PHÁc thảo tình hình sản xuất nông nghiệP…


N¤NG NGHIÖP, N¤NG TH¤N VIÖT NAM SAU HAI N¡M VµO WTO (2007 - 2008)



tải về 9.17 Mb.
trang17/26
Chuyển đổi dữ liệu08.05.2018
Kích9.17 Mb.
#37785
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   26



N¤NG NGHIÖP, N¤NG TH¤N VIÖT NAM
SAU HAI N¡M VµO WTO (2007 - 2008)

P



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIEÅU BAN NOÂNG THOÂN, NOÂNG NGHIEÄP VIEÄT NAM HIEÄN ÑAÏI





GS.TS Nguyễn Sinh Cúc*


Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam được kết nạp vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), là thành viên thứ 150. Sự kiện quan trọng này vừa là cơ hội, thời cơ lại vừa là thách thức đối với kinh tế Việt Nam nói chung, nông nghiệp và nông thôn nói riêng trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế thế giới. Thực tế đó đã được chứng minh khá rõ nét trong gần hai năm đầu gia nhập WTO (2007 - 2008)

1. Những yếu tố ảnh hưởng của gia nhập WTO đối với nông nghiệp và nông thôn Việt Nam

Đối với một nước kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, 72,86% dân số sống ở nông thôn, gần 70% lao động làm nông nghiệp; 20,4% GDP do nông nghiệp tạo ra và 30% kim ngạch xuất khẩu có nguồn gốc từ nông lâm nghiệp và thuỷ sản (2006), thì tác động của WTO vào khu vực nông nghiệp, nông thôn càng rõ nét. Tác động đó bao gồm cả hai mặt: phát huy được lợi thế, thời cơ cũng như phải đối mặt với những yếu thế, bất cập và thách thức mới.



1.1. Phát huy lợi thế và thời cơ

Về lợi thế: Vào thời điểm gia nhập WTO (11/2006), nông nghiệp, nông thôn Việt Nam có nhiều lợi thế. Sau 20 năm đổi mới, quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn theo hướng chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp là chính sang sản xuất hàng hoá gắn với thị trường thế giới và khu vực dựa trên cơ sở đơn vị sản xuất là kinh tế nông hộ ở khu vực nông thôn đã đạt được những thành tựu mới. Nông nghiệp Việt Nam (theo nghĩa rộng gồm cả lâm nghiệp và thuỷ sản) đã có nhiều thay đổi so với trước. Từ một nền nông nghiệp độc canh, tự cung tự cấp lương thực là chủ yếu trước đổi mới, đã từng bước chuyển thành nền nông nghiệp đa canh, có tỷ suất hàng hoá ngày càng cao gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Trước ngưỡng cửa của WTO, nông nghiệp Việt Nam đã bước đầu mang dáng dấp của một nền nông nghiệp hàng hoá có những nét hiện đại đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của thị trường trong nước với nhu cầu cao hơn, đồng thời dư thừa nông sản, thuỷ sản xuất khẩu.

- Sản phảm nông nghiệp đã đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia trong mọi tình huống dù cho thiên tai nặng nề và biến động bất lợi của thị trường thế giới. Ngay cả những năm thiên tai dồn dập, như năm 2006, thị trường và giá cả nông sản, thuỷ sản trong nước vẫn ổn định, không có cơn sốt dù nhỏ về giá ngay tại những vùng bị thiên tai, dịch bệnh nặng. Hộ và khẩu thiếu đói lương thực trong nông thôn vào mùa giáp hạt cả nước năm 2006 vẫn giảm 36% so với năm trước. Nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản vẫn được đáp ứng khá kịp thời, có phần dư dật (như mía, dứa, lạc, đỗ tương, thuỷ sản...).

- Cả nước đã hình thành các vùng sản xuất nông sản hàng hoá quy mô lớn, chuyên canh và thâm canh cao như lúa gạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), cây ăn trái ở ĐBSCL và Đông Nam Bộ; cây cà phê và cao su ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, cây chè ở miền núi phía Bắc, thuỷ sản ở Nam Trung Bộ và ĐBSCL... Chính các vùng sản xuất hàng hoá lớn tập trung đó đã cung cấp nông sản hàng hoá và xuất khẩu trong những năm qua và là dấu hiệu của nền nông nghiệp hàng hoá lớn đã và đang hình thành, khác hẳn thời kỳ trước đổi mới.

- Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp đã chuyển mạnh theo hướng phát triển kinh tế hộ và trang trại phù hợp với yêu cầu giải phóng sức sản xuất, thích ứng với cơ chế thị trường. Năm 2006, cả nước có trên 113,7 nghìn trang trại hoạt động trong các lĩnh vực trồng trọt chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, kinh doanh lâm nghiệp. Các trang trại cũng là đơn vị sản xuất nông sản hàng hoá lớn cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu.



- Khoa học kỹ thuật phục vụ nông nghiệp Việt Nam ngày nay đã đáp ứng khá đầy đủ các yêu cầu của nền nông nghiệp hàng hoá gắn với xuất khẩu. Công nghệ sinh học, tưới tiêu, làm đất, phân bón, bảo quản, sau thu hoạch... ngày càng tiến bộ và đã góp phần tích cực vào thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi theo yêu cầu thị trường. Năng suất lúa của Việt Nam những năm gần đây đã gấp 2 lần của Thái Lan, Philippines và vượt cả Indonesia... nhờ ứng dụng các công nghệ sinh học và phân bón. Tỷ lệ đất nông nghiệp được tưới tiêu của Việt Nam cao hơn nhiều so với Thái Lan và Philippines.

- Nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam hiện đã đứng hàng nhất, nhì thế giới, trong đó hạt tiêu thứ nhất, gạo, cà phê thứ hai, hạt điều, cao su tự nhiên thứ ba, thuỷ sản đã đạt kim ngạch trên 3,363 tỷ USD năm 2006 với nhiều loại được khách hàng các thị trường khó tính như Bắc Mỹ, EU, Nhật Bản, Singapore... chấp nhận. Năm 2006, lượng gạo thơm Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đã tăng gấp hơn 2 lần năm 2005.



- Chi phí sản xuất thấp: Nông nghiệp Viêt Nam có ưu điểm là chi phí sản xuất thấp so với các nước khác trong khu vực. Bên cạnh chi phí vật chất còn phụ thuộc vào thị trường và giá cả thế giới như xăng dầu, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống thuỷ sản (tôm)… nhưng chi phí lao động sống lại rất thấp do giá trị ngày công trong nông thôn không cao, thu nhập của lao động nông nghiệp nói chung thấp. Tuy nhiên trình độ văn hoá, kiến thức khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị trường của nông dân đã có nhiều tiến bộ. Những yếu tố trên đây là tiền đề cơ bản để nông sản đứng vững trong cạnh tranh trên thị trường, là lợi thế mới, là hành trang không hề kém của nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO.

Về thời cơ: Khi gia nhập WTO, thị trường xuất khẩu nông sản, thuỷ sản của Việt Nam sẽ mở rộng. Các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam được tự do xâm nhập các thị trường 149 nước thành viên WTO với tư cách bình đẳng mà không phải chịu những hạn chế về số lượng, không phải nhờ qua nước trung gian. Các thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản… không còn là vùng cấm của nông sản Việt Nam. Thương hiệu nông sản, thuỷ sản "Made in Việt Nam" sẽ hình thành và đứng vững trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Hàng loạt mặt hàng nông sản Việt Nam trước đây xuất khẩu nhờ thương hiệu của nước thứ 3 thì nay sẽ xuất khẩu trực tiếp. Do vậy chi phí trung gian giảm, nhiều thương hiệu hàng hoá như cà phê Trung Nguyên, gạo thơm Chợ Đào, nếp cái Hoa Vàng, nho Ninh Thuận, chè Thái Nguyên, hạt tiêu Phú Quốc, tôm hùm, tôm càng xanh, cá ngừ đại dương, bưởi Năm Roi, Biên Hoà, Diễn, Phúc Trạch, cam Cần Thơ, xoài cát Bến Tre, Tiền Giang sẽ lần lượt hình thành và cạnh tranh trên thị trường thế giới. Các loại nông sản thế giới sẽ tràn ngập thị trường Việt Nam cũng là thời cơ để các doanh nghiệp, các chủ trang trại và hàng triệu hộ nông dân tiếp cận với thị trường thế giới ngay tại Việt Nam, từ đó giúp họ điều chỉnh quy hoạch và kế hoạch sản xuất từng loại nông sản để tăng sức cạnh tranh ngay tại thị trường trong nước.

- Khi gia nhập WTO, sản xuất công nghiệp và dịch vụ khu vực nông thôn sẽ có bước phát triển đột biến. Làn sóng đầu tư mới từ Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga và nhất là EU sẽ chảy mạnh vào Việt Nam, trong đó khả năng thu hút vào lĩnh vực nông nghiệp sẽ tăng cao. Nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có công nghệ hiện đại sẽ tạo điều kiện gắn sản xuất nông sản với chế biến và xuất khẩu; xây dựng nâng cấp kết cấu hạ tầng nông thôn. Chất lượng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ được nâng lên, tình trạng xuất khẩu nông sản thô, chất lượng kém sẽ được hạn chế và giảm dần. Lao động nông nghiệp sẽ chuyển nhanh sang công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ thương mại phi nông nghiệp trên địa bàn nông thôn. Một nền nông nghiệp thương phẩm sẽ hình thành và phát triển nhanh cùng với lộ trình gia nhập WTO.

Đó là điều kiện, là thời cơ mới để sản xuất khu vực này có thêm vốn, lao động kỹ thuật, khoa học công nghệ, thị trường mới nhằm thực hiện CNH, HĐH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động. Các yếu tố để tích tụ ruộng đất theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề của lao động nông thôn sẽ có khả năng tăng lên.

1.2. Những yếu thế và bất cập

Bên cạnh lợi thế, thời cơ, nông nghiệp, nông thôn Việt Nam khi vào WTO vẫn còn nhiều yếu thế và bất cập mới.

- Thứ nhất, sản phẩm nông nghiệp Việt Nam hiện nay sản xuất ra chủ yếu để tiêu dùng cho người sản xuất, còn sản phẩm hàng hoá chiếm tỷ trọng không lớn, nhất là các sản phẩm lương thực, thực phẩm tiêu dùng cho đời sống như lúa, ngô, khoai, rau đậu các loại, thịt gia súc và gia cầm.

- Thứ hai, đơn vị sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp là hộ gia đình nông dân, có quy mô sản xuất rất bé, sản xuất lại phân tán, công cụ sản xuất nhiều vùng, nhất là vùng núi, vùng sâu vẫn còn lạc hậu. Bên cạnh đó các hoạt động dịch vụ cung ứng vật tư, tưới tiêu, thu gom nông sản hàng hoá lại do HTX, tổ kinh tế hợp tác và các doanh nghiệp tư nhân, thương lái thực hiện. Trong khi đó, các chính sách và cơ chế quản lý các tổ chức dịch vụ nông nghiệp lại chưa hoàn thiện, nên người nông dân vẫn chịu thiệt thòi nhiều mặt. Tình trạng ép cấp ép giá nông sản vẫn còn phổ biến.

- Thứ ba, cơ cấu sản xuất nông nghiệp chưa theo kịp yêu cầu của thị trường tiêu dùng trong nước và xuất khẩu nhưng chuyển dịch rất chậm, không đều và không vững chắc. Nhược điểm này trước hết và chủ yếu thể hiện rõ nét ở cơ cấu sản xuất trong nội bộ khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản mở rộng và trong từng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản theo nghĩa hẹp.

+ Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn dao động ở mức từ 80,5% đến 81% và có xu hướng tăng dần: tỷ trọng lâm nghiệp giảm dần. Tỷ trọng ngành thủy sản tuy có tăng dần nhưng xu hướng chưa ổn định, tính vững chắc chưa cao do tác động tiêu cực của thị trường xuất khẩu thủy sản, nhất là thị trường Mỹ, Nhật.

+ Cơ cấu sản xuất nông nghiệp (nghĩa hẹp) còn mang nặng tính độc canh, tự cấp, tự túc, phân tán, quy mô nhỏ.

Trồng trọt và chăn nuôi là hai ngành sản xuất chính của nông nghiệp theo nghĩa hẹp. Mục tiêu đề ra đến năm 2010, tỷ trọng ngành chăn nuôi chiếm 25% giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, thực tế diễn ra trong những năm đổi mới không đáp ứng được yêu cầu đó, ngược lại đã xuất hiện xu hướng giảm dần và không ổn định trên phạm vi cả nước cũng như từng vùng, từng địa phương. Trong ngành trồng trọt, tỷ trọng nhóm cây lương thực vẫn rất lớn trong cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng trọt, tỷ trọng các nhóm cây khác như rau đậu, cây công nghiệp, cây ăn quả... tuy có tăng nhưng mức độ và tốc độ rất chậm.

+ Hạn chế trong sản xuất lúa nước ta là chưa gắn chặt với chế biến và thị trường, nhất là thị trường thế giới trong bối cảnh hội nhập. Chất lượng và tính bền vững của tăng trưởng chưa cao, chưa tương xứng với vị trí và tiềm năng đất đai, nguồn nước, lao động trồng lúa của các vùng. Sản xuất lúa không đồng đều, trong khi năng suất, sản lượng và chất lượng lúa gạo vùng ĐBSCL và ĐBSH tăng khá nhanh thì 6 vùng còn lại đều tăng chậm và giảm. Cơ cấu giống lúa vẫn còn mang nặng tính truyền thống, chậm chuyển đổi sang sản xuất hàng hoá. Chất lượng lúa gạo tuy có tiến bộ song về cơ bản vẫn còn khoảng cách xa với yêu cầu thị trường và chưa ổn định.

+ Cây công nghiệp tăng nhanh nhưng tự phát. Đến nay, cả nước có 1,5 triệu ha đất trồng cây công nghiệp lâu năm chiếm 70% tổng diện tích cây lâu năm và 800 nghìn ha cây công nghiệp hàng năm, chiếm 7,7% tổng diện tích cây hàng năm, tạo ra giá trị sản xuất hơn 23,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 25% tổng giá trị sản xuất ngành trồng trọt và 20% giá trị sản xuất nông nghiệp.

- Thứ tư, dân số nông thôn tăng nhanh, trung bình mỗi năm dân số tăng thêm trên 1 triệu người, càng tăng sức ép cầu lương thực, chủ yếu là lúa gạo, nhu cầu về đất thổ cư do san tách hộ nông nghiệp làm giảm đất lúa. Quỹ đất canh tác lúa có xu hướng giảm dần do quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá diễn ra nhanh. Một số vấn đề xã hội nông thôn diễn biến phức tạp: Lao động thừa, việc làm thiếu, thu nhập dân cư nông thôn thấp, khoảng cách thu nhập và đời sống giữa dân cư và thành thị tăng, tỷ lệ hộ nghèo trong nông thôn còn cao, trình độ dân trí thấp, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn rất lớn nên rất khó khăn tìm việc làm mới ngoài nông nghiệp. Cơ sở hạ tầng nông thôn còn nhiều bất cập, nhất là thuỷ lợi, điện, giao thông, y tế.

- Thứ năm, khi vào WTO thị trường Việt Nam, thuế xuất nhập khẩu nông sản, thuỷ sản sẽ giảm dần theo lộ trình và hàng nông sản các nước với chất lượng và độ sạch cao hơn, giá cả cạnh tranh... cũng sẽ tràn ngập, nên những yếu thế của nông sản sản xuất trong nước sẽ gặp khó khăn ngay trên sân nhà. Sự bảo hộ của nhà nước đối với sản xuất nông nghiệp tuy còn nhưng không lớn và giảm dần, nhất là bảo hộ nông sản xuất khẩu. Thách thức đối với nông nghiệp cũng theo đó tăng lên.

2. Thực trạng nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau gần 2 năm gia nhập WTO (2007 - 2008)

2.1. Những chuyển biến tích cực

Thứ nhất: Sản xuất nông nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển toàn diện, tăng trưởng khá và chuyển dịch theo hướng hàng hoá. Phát huy thành quả của hơn 20 năm đổi mới và tranh thủ các yếu tố và thời cơ thuận lợi do WTO tạo ra, trong gần 2 năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã từng bước chuyển thành nền nông nghiệp đa canh, có tỷ suất hàng hoá ngày càng cao gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Số lượng sản phẩm tăng nhanh, chủng loại sản phẩm đa dạng, chất lượng ngày càng cao, cơ cấu sản phẩm có nhiều thay đổi, điều kiện và tính chất của các yếu tố sản xuất cũng có nhiều điểm mới so với trước.

Sau khi vào WTO, nông nghiệp Việt Nam bước đầu mang dáng dấp của một nền sản xuất hàng hoá có những nét hiện đại đáp ứng được các yêu cầu của thị trường trong nước với nhu cầu cao hơn về chất lượng. Mặc dù 2 năm qua, thiên tai, sâu bệnh, dịch cúm gia cầm, gây hậu quả nghiêm trọng cho sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản; giá cả phân bón vật tư nông nghiệp tăng cao, nhưng sản xuất nông nghiệp Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển theo hướng bền vững, tốc độ tăng trưởng khá cao. Tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực này năm 2007 vẫn đạt 4,3%, cao hơn năm 2006. 6 tháng đầu năm 2008 tăng 3,0% và ước tính cả năm tăng 4,5%, cao hơn tốc độ tăng cùng kỳ năm 2007. Sản phẩm nông nghiệp sản xuất trong nước 2 năm qua vẫn đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia trong mọi tình huống dù cho cuộc khủng hoảng lương thực thế giới đầu năm 2008 diễn ra gay gắt. Nông sản hàng hoá Việt Nam vẫn đáp ứng đầy đủ nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như mía đường, rau quả, lúa gạo, chè. Các hợp đồng xuất khẩu đã ký kết với khách hàng được thực hiện theo đúng cam kết WTO. Chính phủ đã thực hiện xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản theo đúng cam kết WTO và mở cửa thị trường, giảm thuế suất đối với các mặt hàng nông sản nhập khẩu theo đúng lộ trình. Tình trạng trợ cấp mua lúa, cà phê, tạm trữ xuất khẩu như các năm trước đã không còn. Năm 2007 và 8 tháng đầu năm 2008 giá cả nông sản, thuỷ sản trong nước tuy có tăng cao hơn năm 2007 nhưng về cơ bản vẫn ổn định, không có cơn sốt lớn về thiếu lương thực, thực phẩm như các năm trước. Lượng gạo hỗ trợ đồng bào vùng bị thiên tai tăng cao nhưng vẫn đáp ứng đủ nhu cầu cơ bản của đời sống dân cư, không để dân đói. Lượng gạo xuất khẩu năm 2007 và 2008 vẫn đạt kế hoạch 4,5 triệu tấn/năm theo hợp đồng đã ký kết từ đầu năm.



Thứ hai: Thị trường xuất khẩu mở rộng, xuất khẩu nông sản tăng cao cả về lượng và giá. Theo các cam kết của WTO về mở cửa thị trường, trong 2 năm qua hoạt động xuất khẩu nông sản theo hướng tăng chất lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm đi đôi với xoá dần sự bảo hộ của nhà nước về xuất khẩu các mặt hàng này đã được thực hiện khá tốt trên phạm vi toàn ngành từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ nông sản. Nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu đã đứng vững trên thị trường cũ đồng thời mở rộng vào các thị trường mới để góp phần giải quyết đầu ra cho nông sản hàng hoá bằng đẩy mạnh xuất khẩu. Các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực không chỉ giữ vững vị trí hàng nhất, nhì thế giới về số lượng mà bước đầu vươn tới cả chất lượng, giá cả và vệ sinh an toàn thực phẩm. Tính chung 2 năm sau khi vào WTO, kim ngạch xuất khẩu nông sản, thuỷ sản Việt Nam tiếp tục tăng trưởng cao; năm 2007 đạt 10,9 tỷ USD, tăng 21,7% so năm 2006, trong đó hàng nông sản đạt 7,2 tỷ USD, tăng 35,5%, hàng thuỷ sản đạt 3,7 tỷ USD, tăng 12,1%. Năm 2008 ước tính tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tiếp tục tăng cao, khoảng 25 - 27% so năm 2007. Riêng 8 tháng đầu năm 2008, kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực đã tăng cao hơn mức cùng kỳ 2007, trong đó: hạt điều tăng 42,8%; gạo tăng 94,6%; cà phê tăng 83,2%; cao su tăng 73,1%, chè tăng 22,6%, thuỷ sản tăng 33,7% so với cùng kỳ năm 2007.

Nét nổi bật trong những kết quả đó trong 2 năm qua không phải do tăng số lượng mà là tăng chất lượng và độ an toàn thực phẩm nên giá cả hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu tăng lên, thị trường mở rộng kể cả thị trường khó tính như Nhật Bản, EU và Mỹ. Sau khi vào WTO, nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam không chỉ tăng ở các thị trường truyền thống đã có mà đã bước đầu xâm nhập ngày càng nhiều vào các thị trường mới như Nam Mỹ, châu Phi, Nam Á với lượng và giá tăng dần. Mặt hàng gạo, thuỷ sản, chè là thí dụ rõ nét. Lượng gạo Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật gần 2 năm qua tăng hơn 2 lần so cùng kỳ năm 2006. Chênh lệch về giá gạo cùng loại của Việt Nam so với gạo Thái Lan đã rút ngắn đáng kể. Cùng với thị trường Nhật Bản, mặt hàng gạo Việt Nam còn đứng vững trên thị trường nhiều nước EU, Nga, các nước châu Á như Indonexia, Philippines. Cùng với gạo là thuỷ sản. Kết quả bức tranh xuất khẩu thuỷ sản 2 năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã khác trước. Chưa bao giờ thị trường và giá cả hàng thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam lại sáng lạn như năm qua. Số lượng doanh nghiệp thuỷ sản đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường EU, Mỹ và Nhật Bản năm qua tăng gấp 2 lần so với trước đây.



Thứ ba: Đổi mới về nhận thức của người sản xuất nông nghiệp (nghĩa rộng). Khi vào WTO, thị trường Việt Nam, thuế xuất nhập khẩu nhiều mặt hàng nông sản, thuỷ sản đã giảm dần theo lộ trình, sự bảo hộ của nhà nước cho nông nghiệp cũng hạn chế theo cam kết WTO. Là thành viên WTO nên Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường nông sản như các thành viên khác. Hàng nông sản các nước với chất lượng và độ sạch cao hơn, giá cả cạnh tranh... cũng đã thâm nhập vào các siêu thị Việt Nam. Đó là thịt bò Mỹ, Úc, quả tươi Trung Quốc, gạo Thái Lan, lúa mỳ, sữa và các sản phẩm sữa châu Âu. Tuy số lượng hàng nông sản ngoại nhập chưa nhiều nhưng cũng tăng khá: năm 2007 giá trị nhập khẩu lúa mỳ tăng 44%, sữa và sản phẩm sữa tăng 19,5%, dầu mỡ thực vật tăng 68,2%, thức ăn gia súc và NPL tăng 51,5% so cùng kỳ 2006. 8 tháng đầu năm 2008, kim ngạch nhập khẩu lúa mỳ tăng 13,1%; thức ăn gia súc và NPL tăng 70,5%; bông tăng 58,4%; gỗ NPL tăng 18,2% sữa và sản phẩm sữa tăng 38,8%; phân Ure tăng 24,8% Do có phân bón và nông sản ngoại nhập nên sản phẩm nông nghiệp sản xuất trong nước gặp khó khăn hơn trong cuộc cạnh tranh với hàng ngoại ngay trên sân nhà. Sự bảo hộ của nhà nước đối với sản xuất nông nghiệp tuy còn nhưng không lớn và giảm dần, nhất là bảo hộ nông sản xuất khẩu.

Nhận thức được thách thức đó, tư duy của một bộ phận hộ nông dân, trang trại đã có chuyển biến bước đầu theo lộ trình gia nhập WTO. Tư duy sản xuất nông nghiệp sạch, chất lượng cao, chi phí thấp để tăng sức cạnh tranh trên thị trường đã bước đầu thay thế tư duy năng suất cao, sản lượng nhiều bằng mọi giá của các năm trước. Các vùng sản xuất tập trung chè, trái cây, chăn nuôi lợn thịt hướng nạc... cũng có bước chuyển biến tích cực theo hướng chất lượng, sạch và chi phí thấp nên sản phẩm xuất khẩu năm qua đã tăng khá nhanh so với trước đây, khi chưa vào WTO. Nhờ đó, các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu tăng chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, giá cả thấp hơn để tăng sức cạnh tranh trên thị trường.



Thứ tư: Vai trò của Nhà nước đối với nông nghiệp được tăng cường phù hợp với cam kết WTO. Gần 2 năm vào WTO, nhận thức của các ngành, các cấp về nông nghiệp, nông thôn đã có bước chuyển tích cực theo hướng quan tâm nhiều hơn, đầu tư tập trung hơn cho các khâu quan trọng trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản để tăng hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân. Hàng loạt cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp đã được ban hành hỗ trợ nông nghiệp phù hợp với cam kết WTO. Đó là chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp trong mức hạn điền, bỏ thuỷ lợi phí, giảm các khoản đóng góp cho nông dân, khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chế biến nông sản, nhất là công nghệ sinh học và công nghệ sau thu hoạch, nông nghiệp công nghệ cao vùng ven thành phố lớn. Nghị quyết “về nông nghiệp, nông dân và nông thôn” được Hội nghị Ban Chấp hành TW Đảng lần thứ bảy (Khoá X) thông qua tháng 7/2008 là minh chứng rõ ràng.

Thứ năm: Sau khi vào WTO, quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế trong ngành nông nghiệp (nghĩa rộng) theo hướng chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp là chính sang sản xuất hàng hoá gắn với thị trường thế giới và khu vực diễn ra nhanh hơn, đồng bộ hơn. Sự chuyển đổi này đã tạo tiền đề và điều kiện để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng hàng hoá gắn với thị trường chặt chẽ hơn. Cơ chế kinh tế dựa trên cơ sở đơn vị sản xuất nông nghiệp là kinh tế nông hộ, trang trại tư nhân và HTXNN... đã xuất hiện những nhân tố mới.

Khoa học kỹ thuật phục vụ nông nghiệp Viêt Nam ngày nay đã đáp ứng khá đầy đủ các yêu cầu của nền nông nghiệp hàng hoá gắn với xuất khẩu. Công nghệ sinh học, tưới tiêu, làm đất, phân bón, bảo quản, sau thu hoạch... ngày càng tiến bộ và đã góp phần tích cực vào thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi theo yêu cầu thị trường.



Thứ sáu: Kinh tế - xã hội nông thôn đổi mới

Kết cấu hạ tầng nông thôn tiếp tục được xây dựng mới và nâng cấp.

Phát triển nhanh mạng lưới điện ở nông thôn. Năm 2007 có tới 98,9% số xã, 92,4% số thôn có điện (trong đó 87,8% số thôn có điện lưới quốc gia) và tỷ lệ hộ nông thôn sử dụng điện đã lên tới 94,2%. Như vậy, sau 12 năm tỷ lệ số hộ có điện tăng thêm 41,2%, nên đến năm 2006 ở khu vực nông thôn chỉ còn 5,8% số hộ chưa có điện.

Đường giao thông nông thôn được xây dựng và nâng cấp cả về số lượng và chất lượng.

Đến năm 2007 cả nước có 8790 xã có đường ô tô đến được trụ sở UBND xã, chiếm 96,9% tổng số xã (năm 1994 là 87,9% và năm 2001 là 94,2%); trong đó, có 8488 xã (chiếm 96,6%) có đường ô tô đi lại được quanh năm, và có 6356 xã (chiếm 70%).

Hệ thống trường học các cấp ở nông thôn tiếp tục được mở rộng và phát triển, đến năm 2007 có 88,3% số xã có trường mẫu giáo/mầm non, 99,3% số xã có trường tiểu học, 90,8% số xã có trường trung học cơ sở (năm 1994 là 76,6%, năm 2001 là 84,4%), 10,8% số xã có trường trung học phổ thông (năm 1994 là 7%, năm 2001 là 8,5%). Điểm tiến bộ về giáo dục tiểu học là bình quân 1 xã có 1,44 trường. Việc mở thêm các điểm trường ở các thôn đã tạo điều kiện thuận lợi để học sinh không phải đi học xa, giảm được tình trạng học sinh bỏ học. Các cơ sở nhà trẻ, mẫu giáo phát triển, mở rộng đến cấp thôn, đến nay có 54,5% số thôn có lớp mẫu giáo, 16,1% số thôn có nhà trẻ.

Hệ thống y tế nông thôn được quan tâm xây dựng đã và đang trở thành tuyến chăm sóc sức khoẻ ban đầu quan trọng của nhân dân.

Đến năm 2007, có 9013 xã có trạm y tế, chiếm 99,3% tổng số xã và tăng 128 xã so với năm 2001. Bình quân 1 trạm y tế xã có 0,63 bác sỹ và 1 vạn dân có 1 bác sỹ (năm 2001 các con số tương ứng là 0,51 và 0,8). Khu vực nông thôn có 3964 trạm y tế xã, chiếm 44%, đã được xây dựng kiên cố.

Chương trình cung cấp nước sạch nông thôn đạt được những kết quả khả quan, với 36,5% số xã có công trình cấp nước sinh hoạt tập trung. Vệ sinh môi trường nông thôn đang từng bước được quan tâm, đến nay đã có 12,2% số xã và 5,6% số thôn có xây hệ thống thoát nước thải chung, 28,4% số xã có tổ chức hoặc thuê thu gom rác thải. Môi trường ở nông thôn ngày càng được cải thiện.

Mạng lưới thông tin, văn hoá phát triển nhanh, góp phần cải thiện đời sống tinh thần của nhân dân. Đến năm 2007, khu vực nông thôn có 7757 xã, chiếm 85,5% số xã có điểm bưu điện văn hoá (năm 2001 là 71,9%). Tỷ lệ xã có điểm bưu điện văn hoá được nối mạng internet đạt 20,7%. Ngoài ra khu vực nông thôn còn có 2022 xã, chiếm 22,3%, có trạm bưu điện xã. Cả hai loại hình điểm bưu điện văn hoá xã và trạm bưu điện xã về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu thông tin liên lạc ở khu vực nông thôn. Những năm gần đây trên địa bàn xã phát triển nhanh các điểm dịch vụ internet tư nhân phục vụ nhu cầu truy cập thông tin của nhân dân, đến năm 2007 đó có 2952 xã (chiếm 32,5%), với 7752 điểm internet tư nhân, bình quân 1 xã có 0,85 điểm. Số hộ có máy điện thoại (cố định/di động) là 2,924 triệu hộ, chiếm 21,2% số hộ, tăng 15,9% so năm 2001; bình quân cứ 4,7 hộ thì có 1 hộ có máy điện thoại.

Hệ thống ngân hàng thương mại và quỹ tín dụng nhân dân được hình thành ở khu vực nông thôn nhiều hơn những năm trước, tạo thuận lợi cho nhân dân tiếp cận vay vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Đến năm 2007, có 1100 xã, chiếm 12,1% số xã, có ngân hàng/chi nhánh ngân hàng đứng trên địa bàn; có 920 xã, chiếm 10,1% số xã, có quỹ tín dụng nhân dân. Tỷ lệ xã thuộc chương trình 135 có ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân còn rất thấp (con số tương ứng là 4,3% và 2,4%).

Năm 2007, tỷ lệ xã có chợ là 58,8%, bình quân 1 xã có 0,8 chợ; trong đó tỷ lệ xã có chợ cao nhất là vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 72,6%. Nhiều làng nghề được khôi phục và phát triển. Đến năm 2006, khu vực nông thôn có 702 xã (chiếm 7,7%) có làng nghề, với 1077 làng nghề (năm 2001 có 710 làng nghề), số làng nghề truyền thống là 951 làng (chiếm tỷ lệ 88,3%). Làng nghề đã thu hút 256 nghìn hộ tham gia thường xuyên, với số lao động tham gia thường xuyên 655 nghìn lao động. Bình quân 1 làng nghề có 237,2 hộ với 608,9 lao động tham gia thường xuyên. Số cơ sở chế biến nông, lâm, thuỷ sản ngày càng tăng, đến năm 2006, có 428,4 nghìn cơ sở, bình quân 1 xã có 47,2 cơ sở.

Hệ thống thuỷ lợi, khuyến nông, lâm, ngư cấp xã, cấp thôn được xây dựng và củng cố góp phần hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất.

Đến năm 2007, có 13.643 trạm bơm nước phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trên địa bàn xã; bình quân 1 xã có 1,5 trạm bơm nước. Đến năm 2007, hoàn thành và đưa vào sử dụng trên 220 công trình thuỷ lợi; năng lực tăng thêm về tưới và tạo nguồn 300 nghìn ha; ngăn mặn tăng 226 nghìn ha.

Nhà nước đã quan tâm đầu tư và mở rộng hệ thống khuyến nông, lâm, ngư và thú y của xã và thôn để phục vụ, hỗ trợ nông dân trong sản xuất. Đến năm 2007, có 78,7% số xã có cán bộ khuyến nông, lâm, ngư với 8398 người, bình quân 1 xã có 0,9 người; 26,5% số thôn có cộng tác viên khuyến nông, lâm, ngư. Có 83,6% số xã có cán bộ thú y của xã, với 9552 người; 53,1% số xã có cán bộ thú y thôn và đã phủ được 31,3% số thôn (25,2 nghìn thôn). Bên cạnh mạng lưới thú y của xã và thôn, còn có 57,1% số xã, với gần 18 nghìn người hành nghề thú y tư nhân, bình quân 1 xã có gần 2 người hành nghề thú y tư nhân.

Thực hiện chính sách xã hội ở khu vực nông thôn, nhất là vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Đó là các chủ trương, chính sách cho hộ vay vốn ưu đãi để phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề như vốn vay xoá đói giảm nghèo, vốn vay theo chương trình 135, vốn trồng 5 triệu ha rừng, dự án nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn,… chủ trương xây nhà tình nghĩa cho các đối tượng chính sách và hỗ trợ giúp đỡ người nghèo xoá nhà tạm, nhà dột nát; chương trình dạy nghề miễn phí cho các đối tượng như con em đồng bào dân tộc, lao động thuộc diện thu hồi đất, cho lao động thuộc diện hộ nghèo, đào tạo khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; chủ trương cấp miễn phí bảo hiểm y tế;…

Trong năm 2007, khu vực nông thôn có 180,4 nghìn hộ, chiếm tỷ lệ 1,31% được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở, trong đó vùng có tỷ lệ hộ được hỗ trợ cao là Tây Nguyên là 3,36%, Tây Bắc 3,24%; đào tạo nghề miễn phí cho 221,8 nghìn lượt người. Để tạo điều kiện cho những đối tượng khó khăn ở khu vực nông thôn được khám chữa bệnh, Nhà nước có chủ trương cấp miễn phí bảo hiểm y tế cho các đối tượng chính sách, hộ nghèo, người dân ở các xã thuộc diện đặc biệt khó khăn, người dân các dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên, dân tộc thiểu số ở sáu tỉnh đặc biệt khó khăn của miền núi phía Bắc. Đến năm 2007, khu vực nông thôn đã có 12,17 triệu người (chiếm tỷ lệ 20,8%) và 1294,3 nghìn hộ (chiếm tỷ lệ 9,4%) được cấp miễn phí bảo hiểm y tế

Năm 2007, cán bộ chủ chốt của xã có trình độ giáo dục trung học phổ thông chiếm tỷ lệ 78,7% (năm 2001 là 58,6%); về chuyên môn kỹ thuật 30,7% có trình độ trung cấp và cao đẳng, 10,7% có trình độ đại học trở lên (năm 2001 con số tương ứng là 71,8% và 8%); về lý luận chính trị có 86,4% có trình độ sơ, trung cấp, 6,2% cao cấp và cử nhân; 72,9% đã qua bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước.

Kinh tế nông thôn phát triển theo hướng đa dạng hoá ngành nghề và đang dần phá thế thuần nông nhưng không đồng đều giữa các vùng. Cơ cấu ngành nghề của lao động chuyển dịch nhanh hơn so với cơ cấu ngành nghề của hộ và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông thôn được nâng lên.

Sự chuyển dịch về cơ cấu ngành nghề của lao động ở khu vực nông thôn nhanh hơn so với cơ cấu ngành nghề của hộ. Tỷ lệ số người trong tuổi lao động có khả năng lao động phân theo hoạt động chính trong năm 2007 là: lao động nông nghiệp chiếm 65,5%, giảm 10,4% so với năm 2001, lao động công nghiệp - xây dựng chiếm 12,5% tăng 5,4%, lao động dịch vụ chiếm 16% tăng 4,5%. Tỷ lệ số người trong tuổi lao động có khả năng lao động phân theo độ tuổi: từ 15 - 29 tuổi chiếm 37,6%, từ 30 - 39 tuổi chiếm 28,1%, từ 40 tuổi trở lên chiếm 34,3%, qua cơ cấu trên cho thấy lao động ở khu vực nông thôn nước ta thuộc loại lao động trẻ. Xu hướng hoạt động đa dạng ngành nghề của lao động ở khu vực nông thôn ngày càng tăng. Số người trong độ tuổi lao động có tham gia hoạt động nông nghiệp trong 12 tháng qua: lao động chuyên nông nghiệp chiếm 56,3%, lao động nông nghiệp kiêm ngành nghề khác chiếm 29,4% và lao động phi nông nghiệp có hoạt động phụ nông nghiệp chiếm 14,3%. Cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc đào tạo nghề miễn phí, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông thôn đã nâng lên. Số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp trở lên chiếm tỷ lệ 8,2%, tăng 2,7% so với năm 2001, bình quân 1 năm tăng 0,51%.

Hộ nông dân tích cực đầu tư phát triển sản xuất để tăng thu nhập, tăng tích luỹ góp phần xoá đói, giảm nghèo ở khu vực nông thôn.

Năm 2007, thu nhập bình quân 1 hộ nông thôn đạt 2175,8 nghìn đồng, tăng 938,3 nghìn đồng (+43,1%) so với năm 2002. Nhưng mức chênh lệch thu nhập giữa nhóm thu nhập cao nhất và thấp nhất ngày càng tăng; nếu như mức chênh lệch của năm 2002 là 6 lần, thì năm 2004 là 6,4 lần và năm 2007 đó là 6,5 lần (Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình). Tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn là 18% giảm 3,2% so năm 2004. Đời sống khu vực nông thôn được cải thiện còn thể hiện ở mức nâng cao điều kiện nhà ở, đồ dùng sinh hoạt và công trình vệ sinh.

Thu nhập của hộ nông thôn tăng, nên vốn tích luỹ trong dân tăng khá. Tại thời điểm 1/7/2006, vốn tích luỹ bình quân 1 hộ nông thôn là 6,7 triệu đồng, tăng 3,5 triệu đồng, gấp 2,1 lần so với thời điểm 1/10/2001.

Điều kiện sinh hoạt của hộ nông thôn ngày càng được cải thiện.

Nhà ở khu vực nông thôn được cải thiện cả về loại nhà và diện tích để ở. Đến năm 2007, khu vực nông thôn có 2,21 triệu hộ chiếm 16% hiện đang ở nhà kiên cố, có 7,93 triệu hộ chiếm 57,6% đang ở nhà bán kiên cố và 26,4% đang ở các loại nhà khác. Diện tích nhà ở bình quân 1 hộ đạt 56m2; trong đó hộ ở nhà kiên cố là 68,3m2, hộ ở nhà đơn sơ là 40,3m2. Mức trang bị đồ dùng lâu bền của hộ nông thôn tăng nhiều so năm 2001. Xu hướng chung là hộ nông thôn ngày càng mua sắm đồ dùng đắt tiền dùng cho sinh hoạt. Năm 2005, bình quân 1 hộ đầu tư 1,02 triệu đồng mua sắm đồ dùng lâu bền dùng cho sinh hoạt, chiếm 10,7% tổng vốn đầu tư của hộ (chỉ tính đồ dùng từ 500 nghìn đồng trở lên).

Tỷ lệ hộ có xe máy là 52,6% tăng 26,7% so với năm 2001, có ti vi màu là 71% tăng 32,6%, có đầu video/VCD là 46,6% tăng 43,9%, có tủ lạnh/tủ đồ là 9,3% tăng 6,1%, có điện thoại cố định là 17,7%, có điện thoại di động là 8,6%, có quạt điện các loại là 83,5%. Những vùng tỷ lệ hộ có xe máy, ti vi màu, điện thoại cố định, quạt điện các loại cao là Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng.

Sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh cho ăn uống và các công trình vệ sinh đảm bảo môi trường có nhiều tiến bộ.

Chương trình cung cấp nước sạch nông thôn đạt được những kết quả khả quan với 36,5% số xã có công trình cấp nước sinh hoạt tập trung, cộng với những nỗ lực của hộ nông thôn, các nguồn cung cấp nước cho ăn uống ngày càng đảm bảo vệ sinh. Tỷ lệ hộ dùng nguồn nước chính cho ăn uống là: nước máy 8,3% tăng 4,1% so với năm 2001, nước mưa là 15,1%, nước giếng khoan 27,9%, nước giếng xây 26,8%, nước giếng đất là 6,8%, nước sông, ao, hồ là 8,3%, nước suối là 5%.

Tỷ lệ hộ sử dụng nhà tắm là 74,7%, tăng 32,8% so với năm 2001; trong đó tỷ lệ hộ sử dụng nhà tắm xây là 44,4%. Tỷ lệ hộ sử dụng nhà tắm cao nhất là vùng Đồng bằng sông Hồng (91%), tiếp đến là vùng Đông Nam Bộ (86,7%) và thấp nhất là vùng Tây Bắc (16,6%).

Tóm lại: Trong những năm qua nông thôn Việt Nam thực sự có những đổi mới mang tính toàn diện. Kết cấu hạ tầng nông thôn đã được đầu tư xây dựng mới và nâng cấp cả về chiều rộng và chiều sâu. Các điều kiện hỗ trợ, bảo đảm cho sản xuất kinh doanh của hộ được tăng cường. Chính quyền xã từng bước được xây dựng hiện đại, chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tiến triển nhanh theo hướng tích cực. Nhiều chính sách xã hội được Nhà nước quan tâm thực hiện và đạt được những kết quả khả quan. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Đó là kết quả đáng khích lệ trong việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010, nhất là các chương trình hỗ trợ đối với những xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa.



2.2 Nhược điểm, hạn chế và thách thức còn nhiều

Thứ nhất: Đầu tư cho nông nghiệp nông thôn còn thấp so với quy định của WTO (10% giá trị nông nghiêp). Năm 2007, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn mới chiếm 14% tổng vốn đầu tư, trong đó vốn đầu tư trực tiếp cho nông lâm thuỷ sản chiếm khoảng 8%, thấp hơn 10% giá trị nông nghiệp. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không đáng kể, chỉ chiếm khoảng 3% vốn FDI của cả nước, trong đó năm 2007 mới đạt 1,8%. 8 tháng đầu năm 2008 chỉ có 200 triệu USD, chiếm 0,43% trong tổng số 46,3 tỷ USD vốn FDI đăng ký. Vốn ODA dành cho nông nghiệp lại càng thấp. Do đó, hậu quả là kết cấu hạ tầng nông thôn và cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp còn rất hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu phát triển nông nghiệp hàng hoá chất lượng cao, giá thành hạ. Cơ cấu đầu tư không hợp lý, tỷ trọng đầu tư cho khoa học công nghệ trong nông nghiệp mới đạt 0,13% GDP khu vực này, trong khi các nước khác là 4%. Trong khi đó chính sách của Nhà nước về đầu tư nói chung, thu hút đầu tư nước ngoài nói riêng vẫn chưa phù hợp nhưng lại chậm đổi mới, kể cả khi Việt Nam vào WTO.

Thứ hai: Cơ sở hạ tầng nông thôn các vùng sâu, vùng xa, miền núi, trình độ cán bộ xã, thôn chưa theo kịp yêu cầu sản xuất hàng hoá trong thời kỳ hội nhập.

Tỷ lệ xã chưa có đường ô tô đến được trụ sở UBND xã ở một số tỉnh vẫn còn cao, như Cà Mau còn 74,1%, Sóc Trăng 26,4%, Bạc Liêu 29,2%, Kiên Giang 25%, thành phố Cần Thơ 30,3%,... Tỷ lệ xã có đường liên thôn được nhựa, bê tông hoá nhìn chung còn thấp, một số địa phương còn quá thấp (dưới 20%) như Cao Bằng, Lai Châu, Điện Biên, Yên Bái, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Lào Cai, Sơn La (2007).

Cấp học mầm non còn ít về số trường, lớp, nhất là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, một số tỉnh tỷ lệ xã có trường mẫu giáo/ mầm non đạt thấp như Cao Bằng, Điện Biên, Đắc Nông, Tiền Giang, Kiên Giang, Cà Mau. Khu vực nông thôn cả
4 cấp học còn 1004 trường học, chiếm 3,1% (trong đó cấp mầm non còn 635 trường, chiếm 6,9%), chưa được xây dựng kiên cố và bán kiên cố.

Y tế, vẫn còn 60 xã thuộc 17 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa có trạm y tế. Cơ sở vật chất, trang thiết bị ở trạm y tế còn nghèo, còn 157 xã, chiếm 1,7%, trạm y tế xã chưa được xây dựng kiên cố và bán kiên cố. Số bác sỹ của trạm y tế xã bình quân 1 vạn dân của một số tỉnh còn thấp (Điện Biên có 0,05 bác sỹ, Lai Châu 0,07) và còn 3851 xã (chiếm 42,4%) chưa có bác sỹ. Việc phát triển nhanh các làng nghề, cơ sở chế biến nông, lâm, thuỷ sản và các cụm/khu công nghiệp ở khu vực nông thôn, nhưng chưa chú trọng đến công tác đảm bảo vệ sinh môi trường, xử lý nước thải, chất thải đang là nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường.



Một số địa phương hệ thống khuyến nông, lâm, ngư của xã và thôn chưa hình thành hoặc có nhưng tỷ lệ còn thấp. Mạng lưới thú y xã, thôn và thú y tư nhân ở một số địa phương còn mỏng chưa đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch bệnh gia súc, gia cầm, đặc biệt là vào những thời điểm xảy ra dịch bệnh.

Thứ ba: Mặt bằng về trình độ cán bộ chủ chốt của xã, thôn cũng như điều kiện làm việc của xã ở các vùng, tỉnh có sự chênh lệch nhau lớn. Các xã thuộc chương trình 135, một số điều kiện làm việc của cán bộ xã thấp hơn nhiều so với các xã ở vùng khác như tỷ lệ trụ sở làm việc có máy điện thoại (76,5%), có máy vi tính (76,6%), có kết nối mạng internet (1,3%). Nhiều tỉnh trình độ chuyên môn hoặc quản lý nhà nước của cán bộ chủ chốt của xã còn hạn chế. Đặc biệt, một số tỉnh có trên 70% số cán bộ chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật như các tỉnh vùng Tây Bắc. Về kiến thức quản lý nhà nước trên 50% số cán bộ chưa qua bồi dưỡng. Số cán bộ xã có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ đại học trở lên còn rất thấp, mới chiếm 10,7%. Đây là trở ngại không nhỏ trong việc đưa nông nghiệp, nông thôn lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.

Thứ tư: Chính sách của nhà nước về đất đai, đầu tư, khoa học công nghệ, lao động, việc làm, tiêu thụ nông sản hàng hoá còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ. Công nghiệp hoá và hội nhập kinh tế thế giới không chỉ tác động đến các yếu tố đầu vào của quá trình và kết quả sản xuất nông nghiệp mà còn là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá của nông dân trên cả 2 mặt tích cực và tiêu cực, những chính sách của Nhà nước lại chưa đồng bộ, thiếu tính khả thi nên tác dụng không nhiều.

Thứ năm: Nhiều lợi thế chưa được khai thác hợp lý. Lợi thế của nông nghiệp Viêt Nam là chi phí lao động thấp so với các nước khác trong khu vực. Bên cạnh chi phí vật chất, chi phí lao động sống lại rất thấp do giá trị ngày công trong nông thôn không cao, thu nhập của lao động nông nghiệp nói chung thấp. Trình độ văn hoá, kiến thức khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị trường của nông dân, nhất là các tỉnh phía Bắc còn nhiều hạn chế. Về mặt này, trình độ sản xuất, kinh doanh nông sản của các chủ trang trại và các chủ doanh nghiệp nông nghiệp, thuỷ sản chung cả nước còn thua kém các nước trong khu vực. Đa số hộ nông dân miền Trung và miền Bắc chưa hiểu biết về WTO, về cạnh tranh trên thị trường nông sản nên vẫn làm ăn theo phương thức cũ, lấy năng suất sản lượng cao làm mục tiêu, chưa quan tâm đến chất lượng, độ sạch, chi phí sản xuất. Chăn nuôi trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản phổ biến vẫn theo phương thức lấy công làm lãi, ít vận dụng kiến thức KHKT vào sản xuất. Kiến thức kinh tế thị trường của người sản xuất nông nghiệp nói chung còn hạn chế. Tiềm năng đất đai cũng là thế mạnh của nông nghiệp Việt Nam nhưng chưa được khai thác hợp lý. Tâm lý “người cày có ruộng”, sự tích tụ ruộng đất trong nông nghiệp vẫn còn chi phối nhiều cấp, nhiều ngành và bà con nông dân, nhưng chưa có giải pháp hợp lý. Sản xuất nhỏ lẻ theo quy mô hộ gia đình nông dân cá thể, phổ biến là tự cung tự cấp, rất khó khăn cho cơ giới hoá và thuỷ lợi hoá nên tỷ suất hàng hoá còn thấp. Hoạt động thu gom, lưu thông, sơ chế và chế biến nông sản không thuận lợi, chi phí cao, không thích hợp với yêu cầu sản xuất hàng hoá tập trung, quy mô lớn gắn với chế biến và tiêu thụ. Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp, lại giảm dần do đô thị hoá và công nghiệp hoá. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong 7 năm từ 2001 đến năm 2007, diện tích đất nông nghiệp cả nước giảm 500 nghìn ha, riêng năm 2007 mất 120 nghìn ha trong đó chủ yếu là đất trồng cây hàng năm tại các vùng đồng bằng, ven các thành phố, thị xã do xây dựng khu công nghiệp, cụm công nghiệp và đô thị hoá.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Văn kiện Đại hội IX và X của Đảng CSVN và Hội nghị BCHTW Đảng các khoá.

  2. Các văn kiện cam kết về Việt Nam vào WTO.

  3. QĐ09/TTg của Thủ tướng Chính phủ năm 2000.

  4. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2007 và 8 tháng đầu năm 2008.

  5. Các văn bản hướng dẫn thực hiện cam kết WTO của các Bộ: Thương mại, Tài chính, Tổng cục Hải quan, Tổng cục thuế, Bộ NN&PTNT, BộKH&ĐT.

  6. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010, Bộ KH&ĐT, 2006.

  7. Kế hoạch phát triển ngành nông nghiệp và nông thôn năm 2008, Hà Nội, 2007.





C¤NG NGHIÖP HãA N¤NG TH¤N TH¤NG QUA
PH¸T TRIÓN C¸C CôM C¤NG NGHIÖP LµNG NGHÒ:
NGHI£N CøU TR¦êNG HîP T¹I C¸C CôM C¤NG NGHIÖP LµNG NGHÒ ë B¾C NINH Vµ Hµ T¢Y

N



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIEÅU BAN NOÂNG THOÂN, NOÂNG NGHIEÄP VIEÄT NAM HIEÄN ÑAÏI





CS Nguyễn Xuân Hoản*


1. Đặt vấn đề

Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của kết cấu ngành công nghiệp, bao gồm các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tồn tại ở nông thôn, gắn bó mật thiết với sản xuất nông nghiệp và kinh tế - xã hội ở nông thôn. Công nghiệp hoá (CNH) là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế, đồng thời tăng cường sử dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và trang thiết bị cơ khí trong các ngành sản xuất và kinh doanh. Như vậy, CNH nông thôn là quá trình nâng cao tỷ trọng về giá trị của các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, đồng thời nâng cao việc sử dụng thiết bị cơ giới trong các ngành nghề sản xuất, kinh doanh ở nông thôn.

Gần 4 thập kỷ qua, kể từ 1960, thế giới đã chứng kiến sự trỗi dậy của xu hướng CNH nông thôn ở các nước châu Á như Đài Loan, Thái Lan, Ấn Độ và gần đây là Trung Quốc. Sự xuất hiện và phát triển nhanh của xu hướng này trước hết bắt nguồn từ sự thất vọng về nền đại công nghiệp quy mô lớn hiện đại ở thành phố trong việc tạo việc làm, tăng thu nhập và xoá đói giảm nghèo282. Kinh nghiệm cho thấy ở một số nước châu Á việc phát triển công nghiệp nông thôn đã được tiến hành theo nhiều cách khác nhau như ở Đài Loan, Nhà nước khuyến khích lập các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp nhẹ như ngành sợi, dệt, đồ chơi trẻ em, chế biến nông sản thực phẩm nằm phân tán ở các huyện lỵ, thị trấn ở các vùng nông thôn, gần nơi có nguồn nguyên liệu,... Ở Ấn Độ, phát triển các xí nghiệp nhỏ với các ngành thủ công nghiệp ở nông thôn, đó là các ngành cần ít vốn nhưng lại có sẵn nguyên liệu, lao động và không đòi hỏi kỹ thuật phức tạp. Ở Trung Quốc, sự CNH nông thôn đã phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn do nông dân thực hiện như xí nghiệp Hương Trấn283 từ những năm 1980284. Ở Thái Lan, CNH nông thôn chỉ phát triển ở những vùng thuận lợi, ven các đô thị lớn. Ở nông thôn, phần lớn các xí nghiệp công nghiệp làm chế biến nông, lâm sản và bán tại chỗ. Trong việc CNH nông thôn của Thái Lan có phong trào với tên gọi “One tambon, one product” (mỗi làng, một sản phẩm) được phát động từ năm 1999 sau khi Thủ tướng Thái Lan đi thăm cửa hàng “one village, one product” tại Nhật Bản285.

Như vậy, trong quá trình CNH nông thôn, một số nước đã thành công trong việc phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Còn ở Việt Nam, chiến lược CNH nông thôn đã được đưa ra từ Nghị quyết Trung ương V, khoá VII, ngày 10/06/1993 và đến nay vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh. Câu hỏi đặt ra là trong thời gian qua Việt Nam đã tiến hành sự nghiệp CNH nông thôn theo mô hình nào? Có điều gì mới trong quá trình CNH trong các làng nghề ở nông thôn? Điều gì rút ra được từ sự phát triển của các làng nghề trong quá trình CNH nông thôn ?



2. Kết quả nghiên cứu

2.1. Công nghiệp hoá nông thôn ở Việt Nam

Đến nay, dân số Việt Nam có trên 84 triệu người, trong đó có 75% dân số sống ở nông thôn. Trong những năm qua, công nghiệp ở thành thị có sự phát triển nhưng không đủ sức thu hút hết lao động tăng thêm đến từ nông nghiệp và các vùng nông thôn. Sự dư thừa lao động và sự di dân từ các vùng nông thôn về các thành phố kiếm việc làm ngày càng tăng nhanh. Hiện nay, tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 42,0% trong cơ cấu kinh tế và tỷ lệ lao động trong công nghiệp chỉ chiếm khoảng 18% trong tổng số lao động của nền kinh tế.

Vì vậy, mục tiêu của chiến lược CNH nông thôn ở Việt Nam là tăng thu nhập của nông dân, mở rộng thị trường lao động và CNH, HĐH cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Để đạt được 3 mục tiêu quan trọng này, chiến lược CNH nông thôn được dựa trên cơ khí hoá sản xuất nông, công nghiệp và phát triển các ngành nghề chế biến theo hướng xuất khẩu hoặc thay thế nhập khẩu và các ngành nghề thủ công nghiệp ở nông thôn286. Thực tế ở Việt Nam, trong thời gian qua đã có 2 hình thức CNH nông thôn chủ yếu.

Thứ nhất là loại hình CNH nông thôn dựa vào việc phát triển các khu công nghiệp đa ngành ở các vùng nông thôn ven đô và dọc các trục đường quốc lộ chính để thu hút các doanh nghiệp từ thành phố và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát triển sản xuất công nghiệp, dịch vụ và giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn. Loại hình công nghiệp này bắt đầu phát triển từ đầu những năm 1990, đến nay nó vẫn tiếp tục phát triển mạnh và đã hình thành hệ thống sản xuất có công nghệ và trang thiết bị hiện đại, chuyên làm gia công cho các doanh nghiệp của đô thị và nước ngoài.

Đối với loại hình CNH nông thôn này, Nhà nước đã ban hành các chính sách rất thông thoáng và thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư và xây dựng nhiều khu công nghiệp ở các vùng ven đô và các vùng nông thôn. Ban đầu, các thành phố lớn được coi như là một động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH và HĐH của cả nước nên sự ưu tiên được dành cho các tam giác tăng trưởng kinh tế như: Tam giác tăng trưởng phía Bắc là Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, ở miền Trung là Huế - Đà Nẵng – Quảng Ngãi và miền Nam là Thành phố Hồ Chí Minh – Biên Hoà – Vũng Tàu287. Nhưng hiện nay, mọi chính sách và sự ưu đãi đều được thực hiện ở tất cả các tỉnh thành trong toàn quốc. Đặc biệt, Nhà nước đã thực hiện việc phân cấp, phân quyền cho các địa phương tổ chức lập dự án, thẩm định dự án trình Chính phủ phê duyệt, rồi xây dựng và quản lý các khu công nghiệp tại địa phương.

Đến nay cả nước có trên 150 khu công nghiệp - khu chế xuất với diện tích trên 25.000ha, dự kiến đến năm 2015 sẽ thành lập mới thêm 115 khu công nghiệp và mở rộng 27 khu công nghiệp. Tính từ năm 1988 đến năm 2007, Việt Nam đã thu hút 9.500 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD. Riêng khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 16% GDP, đóng góp vào ngân sách Nhà nước vượt 1,5 tỷ USD trong năm 2007; đồng thời giải quyết việc làm cho hơn 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp288.

Thứ hai là loại hình CNH nông thôn thông qua phát triển các làng nghề289 ở nông thôn dựa trên sự năng động của nhân dân và chính quyền địa phương. Các làng nghề thường sản xuất hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, các sản phẩm nghệ thuật phục vụ cho thị trường nội địa và xuất khẩu hoặc là các làng nghề chuyên chế biến lương thực, thực phẩm và nguyên vật liệu phục vụ cho tiêu dùng và công nghiệp chế biến khác. Trong các làng nghề năng động cũng đã và đang có nhiều hộ gia đình chuyển thành các doanh nghiệp nhỏ và vừa để phát triển sản xuất kinh doanh ở quy mô lớn hơn và tham gia vào thị trường trong nước và quốc tế.

Theo thống kê của Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản JICA, đến năm 2003 toàn quốc có 2017 làng nghề290. Các làng nghề ở Việt Nam đã giải quyết được việc làm cho hơn 1,3 triệu lao động thường xuyên và đang đóng góp tích cực vào việc CNH nông thôn và xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề đã được tiêu thụ trên 100 nước trên thế giới, giá trị xuất khẩu các hàng thủ công mỹ nghệ đã đạt 565 triệu USD/năm. Trong những năm vừa qua, mặc dù Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách nhằm khôi phục và phát triển các làng nghề. Nhưng gần như các làng nghề còn phát triển tự phát, chưa có sự hỗ trợ hiệu quả và kiểm soát chặt chẽ của nhà nước. Hiện nay có nhiều làng nghề không phát triển được và có nguy cơ mất nghề. Nhưng cũng có một số làng nghề năng động đã đổi mới, hiện đại hoá sản xuất và đã trở thành các cụm công nghiệp làng nghề (CCNLN), đó thường là những khu vực tập trung nhiều doanh nghiệp, nhiều tiềm năng sáng tạo, đổi mới và là nơi để nuôi dưỡng và phát triển các doanh nghiệp chính thức (formel) vì thế các CCNLN này cần phải được quy hoạch và phát triển như một hệ thống sáng tạo và sự đổi mới ở nông thôn.



2.2. Cụm công nghiệp làng nghề ở vùng Đồng bằng sông Hồng

Khái niệm về cụm công nghiệp và cụm công nghiệp làng nghề

Khái niệm cụm công nghiệp “district industriel” xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX bởi Marshall291 xuất phát từ việc nghiên cứu của ông về sự tập trung sản xuất công nghiệp ở miền bắc nước Anh. Sau đó, khái niệm này được phát triển theo 2 trường phái tiếp cận công nghiệp khác nhau. Các nhà nghiên cứu theo trường phái Pháp như Courlet et Pecqueur, Colletis,… gọi là các hệ thống sản xuất địa phương SPL “Systèmes productifs localisés”, đó là hệ thống sản xuất đề cập nhiều đến khía cạnh lãnh thổ. Các nhà nghiên cứu theo trường phái Anh - Mỹ gọi là cụm công nghiệp “cluster” hay “district industriel” với các tiếp cận của G. Becattini;


M. Porter; Nadvi et Schmitz,… Qua việc nghiên cứu về chuyển đổi cơ cấu kinh tế và công nghiệp hoá nông thôn ở vùng ĐBSH, chúng tôi thấy có sự xuất hiện các CCNLN giống như các cụm công nghiệp ở Italia từ những năm 1970292. Vì vậy, trong nghiên cứu này chúng tôi sẽ vận dụng khái niệm cụm công nghiệp (cluster) và phương pháp tiếp cận của G. Becattini; M. Porter; Nadvi et Schmitz và tham khảo các công trình nghiên cứu của họ đã thực hiện tại Italia, Mỹ và các nước đang phát triển như Brasil và Inđônêxia. Vậy cụm công nghiệp là gì?

Cụm công nghiệp theo G. Becattini, là một thực thể xã hội – lãnh thổ đặc trưng bởi sự có mặt hoạt động của một cộng đồng người và quần thể doanh nghiệp trong một không gian địa lý và lịch sử nhất định293.

Cụm công nghiệp theo M. Porter, là sự tập trung về địa lý của các doanh nghiệp, của các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp hoá, của những người được hưởng dịch vụ, của các ngành công nghiệp và các tổ chức có liên quan294.

Thực tế, có nhiều định nghĩa khác nhau về cụm công nghiệp. Nhưng trong các định nghĩa đều chưa đề cập đến sự tập trung theo địa lý của các doanh nghiệp gắn kết với sự đổi mới và có sự phát triển năng động do tính hiệp đồng thừa hưởng từ “Tính hiệu quả tập thể’’ thông qua các tác động kinh tế từ bên ngoài, từ mạng lưới các nhà cung cấp, mạng lưới khách hàng và các lợi ích của các hoạt động tập thể295. Trong cụm công nghiệp, vấn đề mấu chốt là có sự hiệp đồng, sản xuất với quy mô lớn, có sự tác động qua lại, có sự tương trợ, có sự ganh đua và có khả năng phản ứng nhanh với những thay đổi của thị trường để mang lại hiệu quả trong sản xuất và kinh doanh.

Ở Việt Nam, cụm công nghiệp làng nghề là một hệ thống sản xuất địa phương, được đặc trưng bởi sự tập trung theo địa lý các doanh nghiệp296sản xuất, kinh doanh và dịch vụ có sự chuyên môn hoá trong cùng một hoạt động hoặc một nhóm các hoạt động bổ trợ cho nhau. Sự tập trung theo địa lý của các doanh nghiệp đã tạo ra các thể chế thúc đẩy sự hình thành và phát triển các mối quan hệ, sự hợp tác và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng lãnh thổ, đồng thời tạo ra mạng lưới các nhà cung cấp, mạng lưới khách hàng và tạo ra sự đổi mới, các lợi ích chung cho các thành viên trong cùng lãnh thổ.

Các kiểu cụm công nghiệp làng nghề ở vùng ĐBSH

Trên cơ sở số liệu điều tra và thông tin thu thập được trong 90 CCNLN ở Hà Tây và Bắc Ninh, chúng tôi đã phân loại được 3 loại CCNLN, cụ thể như sau:

A) Cụm công nghiệp làng nghề đã công nghiệp hoá và chuyên môn hoá cao (chiếm 30% trong tổng số CCNLN được điều tra), đây là CCNLN năng động với các đặc trưng của loại cụm này như sau:

- Mật độ dân số cao (2.500 người/km2), đất nông nghiệp/người rất ít (260m2/người).

- Tỷ lệ hộ làm nghề cao (có 53% số hộ ở địa phương làm ngành nghề và số lượng doanh nghiệp chính thức trong cụm nhiều (30 doanh nghiệp/cụm).

- Thu nhập từ ngành nghề cao (bình quân 1 triệu đồng/người/tháng). Tổng thu nhập từ ngành nghề chiếm 75% tổng thu nhập của cụm.

- Vốn đầu tư cho sản xuất rất cao (trung bình mỗi hộ sản xuất đầu tư trên


100 triệu đồng, mỗi doanh nghiệp đầu tư vốn trên 1 tỷ đồng).

- Có khả năng HĐH cao, đã đầu tư công nghệ và máy móc hiện đại (nhiều cụm có dây truyền sản xuất tự động). Có nhiều sự đổi mới về trang thiết bị và cơ khí hoá trong sản xuất.

- Quy mô của cụm lớn và sử dụng nhiều lao động (bình quân là 4.500 lao động/cụm) và đòi hỏi nhiều lao động có chuyên môn, đã được đào tạo nghề (lao động có trình độ chiếm trên 60%).

- Thiếu lao động và phải thuê nhiều lao động đến từ nơi khác (lao động thuê từ địa phương khác đến là trên 1.000 lao động/cụm, chiếm 24% tổng số lao động trong toàn cụm).

- Có nhiều mối quan hệ, trao đổi giữa các làng nghề với nhau về lao động, vật tư và tiêu thụ sản phẩm. Thị trường phát triển mạnh ở cả trong nước và nước ngoài.

- Có sự cạnh tranh cao về mặt bằng sản xuất, lao động và nguyên liệu trong cụm.

- Các CCNLN loại này phần lớn tập trung các ngành hàng đồ gỗ, dệt vải, luyện kim và chế biến thực phẩm.

B) Cụm công nghiệp làng nghề đang công nghiệp hoá có sự kết hợp làm nông nghiệp và ngành nghề (chiếm 36% trong tổng số 90 cụm được điều tra), đây là loại cụm năng động vừa với các đặc trưng của loại là:

- Mật độ dân số tương đối cao (1.500 người/km2); đất nông nghiệp/người thấp (bình quân là 500m2/người).

- Tỷ lệ hộ làm nghề cao (chiếm 67% tổng số hộ trong CCNLN) và số doanh nghiệp chính thức trong cụm ít (bình quân 4 doanh nghiệp/1cụm)

- Thu nhập của người lao động làm ngành nghề không cao (bình quân
550 nghìn đồng/người/tháng). Tổng thu nhập từ ngành nghề bình quân chỉ chiếm 48% tổng thu nhập, tổng thu nhập từ nông nghiệp chiếm 31% tổng thu nhập của cụm.

- Vốn đầu tư cho sản xuất ở mức cao (trung bình mỗi hộ sản xuất đầu tư trên 50 triệu đồng, mỗi doanh nghiệp đầu tư vốn trên 500 triệu đồng).

- Có khả năng HĐH trang thiết bị sản xuất nhưng vẫn chủ yếu sử dụng công nghệ truyền thống có cải tiến, ít đầu tư công nghệ và máy móc hiện đại.

- Quy mô cụm trung bình và sử dụng nhiều lao động (lao động làm việc thường xuyên là 2.700 lao động/cụm) và ít đòi hỏi các lao động đã được đào tạo nghề (lao động có trình độ chiếm dưới 50%).

- Không thiếu lao động làm nghề, ít phải thuê lao động đến từ nơi khác (lao động thuê từ địa phương khác là 100 lao động/1 cụm, chiếm 5% tổng số lao động trong cụm).

- Có nhiều mối quan hệ giữa các làng nghề với nhau và với thị trường các tỉnh thành trong nước và có 1 số cụm có quan hệ với nước ngoài.

- Ít có sự cạnh tranh về mặt bằng sản xuất, lao động và nguyên liệu trong các CCNLN này.

- Các CCNLN loại này phần lớn tập trung các ngành hàng mây tre đan, dệt vải và chế biến thực phẩm và chủ yếu được phát triển lên từ các làng nghề mới, có khả năng tìm kiếm được thị trường và đa dạng hoá các loại sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường.

C) Cụm công nghiệp làng nghề bắt đầu công nghiệp hoá và làm nông nghiệp là chủ yếu kết hợp với ngành nghề (chiếm 34% tổng số cụm), đây là loại CCNLN có sự năng động thấp và có các đặc trưng sau:

- Mật độ dân số cao (bình quân 1.400 người/km2); đất nông nghiệp/người thấp (bình quân là 520m2/người) so với diện tích đất nông nghiệp bình quân trong vùng ĐBSH là 700m2/người.

- Tỷ lệ hộ làm nghề không cao (có 41% số hộ ở địa phương làm ngành nghề) và số doanh nghiệp chính thức trong cụm rất ít (bình quân 2 doanh nghiệp/1cụm).

- Thu nhập của người lao động làm ngành nghề không cao (bình quân 600 nghìn đồng/người/tháng). Tổng thu nhập từ ngành nghề của cụm chỉ chiếm 31% tổng thu nhập của cụm, thấp hơn tổng thu nhập từ nông nghiệp (36%). Việc tái đầu tư cho sản xuất thấp.

- Nhu cầu và thực vốn đầu tư cho ngành nghề thấp (trung bình mỗi hộ sản xuất đầu tư trên 10 triệu đồng, mỗi doanh nghiệp có vốn đầu tư trên 300 triệu đồng).

- Khả năng HĐH sản xuất thấp, trong cụm ít đầu tư công nghệ và máy móc hiện đại trong sản xuất, sử dụng công cụ truyền thống được cải tiến với lao động chân tay là chính (nhiều cụm có phương tiện sản xuất rất thô sơ như cụm CCNLN thêu ren, mây tre đan).

- Sử dụng nhiều lao động nhưng không đòi hỏi các lao động có chuyên môn cao (khoảng 1.700 lao động/1 cụm). Phần lớn các thợ thủ công trong các CCNLN này thường làm nông nghiệp kết hợp với làm nghề.

- Trong các CCNLN này không thiếu lao động làm nghề và rất ít phải thuê lao động làm nghề đến từ nơi khác (bình quân lao động làm thuê từ nơi khác đến là 50 lao động/1 cụm).

- Trong cụm thường có ít mối quan hệ giữa các làng nghề với nhau và ít có mạng lưới buôn bán và giao lưu trực tiếp với bên ngoài. Phần lớn việc mua vật tư và tiêu thụ trong các CCNLN này thường qua các tác nhân trung gian.

- Không có sự cạnh tranh về mặt bằng sản xuất, lao động và nguyên liệu trong cụm này.

- Các CCNLN loại này phần lớn tập trung các ngành hàng thêu ren, đan cói và nón lá, mây tre đan và chế biến thực phẩm.

Như vậy, trong vùng ĐBSH đang có nhiều loại CCNLN khác nhau. Nhưng mỗi CCNLN đã phát triển theo hướng khai thác thế mạnh của mỗi vùng và tuỳ theo các kênh (niche) hàng hoá và dịch vụ mà CCNLN đó có khả năng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Ở đây, chúng tôi xin trình bày một số CCNLN tiêu biểu trong vùng ĐBSH.

Thực trạng một số cụm công nghiệp làng nghề tiêu biểu

A) Cụm công nghiệp làng nghề giấy ở Phong Khê

CCNLN giấy Phong Khê có 4 làng (Dương Ổ, Đào Xá, Ngô Khê, Châm Khê) thuộc xã Phong Khê, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Mật độ dân số trong cụm này là 1.500 người/km2, đất nông nghiệp bình quân 370m2/người. Nghề làm giấy ở Phong Khê đã có từ thế kỷ XVI. Trải qua một thời gian dài phát triển sản xuất giấy thủ công, sau đó có sự đổi mới về công nghệ và trang thiết bị sản xuất, đến nay trong cụm CCNLN giấy Phong Khê đã có khả năng sản xuất được hầu hết các loại giấy cao cấp trên thị trường như giấy vệ sinh, giấy khăn ăn, giấy văn phòng, giấy vở học sinh, giấy in lịch, giấy bao gói, giấy kraf,… Hiện nay, nghề làm giấy ở CCNLN Phong Khê đã thu hút sự tham gia của 174 doanh nghiệp và khoảng 200 hộ trong xã sản xuất giấy thủ công. Hoạt động làm giấy trong cụm đã tạo việc làm cho 7.000 lao động, trong đó có khoảng 3.000 lao động ngoài địa phương. Tổng doanh thu từ nghề làm giấy trong cụm là 455 tỷ đồng/năm (chiếm 91% tổng doanh thu trong toàn cụm). Trong CCNLN này đã xây dựng khu tiểu thủ công nghiệp làng nghề trên diện tích 13ha để giải quyết vấn đề mặt bằng sản xuất cho các doanh nghiệp trong cụm. Các doanh nghiệp đã luôn luôn đổi mới công nghệ, thiết bị để tạo ra nhiều loại sản phẩm có chất lượng tốt hơn nhằm đáp nhu cầu tiêu dùng trong nước và cạnh tranh với hàng nhập ngoại.

B) Cụm công nghiệp làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Quang

CCNLN đồ gỗ Đồng Quang gồm 3 làng (Đồng Kỵ, Tráng Liệt và Bính Hạ) thuộc xã Đồng Quang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Mật độ dân số trong CCNLN này là 3.100 người/km2. Bình quân diện tích đất nông nghiệp là 190m2/người. Nghề làm đồ gỗ mỹ nghệ ở Đồng Quang bắt đầu từ những năm 1960 với các sản phẩm chủ yếu là sập gụ, tủ chè, giường nằm, bàn ghế kiểu cổ, hoành phi, câu đối, tam sơn, ngũ nhạc, ngai thờ, án thư, kiệu rước, tượng thờ, tượng mỹ nghệ,… Trải qua nhiều năm học nghề và phát triển nghề đồ gỗ mỹ nghệ, đến nay trong CCNLN này đã có 2.260 hộ (chiếm 65% tổng số hộ gia đình trong cụm) và 226 doanh nghiệp làm nghề đồ gỗ mỹ nghệ (trong đó 76 doanh nghiệp tư nhân, 91 công ty TNHH và 59 HTX). Ngoài ra, trong CCNLN này còn có trên 100 cửa hàng chuyên bán gỗ nguyên liệu và 170 hộ làm dịch vụ. Nghề làm đồ gỗ trong CCNLN này đã giải quyết việc làm cho hơn 12.000 lao động, trong đó có 49% là lao động nữ và có 42% số lao động từ các địa phương khác đến. Mức thu nhập bình quân của người lao động là 800 nghìn đồng đến 1,5 triệu đồng/người/tháng. Tổng thu trong CCNLN này khoảng 210 tỷ đồng/năm (chiếm khoảng 80% tổng thu nhập của cụm). Vốn đầu tư cho sản xuất thường biến động từ hàng trăm triệu đồng/1 hộ đến vài tỷ đồng/1 doanh nghiệp tuỳ theo quy mô doanh nghiệp và chủng loại sản phẩm. Đến nay, trên địa bàn CCNLN Đồng Quang đã quy hoạch chuyển đổi 53ha đất nông nghiệp sang đất công nghiệp để giải quyết nhu cầu về mặt bằng sản xuất và kinh doanh. Từ nhiều năm nay, CCNLN Đồng Quang đã trở thành một thị trường đồ gỗ lớn nhất ở Việt Nam và đã tạo ra uy tín, danh tiếng về chất lượng sản phẩm ở trong nước và quốc tế.

C) Cụm công nghiệp làng nghề dệt may La Phù

CCNLN La Phù gồm 16 xóm thuộc xã La Phù, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Mật độ dân số trong cụm khoảng 2.600 người/km2. Đất nông nghiệp bình quân là 230m2/người. Sản phẩm của CCNLN này chủ yếu là hàng dệt kim như áo len, áo sợi, bít tất, khăn len,... Nghề dệt kim được du nhập và phát triển ở La Phù từ trước năm 1945. Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch tập trung, nghề dệt bị quản lý bởi HTX thủ công của xã. Sau khi các HTX thủ công giải thể, nghề dệt may ở La Phù phát triển mạnh trong các hộ gia đình. Đến nay, nghề dệt kim trong cụm đã thu hút sự tham gia của 1.760 hộ gia đình làm nghề (chiếm 86% trong tổng số hộ của cụm),
30 công ty TNHH, 100 doanh nghiệp tư nhân, 20 hộ chuyên kinh doanh nguyên liệu, 10 hộ chuyên kinh doanh vận tải và có 100 hộ chuyên thu gom hàng dệt cho các công ty ở địa phương và các đại lý bán buôn ở các địa phương khác trong cả nước. Sản xuất và kim doanh hàng dệt kim tại La Phù đã thu hút khoảng 12.000 lao động, trong đó có khoảng 5.000 lao động là người địa phương (chiếm 63% trong tổng số lao động của xã) và 7.000 lao động đến từ các xã lân cận. Ngoài ra có khoảng 1.000 hộ nhận gia công sản phẩm cho các công ty, các hộ này ở các xã lân cận có bán kính khoảng 20 - 30km xung quanh CCNLN La Phù. Hiện nay, tổng thu nhập từ nghề dệt kim của La Phù khoảng 320 tỷ đồng/năm (chiếm 78% tổng thu nhập của cụm). Đến nay, trong CCNLN dệt kim La Phù cũng đã xây dựng 1 khu tiểu thủ công nghiệp làng nghề có diện tích 40ha để cho 300 doanh nghiệp thuê đất xây dựng nhà xưởng.

D) Cụm công nghiệp làng nghề mây tre đan Phú Nghĩa

CCNLN mây tre đan Phú Nghĩa gồm 7 làng nghề thuộc xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Mật độ dân số trong CCNLN này là 1.180 người/km2. Bình quân diện tích đất nông nghiệp là 470 m2/người. Nghề mây tre đan ở Phú Nghĩa có từ thế kỷ XVII và là nơi sinh ra nghề mây tre đan ở vùng ĐBSH. Sản phẩm của CCNLN này rất phong phú, đa dạng từ các vật dụng phục vụ cho sinh hoạt trong gia đình đến những đồ trang trí nội thất như bàn ghế, giường, tủ, salon, bàn trang điểm, túi sách, tranh, lồng đèn,… Đến năm 2007, trong CCNLN mây tre đan Phú Nghĩa có 1.780 hộ tham gia làm hàng mây tre đan (chiếm 87% tổng số hộ trong cụm) và 27 công ty và doanh nghiệp chuyên kinh doanh hàng thủ công mây tre đan. Hoạt động sản xuất và kinh doanh hàng mây tre đan đã giải quyết việc làm cho 5.700 lao động (chiếm 82% tổng số lao động trong toàn xã) với mức thu nhập từ 700 nghìn đến 1 triệu đồng/người/tháng. Tổng thu nhập từ nghề mây tre đan trong CCNLN Phú Nghĩa khoảng 38 tỷ đồng/năm (chiếm 53% tổng thu nhập của toàn cụm). Trong CCNLN Phú Nghĩa cũng đã quy hoạch và xây dựng khu công nghiệp trên diện tích 138ha.

Ngoài ra, ở các địa phương trong vùng ĐBSH đã có rất nhiều làng nghề HĐH sản xuất và đã hình thành lên các CCNLN. Vậy chúng ta rút ra được điều gì từ sự xuất hiện và sự thành công của các CCNLN này ?



2.3. Các yếu tố chính quyết định sự thành công của các CCNLN

Nghiên cứu và phát triển của thị trường

Ngày nay, thị trường là một yếu tố rất quan trọng, nó có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển đối với mỗi làng nghề, đặc biệt là thị trường tiêu thụ các sản phẩm297. Vậy việc nghiên cứu và phát triển thị trường của các CCNLN ở ĐBSH như thế nào ?

A) Thị trường cung ứng nguyên vật liệu

Đặc điểm của thị trường đầu vào của các CCNLN nói chung là không ổn định, giá nguyên vật liệu biến động thường xuyên. Trước đây, thị trường nguyên liệu chủ yếu mua bán tại chỗ, nhất là nguyên liệu cho nghề chế biến lương thực, thực phẩm và sản xuất đồ tiêu dùng như đan lát, dệt vải, gốm sứ,... Sau một thời gian nguồn nguyên liệu này đã cạn kiệt dần, do đó nó được bổ sung bằng các nguồn từ nơi khác, thậm chí nhập khẩu. Vì vậy, trong các CCNLN phát triển đã xuất hiện các tổ chức, cá nhân chuyên đi tìm kiếm, khai thác và cung cấp nguyên vật liệu cho các hộ và cơ sở làm nghề. Hiện nay, phần lớn các địa phương đã hình thành thị trường mua bán nguyên vật liệu ngay tại các CCNLN với nhiều cửa hàng buôn bán và bán lẻ nguyên vật liệu.

Trong cụm CCNLN làm giấy Phong Khê thị trường nguyên liệu đã luôn có sự thay đổi lớn. Lúc đầu người thợ dùng nguyên liêu là vỏ cây dó, sau đó tận dụng một số sách báo cũ đem ngâm và vò nát tạo lên một phần nguyên liệu. Tiếp đó người thợ làm giấy đã phát hiện loại giấy vỏ bao xi măng có thể thay thế nguyên liệu từ cây dó. Sau đó, người thợ làm giấy đã biết dùng cây nứa để làm nguyên liệu. Về sau thì nguyên liệu sử dụng chủ yếu là cây dướng, cây dậy và cây mận thay thế cho việc sử dụng vỏ cây dó ban đầu, rồi dùng giấy loại và cây nứa làm nguyên liệu. Lúc đầu, các thị trường cung cấp nguyên liệu cho CCNLN làm giấy là Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Thời gian sau này, thị trường nguyên liệu phát triển ra các địa phương khác như Hoà Bình, Quảng Ninh, Yên Bái,... Đồng thời một số doanh nghiệp đã nhập khẩu bột giấy từ Trung Quốc để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất các loại sản phẩm giấy cao cấp.

Còn ở CCNLN đồ gỗ Đồng Quang, các doanh nghiệp và hộ sản xuất luôn coi trọng việc nghiên cứu và phát triển thị trường nguyên liệu gỗ. Trước năm 1980, nguyên liệu gỗ thường được mua từ Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Trị, Thanh Hoá, Nghệ An,... Từ năm 1980, các doanh nghiệp đã mở rộng thị trường mua nguyên liệu ra các tỉnh phía Nam như Gia Lai, Đắc Lắc, Bình Thuận, Ninh Thuận,... đồng thời nhập khẩu một số loại gỗ quý hiếm (gỗ trắc, gỗ hương, sến,...) từ Campuchia để phục vụ sản xuất. Đến năm 1996, bắt đầu nhập gỗ từ Lào và tiếp đó là nhập gỗ từ Inđônêxia, Malayxia, châu Phi,... Đến nay, ở Đồng Quang có khoảng trên 100 cửa hàng buôn bán gỗ, trong đó có những chủ lớn thường nhập gỗ với số lượng lớn giá trị từ 3 đến 5 tỷ đồng/1 lần tương đương với 200 đến 250m3. Hiện nay Đồng Kỵ đã trở thành thị trường gỗ quý hiếm lớn nhất miền Bắc và cả nước.

Trong CCNLN mây tre đan Phú Nghĩa, các thị trường nguyên liệu luôn được khai thác và phát triển để đáp ứng nhu cầu cho sản xuất. Trước đây nguyên liệu của các làng nghề mây tre đan ở đây chủ yếu được cung cấp từ các tỉnh miền núi phía Bắc. Hiện nay, có hai nguồn cung cấp chủ yếu: Thứ nhất là nguồn cung cấp song, mây được khai thác từ các tỉnh miền Trung của Việt Nam (chiếm 80% lượng nguyên liệu của CCNLN) như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đắc Lắc và Bình Thuận. Hoặc nguyên liệu được nhập khẩu từ Lào và Campuchia, sau đó sơ chế tại các tỉnh miền Trung, rồi vận chuyển về các làng nghề có sử dụng mây tre đan ở Hà Tây và Phú Nghĩa. Thứ hai là nguồn nguyên liệu cung cấp khoảng gần 20% lượng nguyên liệu cung cấp cho CCNLN này. Vùng cung cấp mây, song chủ yếu từ các tỉnh miền núi phía Bắc như Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Bắc Kạn, Thái Nguyên, các tỉnh Tây Bắc và các vùng lân cận Phú Nghĩa như Sơn Tây, Hoà Bình,…

Đối với CCNLN dệt La Phù, trước đây nguồn nguyên liệu mua chủ yếu từ Hà Nội qua một số công ty hoặc tư thương. Đến nay, nguyên liệu của CCNLN nay đến từ hai nguồn chính là nguyên liệu trong nước chiếm 40%, chủ yếu được cung cấp bởi các công ty lớn như công ty Dệt 8-3, công ty sợi Nha Trang, công ty sợi Biên Hoà, Công ty dệt len Mùa Đông, Công ty len Hà Đông và công ty len Hải Phòng. Nguyên liệu nhập khẩu chiếm 60%, chủ yếu đến từ Trung Quốc. Việc mở rộng thị trường nguyên liệu được phát triển mạnh mẽ thông qua chính sách cởi mở của nhà nước và sự năng động của các doanh nghiệp dệt kim ở La Phù.

B) Thị trường tiêu thụ sản phẩm

Trong những năm vừa qua, các doanh nghiệp trong các CCNLN năng động đã thường xuyên nghiên cứu và mở rộng các thị trường tiêu thụ sản phẩm ở cả thị trường trong nước và quốc tế.

Cụ thể như sản phẩm giấy của CCNLN Phong Khê truớc đây chủ yếu bán cho làng nghề làm tranh dân gian Đông Hồ (Bắc Ninh), làng nghề pháo Bình Đà (Hà Tây) và làng nghề làm vàng mã ở làng Cót - Từ Liêm - Hà Nội. Sau đó các sản phẩm của làng nghề Phong Khê đã được đa dạng hoá nên sản phẩm đã mở rộng thị trường tiêu thụ ở các tỉnh thành phía Bắc với các sản phẩm chính như giấy vệ sinh, giấy làm bao bì, giấy viết,... Hiện nay, trong CCNLN đã sản xuất được hầu hết các loại giấy cao cấp trên thị trường nên thị trường tiêu thụ giấy của cụm đã mở rộng ra phạm vi toàn quốc và đã có các sản phẩm giấy thủ công xuất khẩu sang một số nước như Singapore, Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan, Lào, Campuchia,…

Còn ở CCNLN Đồng Quang, thời kỳ đầu chỉ có một số hộ làm đồ gỗ giả cổ nên chỉ tiêu thụ trong làng xã và địa phương lân cận với số lượng rất ít. Sau đó thị trường tiêu thụ được mở rộng ra các địa phương khác như Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh thành khác ở miền Bắc. Sau năm 1975, sản phẩm đồ gỗ của Đồng Kỵ đã được mang vào Thành phố Hồ Chí Minh tiêu thụ, sau đó thị trường mở rộng sang Campuchia vào năm 1980, vào thị trường Lào năm 1985 và bắt đầu thâm nhập vào thị trường Trung Quốc năm 1994. Hiện nay, khoảng 55% sản phẩm của Đồng Kỵ tiêu thụ tại thị trường Trung Quốc. Còn 40% sản phẩm của Đồng Kỵ tiêu thụ ở thị trường nội địa và khoảng 5% sản phẩm tiêu thụ ở các thị trường khác như Lào, châu Âu, Mỹ, Nga, Singapore, Malayxia,... Các cơ sở sản xuất kinh doanh ở trong cụm CCNLN đồ gỗ Đồng Kỵ đã chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ, quảng bá sản phẩm. Họ đi đến hầu hết mọi miền đất nước để tham gia hội chợ, đặt các đại lý, văn phòng, giao dịch. Không dừng lại ở đó, nhiều doanh nghiệp còn tổ chức nhiều chuyến đi tìm hiểu thị trường tại các nước Đông Nam Á, Trung Quốc, Mỹ, Liên bang Nga, châu Âu, châu Phi,...

Trong CCNLN dệt kim La Phù, thời kỳ sản phẩm dệt kim chủ yếu được bán ở thị trường thành thị ở khu vực phía Bắc. Từ năm 1993, chính sách cấm vận kinh tế của Mỹ đối với Việt Nam được dỡ bỏ nên thị trường hàng dệt may của La Phù đã được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới như Nga, Ucraina. Đến năm 1999, thị trường xuất khẩu được mở rộng sang các nước khác như Tiệp Khắc, Ba Lan, Pháp và các nước Đông Âu khác. Đặc biệt năm 2003 sau hiệp định không áp định hạn ngạch, hàng dệt may của La Phù đã bắt đầu xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Đến nay, sản phẩm của CCNLN La Phù có khoảng 60% số lượng hàng phục vụ cho xuất khẩu còn 40% được tiêu thụ ở khắp các tỉnh thành trong cả nước thông qua các đại lý bán buôn, bán lẻ ở các địa phương trong nước.

Trong CCNLN mây tre đan Phú Nghĩa, do sản phẩm đẹp, chất lượng tốt nên vào đầu thế kỷ XVIII sản phẩm của Phú Nghĩa đã được bán rộng rãi ở nhiều tỉnh thành thuộc miền Bắc của Việt Nam. Đến thời kỳ kinh tế kế hoạch tập trung, sản phẩm của các làng nghề ở Phú Nghĩa chủ yếu xuất khẩu cho Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Đến cuối năm 1990 do khủng hoảng chính trị nên khách hàng ở các nước Đông Âu không nhập hàng nữa. Năm 1991, một số cơ sở sản xuất trong làng nghề đã ký hợp đồng và làm hàng mây tre đan cho Đài Loan. Tiếp theo đó, đến năm 1993, các tổ hợp tác sản xuất ở Phú Nghĩa đã ký được hợp đồng sản xuất hàng mây tre đan cho Nhật Bản. Sau đó thị trường được mở rộng ra Pháp, Tây Ban Nha, Đức. Hiện nay, các sản phẩm của CCNLN mây tre đan này tiêu thụ khoảng 35% tổng số lượng sản phẩm ở thị trường địa phương và các tỉnh thành phố trong phạm vi toàn quốc. Còn 65% sản phẩm còn lại phục vụ cho việc xuất khẩu đến các thị trường truyền thống của làng nghề này như Nga, các nước Đông Âu và Đài Loan với yêu cầu về chất lượng không cao nhưng coi trọng mẫu mã, màu sắc của sản phẩm. Đồng thời xuất khẩu hàng đến các thị trường mới như thị trường Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Tây Ban Nha, Đức,…

Có thể nói rằng, hiện nay thị trường trong nước với hơn 80 triệu dân đang có mức thu nhập tăng dần. Đồng thời trong thời gian tới ở Việt Nam sẽ phát triển mạnh ngành du lịch. Do vậy, nếu biết khai thác thị trường hàng hoá phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của người dân và ngành du lịch thì nhóm các sản phẩm thủ công mỹ nghệ sẽ được ưa chuộng và phát triển mạnh. Mặt khác, hiện nay có một số lượng lớn người tiêu dùng ở các nước châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản và các nước châu Á đang hướng đến những sản phẩm mang tính dân tộc, tính truyền thống, tính chất dân gian và những sản phẩm thủ công, đó là các sản phẩm có thể sản xuất với số lượng lớn trong các CCNLN ở vùng ĐBSH.



Đổi mới công nghệ và cơ giới hoá các công đoạn sản xuất

Trong các CCNLN, những người thợ đã luôn tìm cách để đổi mới công nghệ và chuyên môn hoá, hiện đại hoá sản xuất. Họ đã phối hợp một cách linh hoạt trong việc sử dụng các công nghệ truyền thống, công nghệ cải tiến và công nghệ hiện đại. Trước những năm 1990, hầu hết các máy móc công cụ trong các làng nghề chủ yếu là các công cụ thủ công, hoặc bán cơ khí theo công nghệ cổ truyền, một số máy móc tự chế hoặc được thanh lý từ các doanh nghiệp nhà nước298. Ngày nay, dưới sự tác động mạnh của khoa học kỹ thuật và hội nhập quốc tế, các cơ sở sản xuất trong nhiều CCNLN đã HĐH các trang thiết bị và công nghệ thủ công truyền thống, thay thế công nghệ thủ công, lạc hậu bằng công nghệ cải tiến, hiện đại để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Cụ thể như ở CCNLN giấy Phong Khê, sau 1986, trong làng nghề đã có sự đổi mới quan trọng về công nghệ và trang thiết bị sản xuất. Đó là việc máy chạy bột giấy được đưa vào sử dụng với công suất chạy được 100kg giấy xi măng/1 giờ, trong khi đạp lề phải mất 3 ngày (năng suất sử dụng máy chạy bột lúc đầu gấp 72 lần so với việc sử dụng chân tay). Sau đó, năm 1989, chiếc máy seo đầu tiên được mua về làng nghề có công suất là 600kg/ngày trong khi seo tay được 10kg/ngày/người. Do thấy năng suất và hiệu quả của việc sử dụng máy móc nên nhiều cơ sở sản xuất đã bắt đầu “cơ khí hoá” nghề giấy với sự tăng thêm 5 máy seo. Tiếp đó, năm 1992, 1 dây chuyền sản xuất giấy công nghiệp đầu tiên được mua về làng nghề. Đến năm 2004, trong làng nghề đã có các dây chuyền sản xuất giấy tự động, trị giá hàng triệu USD. Hiện nay, trong CCNLN Phong Khê đã có trên 200 dây chuyền sản xuất giấy công nghiệp và có 4 dây chuyền hiện đại sản xuất được giấy viết (giấy học sinh, tương đương chất lượng giấy của công ty giấy Bãi Bằng). Phần lớn các doanh nghiệp trong CCNLN này đã sử dụng máy móc thay thế hoàn toàn lao động tay chân. Nhiều lao động thủ công trước đây làm việc cho gia đình đã phải tham gia các lớp đào tạo nghề để có kiến thức sử dụng các loại máy móc, thiết bị mới trong các doanh nghiệp của CCNLN này.

Trong CCNLN đồ gỗ Đồng Quang để nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, các cơ sở sản xuất trong CCNLN đã đi sâu vào khâu chuyên môn hoá sản xuất (chuyên pha gỗ, chuyên đục, chuyên chạm, khảm, đánh bóng, hoàn thiện sản phẩm,...). Sử dụng nhiều loại máy móc để cơ giới hoá trong sản xuất như cưa, dọc gỗ, tiện, bào, khoan, đánh bóng và dùng cưa tranh để cắt các hoạ tiết của loại mặt hàng sản xuất với số lượng lớn. Áp dụng công nghệ xử lý gỗ, chạm khắc bán tự động, dùng máy phun sơn để hoàn thiện sản phẩm nên đã tạo ra các sản phẩm đồ gỗ mỹ nghệ có độ đồng nhất cao, chất lượng tốt. Đến nay, trong cụm CCNLN đồ gỗ Đông Quang đã có khoảng 30 chiếc cưa CD, 3 máy sấy gỗ công nghiệp. Có 50% doanh nghiệp và 10% hộ làm nghề có máy lộng lỗ. Ngoài ra còn có máy lấy nền (trung bình 2 chiếc/1 doanh nghiệp, 1 chiếc/hộ); máy đánh bóng (trung bình 6 - 7 chiếc/1 doanh nghiệp và 2 chiếc/1 hộ sản xuất), máy bào, máy phun sơn,.... Việc đổi mới một số công nghệ và chuyên môn hoá sản xuất đã đem đến năng suất lao động cao hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn và có khả năng thực hiện được những hợp đồng lớn trong thời gian ngắn,... Đây chính là điều mà nhiều làng nghề khác nếu sản xuất theo phương pháp thủ công không làm được.



Trong CCNLN dệt kim La Phù, các doanh nghiệp dệt kim đã thay thế toàn bộ các máy móc cũ có từ thời kỳ kinh tế kế hoạch tập trung để đầu tư các trang thiết bị và công nghệ mới nhằm tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao và tiết kiệm nguyên liệu. Hiện nay, trong CCNLN này có khoảng 2.000 cái máy dệt, 4.000 máy khâu, 700 máy vắt sổ, 4.000 máy vào cổ áo, 100 máy là hơi, 300 máy dệt tất, máy thêu vi tính 20 cái,... Các loại máy móc này đều được sản xuất từ các nước Nhật, Trung Quốc và Hàn Quốc do các công ty tư nhân hoặc hộ sản xuất mua về. Do là CCNLN chuyên làm hàng xuất khẩu nên các cơ sở làm hàng dệt kim thường xuyên nâng cấp và đổi mới công nghệ, có mối quan hệ mật thiết với các doanh nghiệp chuyên kinh doanh máy móc thiết bị để nắm bắt được các công nghệ mới có trên thị trường. Đối với những thiết bị hiện đại và khó sử dụng thì có các doanh nghiệp bán thiết bị và chuyển giao công nghệ hướng dẫn công nhân cách thức vận hành, sử dụng.

Trong CCNLN mây tre đan Phú Vinh, năm từ năm 1999 đã có máy chẻ mây và máy đánh bóng sản phẩm đưa vào sản xuất. Đến năm 2000, bắt đầu sử dụng máy chẻ song và năm 2001 đã sử dụng máy tuốt mây. Các loại máy này đều có năng suất cao gấp 20 – 25 lần lao động bằng tay. Hiện nay, trong việc sản xuất và hoàn thiện sản phẩm của CCNLN này đã sử dụng nhiều loại máy móc như máy phun sơn (có 10 chiếc), máy bắn đinh (10 máy), các loại máy sấy, đánh bóng sản phẩm,... Việc đưa máy móc vào sản xuất đã làm tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, đặc biệt là công đoạn phun màu sản phẩm, tạo cho sản phẩm bền và đẹp.

Khai thác có hiệu quả các nguồn lực tự có của địa phương

A) Yếu tố vốn xã hội và vốn con người



Về vốn xã hội

Theo Putnam, vốn xã hội là các thể chế, các quan hệ và tiêu chuẩn quyết định số lượng và chất lượng của các tương tác xã hội và nhân tố quyết định sự năng động của các vùng299. Thực tế, các CCNLN ở ĐBSH đã kế thừa và phát triển tốt các mối quan hệ truyền thống và hình thành các mạng lưới xã hội mới. Các doanh nghiệp trong cụm cũng đã biết khai thác các giá trị truyền thống và danh tiếng về sản phẩm của làng nghề.

Như CCNLN giấy Phong Khê đã kế thừa và phát triển ngành nghề truyền thống của địa phương để phát triển từ làng nghề sản xuất giấy thủ công sang sản xuất các loại giấy có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Khai thác và phát triển các kiến thức nghề nghiệp và các mối quan hệ của làng nghề làm giấy dó trước đây với các làng nghề khác để mở rộng các mối quan hệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trong quá trình thương mại hoá sản phẩm của CCNLN này, nhiều đại lý cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm lúc đầu tìm đến CCNLN này từ việc biết đến danh tiếng đã có của làng nghề làm giấy Dương Ổ (thuộc xã Phong Khê) trước đây.

Còn tại CCNLN đồ gỗ Đồng Quang, người dân đã kế thừa và phát triển các mối quan hệ từ hoạt động buôn trâu bò (trước năm 1960) và đi xẻ gỗ thuê (trước những năm 1980) của làng Đồng Kỵ để phát triển mạng lưới thu mua gỗ ở hầu khắp các tỉnh, thành phố có nguồn nguyên liệu gỗ ở các tỉnh phía Bắc, sau đó mở rộng mạng lưới đó ra cả nước và nước ngoài. Chính các mạng lưới quan hệ trước đây đã tạo nên nguồn lực chung của cộng đồng trong CCNLN này. Đó cũng chính là nhân tố quan trọng góp phần vào sự phát triển thị trường, phát triển sản xuất của CCNLN đồ gỗ ở Đồng Quang300.

Trong cụm làng nghề dệt La Phù, người dân đã kế thừa và phát huy rất hiệu quả các mối quan hệ có từ thời kỳ kinh tế kế hoạch tập trung thông qua các đầu mối cung cấp nguyên liệu và xuất khẩu hàng dệt kim của các HTX thủ công trước đây. Hiện nay, các mối quan hệ đó vẫn tồn tại và phát triển, đồng thời tăng cường hơn mối liên hệ giữa những hộ gia đình làm nghề và các công ty qua sự làm hàng gia công. Giữa các hộ làm gia công và các công ty luôn có mối quan hệ chặt chẽ và ràng buộc lẫn nhau trong việc thực hiện các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở cùng có trách nhiệm và hai bên cùng có lợi. Trong CCNLN này, các doanh nghiệp thường hợp tác với nhau trong việc trao đổi vật tư, mua nguyên liệu, tổ chức sản xuất và chia sẻ thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Còn trong CCNLN mây tre đan Phú Vinh, người dân đã gìn giữ và phát triển nghề truyền thống. Đồng thời thông qua các mối quan hệ truyền nghề, đào tạo nghề cho các địa phương trước đây họ đã hình thành những mạng lưới cung cấp vật tư, nguyên liệu và hệ thống làm hàng gia công với các làng nghề khác trong huyện Chương Mỹ, trong tỉnh Hà Tây và nhiều tỉnh khác như Thái Bình, Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên và mở rộng đến các tỉnh trung du miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Tuyên Quang, Sơn La,... Do vậy, khi có hợp đồng mua hàng với số lượng lớn, các doanh nghiệp ở Phú Nghĩa có thể tìm đến tất cả các làng nghề mây tre đan trong vùng để đặt làm hàng gia công và thu mua sản phẩm. Bên cạnh đó các doanh nghiệp còn có mối quan hệ với các làng nghề làm nón lá, sơn mài,...



Về vốn con người: Người dân trong các làng nghề ở vùng ĐBSH từ xư­a đã phát triển nghề thủ công nghiệp, buôn bán và gần đây đã cơ giới hoá một số công đoạn trong sản xuất nông nghiệp và hoạt động thủ công. Cho nên đời sống công nghiệp đã thâm nhập vào các gia đình khá sớm và "chuyên nghiệp hoá" người lao động trong các làng nghề. Bên cạnh đó, người dân trong làng nghề luôn học tập và tiếp thu nghề truyền thống của gia đình và quê hương. Chính vì vậy, trong các làng nghề truyền thống luôn có một bộ phận thợ thủ công có chuyên môn, kiến thức và tay nghề cao. Đặc biệt, có nhiều nghệ nhân giỏi nghề, yêu nghề, có đạo đức và luôn tìm ra những mẫu mã sản phẩm mới. Bên cạnh đó cũng có những doanh nhân chuyên đi nghiên cứu và phát triển thị trường cho làng nghề. Chính yếu tố vốn xã hội và vốn con người cũng là những yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển của các làng nghề và hình thành nên các CCNLN ở vùng ĐBSH.

B) Khai thác tốt sự gần kề về địa lý và tổ chức

Sự xuất hiện các cụm công nghiệp làng nghề gắn liền với sự gần kề về địa lý và tổ chức. Các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất trong các CCNLN đã khai thác sự gần kề về địa lý với Thủ đô Hà Nội, nơi được xem như là một thị trường rộng lớn để tiêu thụ các sản phẩm và cung cấp nguyên liệu, các dịch vụ về khoa học và công nghệ,.... Hơn nữa, sự gần kề về địa lý giữa các làng nghề với nhau cũng tạo điều kiện thuận lợi và giảm chi phí trong việc vận chuyển vật tư, tiêu thụ sản phẩm và đào tạo lao động của các CCNLN. Thực tế cho thấy trong những năm gần đây luôn có 1 lực lượng lao động ở những xã, làng thuần nông sang làm thuê cho các cơ sở sản xuất ở những CCNLN. Những lao động này từ chỗ học nghề, sau đó làm thuê cho các cơ sở dạy nghề và dần dần tách ra khỏi cơ sở làm thuê để đầu tư xây dựng một cơ sở sản xuất độc lập. Đó chính là cách lan rộng của các mạng lưới làm hàng gia công và mở rộng không gian của các CCNLN trong vùng ĐBSH.

Bên cạnh đó trong các CCNLN còn có sự gần kề về hình thức tổ chức sản xuất và kinh doanh giữa các doanh nghiệp, hộ sản xuất. Chính vì vậy, trong các CCNLN dễ dàng hình thành mạng lưới làm hàng gia công. Đồng thời, việc ứng dụng, chuyển giao và nhân rộng các tiến bộ kỹ thuật trong CCNLN cũng diễn ra nhanh chóng và đạt kết quả cao dựa trên cách bắt chước hoặc học lỏm của những người thợ, của các doanh nghiệp trong CCNLN. Mặt khác, do có sự gần kề về địa lý và tổ chức nên việc thuê tuyển dụng lao động trong CCNLN là rất dễ dàng và đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của nhà tuyển dụng về số lượng và chất lượng của lao động. Ví dụ, trong CCNLN đồ gỗ Đồng Quang, lúc đầu các lao động đến từ các làng nghề truyền thống gần kề như làng Phù Khê, Hương Mạc, Tam Sơn, Vân Hà (Hà Nội),... Trong số các lao động từ nơi khác đến Đồng Kỵ làm thuê, có một số lao động đã có tay nghề do ở quê hương của họ có các nghề tương tự như ở CCNLN Đồng Quang, ví dụ như thợ khảm trai ở Chương Mỹ (Hà Tây), thợ đục chạm ở Đông Giao (Hưng Yên); thợ mộc ở Bắc Giang, Nam Định,...

Với việc khai thác tốt sự gần kề về địa lý và tổ chức, trong các CCNLN thường giảm được nhiều chi phí giao dịch, vận chuyển và đào tạo, đồng thời có khả năng phát triển nhanh số lao động và hộ làm nghề trong thời gian ngắn. Đó cũng là trường hợp phát triển nhanh về số lượng hộ sản xuất và không gian của CCNLN đồ gỗ Đồng Quang.

C) Các yếu tố cơ sở hạ tầng và nguồn lực chung

Thực tế là các CCNLN của vùng ĐBSH đều nằm trong hành lang các khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc, có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy khá phát triển, gần sân bay quốc tế Nội Bài và cảng Hải Phòng, mạng lưới điện, hệ thống thông tin liên lạc khá phát triển và hoàn chỉnh. Trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp, các tỉnh và thành phố cũng đã có nhiều chính sách hỗ trợ về đất, về vốn cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các khu tiểu thủ công nghiệp làng nghề trong các CCNLN. Mặt khác, trong các CCNLN thường là nơi đã hình thành các thị trường về nguyên liệu, lao động, công nghệ, vốn và tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, tại những CCNLN này thường có nguồn lao động có kiến thức và trình độ tay nghề cao. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trong CCNLN còn được thừa hưởng kiến thức và kỹ năng làm nghề tại gia đình hoặc tại các cơ sở sản xuất khác của làng nghề. Chính vì vậy, các hộ sản xuất và doanh nghiệp trong các CCNLN này đã được thừa hưởng và khai thác được các điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng và các nguồn lực chung để phát triển sản xuất.

D) Các thể chế điều tiết và các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất

Trước đây, trong hầu hết các làng nghề thủ công lâu đời, nổi tiếng ở Việt Nam đều có quy chế về nghề thủ công, hoặc thành văn bản riêng hoặc trong một số điều của hương ước, lệ làng,... Trong chừng mực nào đó, chúng trở thành thứ “pháp quy” của từng làng, xã. Những quy chế này được truyền từ đời này sang đời khác, bắt buộc các thành viên trong gia tộc, trong phường hội nhất nhất tuân theo, thực hiện một cách nghiêm ngặt trong việc gìn giữ và phát triển nghề. Ngày nay, trong các CCNLN thường có các thể chế điều phối các hoạt động của các tác nhân tham gia để giúp cho sự phát triển nghề nghiệp bền vững, phát huy được các giá trị kinh tế, văn hoá, xã hội, các giá trị đạo đức, lòng tin và lương tâm người thợ thể hiện ở chất lượng sản phẩm làm ra. Đó là các mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc lẫn nhau giữa các cá nhân trên cơ sở các mạng lưới xã hội như gia đình, dòng họ, bạn bè, nghề nghiệp và thương mại để tổ chức và điều phối các hoạt động sản xuất và kinh doanh.

Bên cạnh đó, môi trường thể chế còn thể hiện ở sự thay đổi và ban hành kịp thời những chính sách của nhà nước nhằm khuyến khích phát triển ngành nghề, xây dựng các cụm tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Ví dụ như Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/1/2000 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích đầu tư phát triển ngành nghề nông thôn. Sau đó, các địa phương đã cụ thể hoá các chính sách của Nhà nước và ban hành bổ sung các chính sách của địa phương để thúc đẩy sự phát triển các làng nghề ở nông thôn. Cụ thể như tỉnh Bắc Ninh, đã ban hành Nghị quyết 04-NQ/TU ngày 25/5/98 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp; rồi Quyết định 60/2001/QĐ-UB ngày 26/6/2001 về việc ban hành quy định ưu đãi khuyến khích đầu tư trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh,...

Tại Hà Tây, từ năm 1999 Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh đã có quyết định trích tiền từ nguồn ngân sách của tỉnh để hỗ trợ khuyến công như hỗ trợ đào tạo nghề, truyền nghề, nhân cấy nghề, đưa nghề mới về làng,... Tiếp đó, ngày 22/02/2001, UBND tỉnh ra quyết định số 208/2001/QĐ-UB về việc lập quy hoạch đất phát triển làng nghề. Đến ngày 06/01/2003, UBND tỉnh ra quyết định số 08/QĐ-UB ban hành 14 cơ chế hỗ trợ và cho vay đẩy mạnh đầu tư cho xây dựng phát triển ngành nghề, làng nghề ở nông thôn. Ngày 13/07/2005 UBND tỉnh có Quyết định số 872/2005/QĐ- UB về việc ban hành quy định về xây dựng và quản lý các khu tiểu thủ công nghiệp làng nghề trên địa bàn tỉnh Hà Tây.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thấy rằng chính quyền địa phương đóng vai trò rất lớn trong việc tổ chức, chỉ đạo và định hướng phát triển ngành nghề ở địa phương. Chính ở những nơi có CCNLN phát triển mạnh là nơi có những người có chức, có quyền (như chủ tịch xã, bí thư đảng ủy xã) ở địa phương đã cùng tham gia làm nghề. Chính họ là người có thông tin và biết được các khó khăn trong sản xuất và kinh doanh để có những kiến nghị kịp thời với các cấp chính quyền và các cơ quan chuyên môn nhằm tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện cho sản xuất phát triển sản xuất kinh doanh trong CCNLN.

3. Kết luận

Hiện nay ở khu vực nông thôn đang hình thành các CCNLN, đây là mô hình tổ chức sản xuất năng động, có khả năng đổi mới, hiện đại hoá sản xuất và tham gia tích cực vào quá trình CNH và HĐH nông nghiệp và nông thôn. Sự hình thành, phát triển của các CCNLN này đã và đang tạo ra động lực thúc đẩy việc mở rộng quy mô sản xuất, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm và tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động ở địa phương, giảm áp lực của việc di cư của lao động từ nông thôn về thành phố tìm việc làm.



Chính vì vậy, mô hình CCNLN cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và cần có các chính sách hỗ trợ việc quy hoạch và phát triển các CCNLN này thành các hệ thống sáng tạo ở các vùng nông thôn, thành nơi nuôi dưỡng và phát triển sự chuyển đổi từ các hộ sản xuất phi hình thức thành các doanh nghiệp hình thức, góp phần đẩy nhanh sự CNH và HĐH trong nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam.


1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   26




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương