã đề ra.

Hiện nay tỉnh Gia Lai có dân số khoảng 1,2 triệu người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số hơn 46%. Đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho tỉnh thành lập Trường dạy nghề nội trú (như mô hình các trường dân tộc nội trú) để đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số”.

Trả lời:

Về việc nâng cấp trường Trung cấp nghề Tỉnh Gia Lai lên trường Cao đẳng nghề. Đề nghị Tỉnh Gia Lai căn cứ vào tiêu chuẩn quy định tại Quyết định 05/2006/QĐ-BLĐTBXH ngày 10/7/2006 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định về thủ tục thành lập và đăng ký hoạt động dạy nghề đối với trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, để tăng cường đầu tư (cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ giảng dạy) Bộ LĐTBXH sẽ xem xét nếu đủ điều kiện và tiêu chuẩn sẽ quyết định nâng cấp trường trung cấp nghề Tỉnh Gia Lai thành trường cao đẳng nghề.

Về việc thành lập Trường trung cấp nghề nội trú trên địa bàn tỉnh Gia Lai để dạy nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số. Đề nghị Tỉnh sớm triển khai xây dựng đề án và huy động mọi nguồn lực để xây dựng Trường. Bộ LĐTBXH sẽ trình Chính phủ hỗ trợ đầu tư thiết bị từ kinh phí Dự án Tăng cường năng lực dạy nghề thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo.

35/ Cử tri tỉnh Kiên Giang, Quảng Nam kiến nghị: “Đề nghị xem xét hiện nay việc quản lý nhà nước đối với các trường trung cấp chuyên nghiệp và trường trung cấp dạy nghề do hai Bộ quản lý, nên tập trung về một đầu mối”.

Trả lời:

Mục tiêu của dạy nghề là đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo. Căn cứ vào Luật Dạy nghề, thực tế phát triển của hệ thống dạy nghề ở nước ta trong thời gian qua và yêu cầu của thị trường lao động trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Chính phủ đã phân công cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chức năng quản lý nhà nước về dạy nghề trong đó có quản lý hệ thống dạy nghề bao gồm: cao đẳng nghề, trung cấp nghề, sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên. Còn hệ thống trường trung cấp chuyên nghiệp do Bộ Giáo dục đào tạo quản lý gắn với hệ thống giáo dục đào tạo nói chung.

Thực hiện phân công của Chính phủ, trong những năm qua, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã chủ trì, phối hợp cùng các Bộ, ngành liên quan và các địa phương làm tốt công tác dạy nghề. Dạy nghề không ngừng được phục hồi và phát triển, cung cấp nguồn nhân lực kỹ thuật, tạo được nhiều việc làm, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Hiện nay Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được Chính phủ giao chủ trì xây dựng “Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp, quy hoạch các trường dạy nghề và trung cấp chuyên nghiệp”, trình Chính phủ trong năm 2008, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với Bộ Giáo dục đào tạo nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ các giải pháp đổi mới sự nghiệp đào tạo nghề nghiệp.



36/ Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Các chính sách ưu đãi của Nghị định số 23 đối với lao động nữ vẫn chưa được triển khai hiệu quả do còn nhiều vướng mắc giữa ngành tài chính và doanh nghiệp, do đó chưa khuyến khích các doanh nghiệp tích cực thực hiện đầy đủ các chính sách dành cho lao động nữ. Đề nghị nhà nước cần nghiên cứu bổ sung và hướng dẫn chi tiết Nghị định 23 để nhanh chóng áp dụng trong thực tiễn”.

Trả lời:

Các chính sách ưu đãi đối với lao động nữ được quy định tại Chương X của Bộ luật Lao động; Nghị định số 23/CP ngày 18/4/1996 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về những quy định riêng đối với lao động nữ; Nghị định số 24/2007/NĐ-CP ngày 14/2/2007 quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp; Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 79/1997/TT-BTC ngày 6/11/1997 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 23/CP và các văn bản hướng dẫn khác.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tổng hợp báo cáo đánh giá 10 năm (1996-2005) của các địa phương về tình hình thực hiện các chính sách đối với lao động nữ cho thấy, nhiều chính sách riêng đối với lao động nữ đã được các doanh nghiệp triển khai thực hiện như: các chế độ ưu tiên lao động nữ trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng lao động, trong chính sách bảo đảm việc làm, tạo điều kiện để lao động nữ học tập nâng cao kỹ năng; thực hiện tốt các chế độ thai sản, chế độ đóng bảo hiểm xã hội, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi, an toàn vệ sinh lao động ... Tuy nhiên, một số chính sách ưu đãi đối với lao động nữ chưa phù hợp, chưa khuyến khích doanh nghiệp sử dụng lao động nữ, như: chính sách đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ, chính sách áp dụng chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, chính sách làm việc không trọn ngày, không trọn tuần, giao việc làm tại nhà, chính sách vay vốn giải quyết việc làm và đặc biệt là chính sách miễn giảm thuế đối với những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ.

Để khắc phục những vấn đề nêu trên, trong chương trình xây dựng luật của Quốc hội, Chính phủ sẽ trình Quốc hội để sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động vào năm 2010, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang khẩn trương nghiên cứu, đánh giá để đề xuất những nội dung sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động, trong đó có vấn đề về chính sách đối với lao động nữ theo hướng xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước, của doanh nghiệp trong việc thực hiện các chính sách, chế độ đối với lao động nữ, để tạo điều kiện khuyến khích các doanh nghiệp tích cực thực hiện chính sách đối với lao động nữ.



37/ Cử tri Hải Phòng kiến nghị: “Quy định về mức lương tối thiểu giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài hiện nay có mức chênh lệch khá lớn nên dẫn đến việc nhiều nhà đầu tư lợi dụng quy định này để liên kết, biến tướng thành nhà đầu tư trong nước để hưởng lợi từ nguồn tiền lương và bảo hiểm xã hội chênh lệch, dẫn đến tình trạng bãi công, đình công nhiều như thời gian qua. Đề nghị xem xét quy định mặt bằng mức lương chung giữa tất cả các loại doanh nghiệp”.

Cử tri Đồng Nai, Bình Phước, Vĩnh Long kiến nghị:

Đề nghị nhà nước tăng mức lương tối thiểu trong các doanh nghiệp bởi hiện nay mức lương tối thiểu trong doanh nghiệp nhà nước thấp công nhân không đủ cho sinh hoạt phí và nuôi con, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”.



Trả lời:

Giai đoạn 2003-2008, Chính phủ đã 4 lần điều chỉnh lương tối thiểu chung từ 210.000đồng/tháng lên 540.000 đồng/tháng, tăng thêm 157%. Đồng thời, từ 01/01/2008, Chính phủ cũng đã quy định mức lương tối thiểu đối với các doanh nghiệp trong nước theo 3 vùng như doanh nghiệp FDI, tương ứng với 3 mức là 620.000đ/tháng-580.000đ/tháng-540.000đ/tháng và điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng đối với doanh nghiệp FDI lên 3 mức 1.000.000đ/tháng-900.000đ/tháng-800.000đ/tháng. Việc điều chỉnh tăng dần tiền lương tối thiểu vừa bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô vừa cải thiện đời sống của người làm công ăn lương.

Tuy nhiên, trong điều kiện điểm xuất phát nền kinh tế nước ta còn thấp, năng suất lao động chưa cao, khả năng ngân sách hạn hẹp, vừa phải thực hiện cải cách tiền lương vừa phải bảo đảm chi đầu tư, trả nợ và chi thường xuyên cho các lĩnh vực nên việc điều chỉnh mức lương tối thiểu chung cũng chưa đạt được mức độ cải thiện như mong muốn. Mặt khác, mức lương tối thiểu giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn có sự khác biệt là do các doanh nghiệp trước đây hoạt động theo 3 luật khác nhau (Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật doanh nghiệp năm 1999, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam) và cường độ lao động của người lao động làm việc trong doanh nghiệp FDI cao hơn so với doanh nghiệp trong nước. Việc điều chỉnh để thực hiện thống nhất mức lương tối thiểu giữa các loại hình doanh nghiệp là cần thiết nhưng do gần 90% doanh nghiệp trong nước là doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ, thiết bị lạc hậu, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh chưa cao do vậy tiền lương tối thiểu đối với các doanh nghiệp trong nước phải điều chỉnh tăng dần phù hợp với khả năng của doanh nghiệp.

Từ thực tế trên, để thực hiện các cam kết quốc tế và bảo đảm bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp khi thực hiện Luật Doanh nghiệp chung, từ năm 2008, Đề án cải cách chính tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2008-2012 sẽ được thực hiện theo hướng tiếp tục thực hiện điều chỉnh tăng dần mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng để tiến tới thực hiện thống nhất mức lương tối thiểu giữa các loại hình doanh nghiệp vào năm 2012.

Trong quá trình triển khai thực hiện Đề án, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng sẽ phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương để tăng cường kiểm tra, thanh tra, bảo đảm việc thực hiện của các doanh nghiệp theo đúng quy định.

38/ Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: “Số vụ việc đình công ngày càng gia tăng, trong đó chủ yếu là do các mâu thuẫn về tiền lương giữa người lao động và người sử dụng lao động. Quy định về giải quyết tranh chấp lao động còn rất phức tạp, mất thời gian và nghiêng về phía người sử dụng lao động; cơ chế xử phạt và quản lý nhà nước về đình công còn chưa nghiêm và chưa đủ sức răn đe, cơ chế hòa giải chưa hiệu quả; cần tăng cường công tác quản lý về đình công, tìm các giải pháp tháo gỡ, nâng cao chức năng hòa giải ở các cấp”.

Trả lời:

Ngày 29 tháng 11 năm 2006 Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động chương liên quan đến giải quyết tranh chấp lao động và đình công, trong đó nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động là thông qua thương lượng, hòa giải và trọng tài là chủ yếu, đồng thời quy định về thời hạn của các bước hòa giải và trọng tài cũng được rút ngắn so với trước đây (hòa giải tại cơ sở rút ngắn từ 7 ngày xuống còn 3 ngày; giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền rút ngắn từ 10 ngày xuống còn 5 ngày; trọng tài giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích rút ngắn từ 10 ngày xuống còn 7 ngày).

Để hướng dẫn thực hiện các quy định nêu trên, Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 122/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007 quy định danh mục doanh nghiệp không được đình công và việc giải quyết yêu cầu của tập thể lao động ở doanh nghiệp không được đình công; Nghị định 133/2007/NĐ-CP ngày 08/8/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động; Nghị định số 11/2008/NĐ-CP ngày 30/01/2008 quy định về việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp cuộc đình công bất hợp pháp gây thiệt hại cho người sử dụng lao động; Nghị định số 12/2008/NĐ-CP ngày 30/01/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành điều 176 của Bộ luật Lao động về hoãn hoặc ngừng đình công và giải quyết quyền lợi của tập thể lao động và Nghị định số 113/2004/NĐ-CP ngày 16/4/2004 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động. Trong đó, Nghị định 133/2007/NĐ-CP quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, như: trách nhiệm của các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp, cơ quan lao động các cấp, Liên đoàn lao động các cấp trong việc giải quyết tranh chấp lao động nói chung và đình công nói riêng; Nghị định số 113/2004/NĐ-CP quy định đối với người có hành vi trù dập, trả thù người tham gia đình công, người lãnh đạo đình công thì mức phạt cao nhất là 20 triệu đồng và hiện nay đang xem xét quy định nâng mức phạt cao hơn khi Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi.

Ngoài ra, để hạn chế đình công không đúng trình tự pháp luật quy định, Thủ tướng đã có Chỉ thị số 06/2006/CT-TTg ngày 6 tháng 3 năm 2006 về tăng cường chỉ đạo và chấp hành pháp luật trong doanh nghiệp, trong đó chỉ đạo các tỉnh, thành phố thành lập Ban giải quyết đình công không đúng trình tự pháp luật để chỉ đạo, hỗ trợ các bên thương lượng khi xảy ra tranh chấp lao động, đình công.

Việc xây dựng quan hệ lao động lành mạnh trong doanh nghiệp, hạn chế các cuộc đình công xảy ra không đúng trình tự pháp luật quy định thì cần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người sử dụng lao động và người lao động, nâng cao vai trò và năng lực đàm phán của cán bộ công đoàn cơ sở, đẩy mạnh việc thương lượng ký kết thỏa ước lao động tập thể, đồng thời Nhà nước cần tăng cường giám sát việc thực hiện pháp luật lao động và những thỏa thuận hai bên đạt được tại doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

39/ Cử tri tỉnh Hòa Bình kiến nghị: Đề nghị Nhà nước quan tâm tới chính sách đền bù cho gần 2000 người là đối tượng đi lao động ở I-rắc về nước trước thời hạn vẫn chưa được hưởng chế độ”.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 3.72 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   21   22   23   24   25   26   27   28   ...   48




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương