Chim xuân khép cửa trầm tư lại
Đẩy gió về đây mấy dặm ngàn
Nhạc rừng nhớ buổi đi theo nắng
Lên ngát mây chiều hoa phượng reo
Bốn bề mây dựng tương tư ngọc
Lá đổ còn lay bạc mái chèo
Thử hỏi xuân cười hay đất sống
Xanh xanh trăm nẻo một hương rừng
Khi bụi nở vàng lên bước chậm
Nhớ chào con bướm đậu nghiêng lưng
Sắc hồng tuy nhớ đôi thành quạnh
Rửa sạch buồn đèo trên suối xuân
Song song đã ngủ bên người lạ
Thao thức cùng trăng đã mấy tuần
Gặp gỡ trời xanh trên núi cũ
Hoa cười Hà Nội sáng duyên mây
Hoàng hôn ngựa uốn cầu vồng lụa
Cũng hẹn về đây những phố đầy
Nơi xuất bản: NXB Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ NÔNG QUỐC CHẤN
Tiểu sử:
Tên thật: Nông Văn Quỳnh
Sinh năm: 1923
Mất năm : 2002
Bút danh: Nông Quốc Chấn
Nơi sinh: Ngân Sơn - Cao Bằng
Thể loại: Thơ, lý luận phê bình
Các tác phẩm:
Tiếng ca người Việt Bắc (tập thơ, 1959)
Người núi Hoa (tập thơ, 1961)
Đèo gió (tập thơ, 1968)
Bước chân Pắc Pó (tập thơ, 1971)
Suối và biển (tập thơ, 1984)
Một vườn hoa nhiều hương sắc (tiểu luận, 1977)
Đường ta đi (tiểu luận, 1970)
Giải thưởng văn chương:
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật đợt II
Giới thiệu một tác phẩm:
Dọn về làng
Mẹ! Cao - Lạng hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng dày như củi.
Sáng mai về làng sửa nhà phát cỏ,
Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai
Mấy năm qua quên tết tháng Giêng, quên rằm tháng bảy,
Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi
Nhớ một hôm mù mịt mưa rơi
Cơn gió bão trên rừng cây đổ
Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa
Ðường đi lại vắt bám đầy chân.
Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng.
Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi,
Nó vơ hết áo quần trong túi
Mẹ địu em chạy tót lên rừng
Lần đi trước, mẹ vẫy gọi con sau lưng
Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải
Bà lòa mắt không biết lối bước đi.
Làm sao bây giờ: ta phải chống!
Giặc đã bắt cha con đi, nó đánh,
Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây
Súng nổ ngay đì đùng một loạt,
Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất
Cha ơi: cha không biết nói rồi...
Chúng con còn thơ, ai nuôi ai dạy?
Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời!
Mẹ ngồi khóc, con cúi đầu cũng khóc.
Sợ Tây nghe, mẹ dỗ "nín", con im.
Lán anh em rải rác không biết nơi tìm
Không ván, không người đưa cha đi cất.
Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,
Con cởi áo liệm thân cho bố;
Mẹ con đưa cha đi nằm một chỗ
Máu đầy tay, trên mặt nước tràn...
Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn
Băm xương thịt mày, tao mới hả.
Hôm nay Cao - Bắc - Lạng cười vang
Dọn láng, rời rừng, người xuống làng
Người nói cỏ lay trong ruộng rậm
Con cày mẹ phát, ruộng ta quang.
Ðường cái kêu vang tiếng ô tô.
Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ.
Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá.
Mặc gà gáy chó sủa không lo,
Ngày hai bữa rau ta có muối.
Ngày hai buổi không tìm củ pấu, củ nâu
Có bắp xay độn gạo no lâu,
Ðường ngõ từ nay không cỏ rậm,
Trong vườn chuối, hổ không dám đến đẻ con
Quả trên cành không lo tự chín tự rụng,
Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng.
Bộ đội đỡ phải đi thung lũng núi rừng,
Ra đường xe, hát nói ung dung
Từng đoàn người dắt lá cây tiến bước
Súng bên vai, bao gạo buộc bên vai,
Chân đi có giày không sợ nẻ
Trên đầu có mũ che nắng mưa.
Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,
Giặc Pháp, giặc Mỹ còn giết người cướp của trên đất nước ta.
Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ
Mùa đông 1950
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1999
NHÀ THƠ PHẠM HUY THÔNG
Tiểu sử:
Tên thật: Phạm Huy Thông
Sinh năm: 1916
Mất năm: 1988
Nơi sinh: Hà Nội
Bút danh: Huy Thông
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Yêu đương (1934)
Anh Nga (1935)
Tiếng địch sông Ô (1935);
Tần Ngọc (1937)
Tiếng sóng (1934)
Cái Én
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Tiếng địch sông Ô (trích)
Sở Bá Vương ngồi yên trên mình ngựa
Giương mắt buồn say ngắm chân trời xa
Trong sương thu nhẹ đượm ánh dương tà
Quân Lưu Bang đang tưng bừng hạ trại
Khói tung bay trên vòm trời rộng rãi
Như muôn sao trong đám tối mơ màng
Khắp bốn phương giáo mác toả hào quang
Liên tiếp nhau chen chúc xung quanh ven trời lớn
Mấy làn trại (lưới xa xôi, mịt mùng và chắc chắn )
Đóng trùng trùng, điệp điệp trên đầu non
Cờ chư hầu đỏ rực như pha sơn
Quằn quaị cong trên nền trời lá mạ
Gió quát bên tai Vương, và rộn rã
Tiếng quân reo, tiếng ngựa hí, tiếng loa vang
Theo gió chiều vi vút vẳng đưa sang
Nơi xuất bản: NXB Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ PHẠM HỔ
Tiểu sử:
Tên thật: Phạm Hổ
Sinh năm: 1926
Nơi sinh: An Nhơn - Bình Định.
Bút danh: Hồ Huy
Thể loại: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn
Các tác phẩm:
Những ngày thân ái (1957)
Ra khơi (1960)
Đi xa (1970)
Những ô cửa, những ngả đường (1976)
Vườn xoan (1964)
Tình thương (1974 )
Chú bò tìm bạn (1970)
Ngựa thần từ đâu đến (1986)
Chuyện hoa qua chuyện quả (1974 - 1994)
Cất nhà giữa hồ (1995)
Nàng tiên nhỏ thành ốc (1980)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Những ngày xưa thân ái
Tôi bắn hắn rồi
Những ngày xưa thân ái
Không ngăn nổi tay tôi
Những ngày xưa thân ái
chắc hắn quên rồi
riêng tôi, tôi nhớ:
Đồng làng mênh mông biển lúa
Sương mai đáp trắng cỏ đường
Hai đứa tôi,
Sách vở cặp chung
Áo quần nhàu giấc ngủ
Song song bước nhỏ chân trần
Gói cơm mo mẹ vắt sách tùng tơn
Nón rộng hỏng quai
Trong túi hộp diêm nhốt dế
những ngày xưa êm đẹp thế
không đem chung hai đứa một ngày mai
Hắn bỏ làng theo giặc mấy năm nay
Tôi buồn tôi giận,
Đêm nay gặo hắn,
Tôi bắn hắn rồi
những ngày xưa thân ái
Không ngăn nổi tay tôi
Xác hắn nằm bờ ruộng
Không phải hắn thưở xưa
Tôi cúi nhìn mặt hắn
tiếc hắn thời ấu thơ
Nơi xuất bản: NXB Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ PHẠM TIẾN DUẬT
Tiểu sử:
Tên thật: Phạm Tiến Duật
Sinh năm: 1941
Bút danh: Phạm Tiến Duật
Nơi sinh: Phú Thọ
Thể loại: thơ
Các tác phẩm:
Vầng trăng quầng lửa (1970)
Thơ một chặng đường (1971)
Ở hai đầu núi (1981)
Vầng trăng và những quầng lửa (1983)
Nhóm lửa (1996)
Những mảnh tàn lá Chi tiết
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Nhớ
Cái vết thương xoàng mà đi viện
Hàng còn chờ đó tiếng xe reo
Nằm ngửa nhớ trăng nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.
Nơi xuất bản: NXB Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ PHAN BỘI CHÂU
Tiểu sử:
Tên thật: Phan Văn San (sau đổi thành Phan Bội Châu)
Sinh năm: 1867
Mất năm: 1940
Bút danh: Hải Thu, Sào Nam, Thị Hán, Độc TỈnh Tử…
Nơi sinh: Nam Đàn - Nghệ An
Thể loại: Thơ, tiểu thuyết
Các tác phẩm:
Việt Nam vong quốc sử (1905)
Hải ngoại huyết thư (1906)
Ngục trung thư
Trùng Quang tâm sử (1913 - 1917)
Sào Nam thi tập
Phan Bội Châu niên biểu (1937- 1940)
Xuất dương lưu biệt (1965)
Bình Tây thu Bắc (1883)
Song Tuất lục (1886)
Bái thạch vi huynh (1897)
Sùng bái giai nhân (1907)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Xuất dương lưu biệt
Bản dịch của
Tôn Quang Phiệt
Làm trai phải lạ trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thủa, há không ai?
Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Văn học Hà Nội, 1965
NHÀ THƠ PHAN CHÂU TRINH
Tiểu sử:
Tên thật: Phan Châu Trinh
Sinh năm: 1872
Mất năm: 1926
Nơi sinh: Tiên Phước- Quảng Nam
Bút danh: Tây Hồ, Hi Mã
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Thư gửi toàn quyền Đông Dương
Tỉnh quốc hồn ca (I, II)
Giai nhân kỳ ngộ
Tây Hồ thi tập
Xă ngtê thi tập
Thư thất điều
Đạo đức và luân lý Đông Tây
Quân trị và dân trị
Côn Lôn tức cảnh
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Côn Lôn tức cảnh
Bản dịch của
Huỳnh Thúc Kháng
Biển dâu dời đổi mấy thu đông,
Cụm núi Côn Lôn đứng vững trông,
Bốn mặt giày vò oai sóng gió,
Một mình che chở tội con sông.
Cỏ hoa đất nảy cây trăm thước,
Tồng cá trời riêng biển một vùng.
Nước biếc non xanh thương chẳng nhẽ,
Gian nan xin hộ khách anh hùng.
Nơi xuất bản: Thi tù tùng thoại, Huỳnh Thúc Kháng, NXB Nam Cường, Sài Gòn, 1951
NHÀ THƠ PHAN KHÔI
Tiểu sử:
Tên thật: Phan Khôi
Sinh năm: 1887
Mất năm: 1959
Nơi sinh: Điện Bàn - Quảng Nam
Bút danh: Phan Khôi, hiệu Chương Dân, biệt hiệu: Tú Sơn
Thể loại: tiểu thuyết, văn học dịch, nghiên cứu lý luận phê bình
Các tác phẩm:
Trở vỏ lửa ra
Chương Dân thư thoại
Việt Ngữ nghiên cứu
Tình già (1932)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Tình già
Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa
dưới ngọn đèn mờ trong gian nhà nhỏ
Hai cái đầu xanh kề nhau than thở:
Ôi đời ta, tình thương nhau thì vẫn nặng
Mà lấy nhau hẳn là không đặng
để đến nỗi tình trước, phụ sau
Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau
Hay! Mới bạc làm sao chớ
Buông nhau làm sao cho lỡ!
Thương được chừng nào hay chừng nấy
chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy
Ta là nhân ngãi đâu phải vợ chồng
Mà tính việc thuỷ chung?
Hai mươi bốn năm sau. Tình cờ đất khách gặp nhau.
Đôi cái đầu đều bạc
nếu chẳng quen lung đố nhìn ra được
ôn chuyện cũ mà thôi
Liếc đưa nhau đi rồi
Con mắt còn có đuôi
Nơi xuất bản: NXB Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ PHAN THỊ THANH NHÀN
Tiểu sử:
Tên thật: Phan Thị Thanh Nhàn
Sinh năm: 1943
Nơi sinh: Hà Nội
Bút danh: Phan Thị Thanh Nhàn
Thể loại: thơ, truyện ngắn
Các tác phẩm:
Tháng giêng hai (1969)
Hương thầm (1973)
Chân dung người chiến thắng (1977)
Bông hoa không tặng (1987)
Nghiêng về anh (1992) Chi tiết
Xóm đê ngày ấy (1977)
Hoa mặt trời (1978)
Tuổi trăng rằm (1982)
Ánh sáng của anh (1978)
Bỏ trốn (1995).
Ý thơ chưa trọn ( Truyện dài) Chi tiết
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Hương thầm
Cửa sổ hai nhà cuối phố
Không hiểu vì sao không khép bao giờ
Đôi bạn ngày xưa học chung một lớp
Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa
Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay
Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm
Bên ấy có người ngày mai ra trận
Họ ngồi im không biết nói năng chi
mắt chợt nhìn nhau rồi lại quay đi
Nào ai đã một lần dám nói
Hoa bưởi thơm cho lòng bối rối
Anh không dám xin cô gái chẳng dám trao
chỉ mùi hương đầm ấm thanh tao
Không dấu được cứ bay dịu nhẹ
Cô gái như chùm hoa lặng lẽ
nhờ hương thơm nói hộ tình yêu
(Anh vô tình anh chẳng biết điều
tôi đã đến với anh rồi đấy…)
Rồi theo từng hơi thở của anh
Hương thơm ấy thấm sâu vào lồng ngực
Anh lên đường hương sẽ bay theo khắp
Họ chia tay vẫn chẳng nói điều gì
Mà hương thầm thơm mãi bước người đi.
Nơi xuất bản: NXB Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ PHÙNG QUÁN
Tiểu sử:
Tên thật: Phùng Quán
Sinh năm: 1932
Mất năm: 1995
Nơi sinh: Hương Thuỷ - Huế
Bút danh: Phùng Quán
Thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, ký, thơ
Các tác phẩm:
Vựợt Côn Đảo (1955)
Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo (1955)
Trên bờ Hiền Lương (1956)
Cuộc đời đôi dép cao su (1956)
Tuổi thơ dữ dội (1988)
Tiếng đàn trong rừng thẳm (1991)
Thơ Phùng Quán Chi tiết
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Lời mẹ dặn
Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn,
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn,
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
- Con ơi –
trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
- Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
- Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc cứ khóc.
Yêu ai cứ bảo là yeeu
Ghét ai cứ bảo là ghét.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
- Bé ơi, bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
- Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! Những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời,
In lên vết son đỏ chói.
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thủa lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đó.
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yeeu
Ghét ai cứ bảo là ghét.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
Chân thật chọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá.
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Kim Đồng, 2003
NHÀ THƠ QUANG DŨNG
Tiểu sử:
Tên thật: Bùi Đình Dậu (tức Diệm)
Sinh năm: 1921
Mất năm: 1988
Bút danh: Quang Dũng
Nơi sinh: Đan Phượng - Hà Tây
Thể loại: thơ, truyện ngắn, ký
Các tác phẩm:
Rừng biển quê hương
Mùa hoa gạo (1950)
Đường lên Thuận Châu (1964)
Rừng về xuôi
Nhà đồi (1970)
Gương mặt hồ Tây
Tuyển tập những bài thơ hay Chi tiết
Mây đầu ô (1986)
Bài thơ sông Hồng (1956)
Thơ văn Quang Dũng (1988) Chi tiết
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Tây tiến
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm khơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Phù Lưu Chanh, 1948
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Hội nhà
NHÀ THƠ QUÁCH TẤN
Tiểu sử:
Tên thật: Quách Tấn
Sinh năm: 1910
Mất năm: 1991
Nơi sinh: Bình Khê - Bình Định (nay thuộc huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định)
Bút danh: Quách Tấn, hiệu Trường Xuân, tự là Đăng Đạo
Thể loại: thơ, văn học dịch
Các tác phẩm:
Một tấm lòng (1939)
Mùa cổ điển (1941)
Non nước Bình Định (1968)
Xứ Trầm Hương (1969)
Đời Bích Khê (1971)
Đôi nét về Hàn Mạc Tử (1972)
Giọt trăng (1973)
Tố Như thi (1973, dịch)
Mộng Ngân Sơn (1966)
Đọng bóng chiều (1965)
Nhà Tây Sơn (1988)
Thi pháp thơ Đường (1998)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Đà Lạt đêm sương
Bóng trăng lóng lánh mặt hồ im,
Thời khắc theo nhau lải rải chìm.
Đứng dựa non sao bờ suối ngọc,
Hồn say dịu dịu mộng êm êm.
Một luồng sương bạc bỗng từ mô
Lẻn cuốn vừng trăng cuốn mặt hồ;
Cuốn cả non sao bờ suối ngọc:
Người lơ lửng đứng giữa hư vô
- Trời đất tan ra thành thuỷ tinh
Một bàn tay ngọc đẫm hương trinh
Âm thầm mơn trớn bên đôi má
Hơi mát đê mê chạy khắp mình
Nơi xuất bản: NXB Hội nhà văn, 1998
NHÀ THƠ SÓNG HỒNG
Tiểu sử:
Tên thật: Đặng Xuân Khu
Sinh năm: 1907
Mất năm: 1988
Nơi sinh: Xuân Trường - Nam Định
Bút danh: Sóng Hồng (Trường Chinh)
Thể loại: Thơ, văn chính luận
Các tác phẩm:
Thơ Sóng Hồng (tập I) (1966)
Thơ Sóng Hồng (tập II) (1974)
Chủ nghĩa Mác và mấy vấn đề văn hoá Việt Nam
Tin chiến thắng
Đi họp
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Đi họp
Vút ngựa vụt qua đèo,
Rì rầm tiếng suối reo.
Xuống đèo trời mới tối,
Vằng vặc mảnh trăng treo.
Ngựa mỏi đi bước một,
Người suy nghĩ vấn vương.
Nhiều khi ý kiến lớn
Vụt đến lúc đi đường.
Đêm lạnh, càng sương đượm
Long lanh bóng nguyệt vờn.
Nhà ai bếp vẫn đỏ,
Thấp thoáng ở sườn non?
Đường xa, cơn gió rít,
Xao xác chim cầm canh,
Hội nghị mai họp sớm
Băm băm ngựa bước nhanh.
Việt Bắc - Đông 1953
Nơi xuất bản: NXB Giáo dục - 2005
NHÀ THƠ T.T.KH
Tiểu sử:
Tên thật: ?
Nơi sinh: ?
Bút danh: T.T. KH
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Hai sắc hoa Ti-gôn (1937)
Bài thơ thứ nhất
Bài thơ đan áo
Bài thơ cuối cùng
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |