LÀNG TA
Một đời đắm đuối làng ơi
Tên chưa gọi, đã đắp bồi nhớ thương…
Bao năm sống giữa phố phường
Phố không dễ thuộc như đường làng ta
Con đường nứt thịt nẻ da
Nhìn cây gạo đỏ rắc hoa sang hè
Quanh làng ken kín lũy tre
Cánh cò chở rét đậu về chiều hôm
Ao làng còn ngát sen thơm
Giếng làng mạch nước còn ươm sắc trời
Cái ngày hoa bưởi bên tôi
Áo em nhuộm ánh trăng rơi cửa chùa…
Chẳng cùng nắng chín mùa dưa
Mà sao dư vị mật chưa nhạt màu !
(Trích tập Ngàn năm sau; Nguồn: NXB Hội Nhà văn)
NHÀ THƠ LÊ ĐỨC THỌ
Tiểu sử:
Tên thật: Phan Đình Khải
Sinh năm: 1911
Mất năm: 1990
Nơi sinh: Nam Ninh - Nam Định
Bút danh: Lê Đức Thọ
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Trên những nẻo đường (1960)
Đường ngàn dặm (1977)
Nhật ký đường ra tiền tuyến (1978)
Xà lim
Hận rừng xanh
Em liên lạc
Hoa tàn
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Mưa rơi
Nghe chim tu hú gọi
Rừng Lộc Ninh sáng rồi
Suốt đêm qua không ngủ
Nằm đếm tiếng mưa rơi
Lo cho anh bộ đội
Lầy lội quãng đường dài
Hết tăng rồi lại pháo
Mong chẳng thấy tăm hơi
Chiến trường chờ từng phút
Đừng mưa nữa mưa ơi!
Để đường mau khô ráo
Cho xe vào tới nơi
Trận cuối cùng lịch sử
Tiếng súng bắt đầu rồi.
Lộc Ninh, 9-4-1975
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ LÊ NGUYÊN NGỮ
Tiểu sử:
Tên thật: Lê Văn Tám
Sinh năm: 1950
Nơi sinh: Bình Thuận
Bút danh: Lê Nguyên Ngữ
Thể loại: Thơ, truyện ngắn
Các tác phẩm:
Quán chiều phố huyện
Một nửa
Gửi người em nhỏ
Bên cội huyết mai già
Mưa chiều tháng sáu
Chiếc áo Tết
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Quán chiều phố huyện
Buổi chiều phố huyện sao thương thế
Một chút mưa bay, một chút buồn
Áo nhỏ em về nghiêng chút Huế
Để bài thơ nón ướt mưa vương !
Ta khách qua đường, dân tứ xứ
Quán nghèo kinh tế mái tranh xiêu
Nâng li khôn ấm hồn cô lữ
Bởi mắt em còn lạnh hơn chiều.
Vốn dĩ đời thường cơm áo bạc
Nên xui thân gái má phai hồng
Một ra đi đã là một khác
Quê cũ chừ thương cách mấy sông !
Ấy bởi đời mình men rượu đắng
Nên thương trăm họ, thích phiêu bồng
Đời ta bến bãi, em hàng quán
Thiên hạ là nhà có biết không ?
Ngồi lại bên chiều kinh tế mới
Quán nghèo, bếp lửa, khói trung du
Uống lên li rượu mưa hiên tạt
một nửa men chiều, một nửa thu.
Tánh Linh, 1991
Nơi xuất bản: NXB Giáo dục - 2005
NHÀ THƠ LÊ THỊ MÂY
Tiểu sử:
Tên thật: Phạm Thị Tuyết Bông
Sinh năm: 1948
Nơi sinh: Quảng Trị
Bút danh: Lê Thị Mây
Thể loại: Thơ, truyện ngắn
Các tác phẩm:
Những mùa trăng mong chờ (1980)
Chị ơi
Tặng riêng một người (1990)
Giấc mơ thiếu phụ (1996)
Một khung cửa sổ
Cỏ mật mùa thu
Giao thừa
Thao thức
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Những mùa trăng mong chờ
Thư anh tin ngày về
Cho vầng trăng hẹn mọc
Trong ngần hoa cau thơm
Mây chớm màu tha thiết
Trăng non nghiêng qua rồi
Bom rung vầng trằng khuyết
Xô thuyền trong xa xôi
Giữa gập ghềnh núi biếc
Anh khoác ba lô về
Đất trời dồn chật lại
Em tái nhợt niềm vui
Như trăng mọc ban ngày
Gặp nhau tròn mùa trăng
Em trẻ như bầu trời
Vòng tay anh đằm thắm
Giấu lời ru trên môi
Mai lại tiễn xa nhau
Vầng trăng cong chẽn lúa
Đêm đêm chín ngàn sao
Rỏ vào tim giọt lửa
Mong chờ em mong chờ
Vầng trăng xinh - gương mặt
Sáng sáng đầy theo anh
Suốt chặng đường đánh giặc.
1973
Nơi xuất bản: NXB Giáo dục - 2005
NHÀ THƠ LÊ TRÍ VIỄN
Tiểu sử:
Tên thật: Lê Trí Viễn
Sinh năm: 1920
Nơi sinh: Quảng Nam – Đà Nẵng
Bút danh: Lê Trí Viễn
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Đêm ấy đêm này
Giải thưởng văn chương
Giới thiệu một tác phẩm:
Đêm ấy đêm này
Đêm Thuý Kiều sang nhà Kim Trọng
Nguyễn Du tắt bớt trăng và vặn thấp ngọn đèn
Sự thực ấy cần nhuốm màu hư ảo,
Đẹp tình người mà mơ ước thần tiên.
Anh đến với em đêm rằm xuân ấy,
Lênh láng trăng và nghiêng ngửa ngọn đèn.
Ngồi bên nhau ta ngồi bên sự thật,
Mà trăng với đèn cũng chuếnh choáng hơi men.
Cây hoàng lan say chi mà ngây ngất
Hương tuyết tràn trề mà cành lá chẳng chịu yên?
Tàu chuối tơ cớ chi mà trĩu nặng
Không ở vườn mình mà nghiêng đổ vườn bên?
Em ơi em! Đêm qua vườn ta quá chật
Tình chỉ hai người mà xuân cứ vô biên.
Nơi xuất bản: NXB Lao động - 2001
NHÀ THƠ LỆ THU
Tiểu sử:
Tên thật: Trần Lệ Nhung
Sinh năm: 1940
Nơi sinh: Tuy Phước – Bình Định
Bút danh: Lệ Thu, Trần Thị Lưu Phương
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Xứ sở loài chim yến (1980)
Niềm vui của biển (1982)
Hương gửi lại (1990)
Nguyện cầu (1991) Chi tiết
Chân dung tình yêu (1996)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Viết cho con
Đêm cuối cùng được ở bên con
Mẹ thao thức lắng nghe từng nhịp thở
nhịp thở bình yên
môi con hé mở
con thấy gì mà cười trong giấc mơ!
bồi hồi mẹ viết bài thơ
Bao thương nhớ dành cho con tất cả
mai mẹ lên đường
nhiều gian lao vất vả
suốt chặng đường dài mẹ sẽ nhớ về con
cái miệng hay cười
cái dáng lon ton
cái đầu "bẹp cá trê" vì ít khi được bế!
Mai khôn lớn con nghĩ gì về mẹ
con nghĩ gì về một chặng đường qua
con nghĩ gì về đất nước chúng ta
nỗi đau đớn xuyên rất nhiều thế hệ?
không muốn lớn lên con phải làm nô lệ
nên bây giờ mẹ ra đi
Tuổi bé thơ con chưa biết gì
Riêng mẹ biết con rất cần có mẹ
biết con thiệt thòi hơn nhiều đứa trẻ
bởi thiếu bàn tay mẹ lo chăm
nhưng lòng con sẽ sáng mặt trăng rằm
khi lịch sử sang trang con vẫn nhìn thấy mẹ
khi Tổ quốc gọi tên từng thế hệ
trong vinh quang con không phải cúi đầu
ai biết mang niềm kiêu hãnh xa sâu
sẽ biết sống làm người xứng đáng
trong hồn mẹ, con sẽ là ngọc sáng
là gương trong bầu bạn cho đời
là lửa ấm, hương nồng lòng mẹ, con ơi!
gà gáy tan canh
nắng hửng chân trời
con ở lại với ông bà, con nhé.
xin cơn bấc thổi về, thổi nhẹ
xin trưa nồng cái nắng bớt oi
xin bình uên từng giấc ngủ trong nôi
ôi tiếng chim chuyền
ôi làn hương nội
ôi chiếc lá trong vườn và cánh bướm trong sân…
những bạn nhỏ của con tôi ở lại …
Hà Nội - Trường Sơn, 1973
Nơi xuất bản: tạp chí Văn nghệ Giải phóng - 1974
NHÀ THƠ LÒ NGÂN SỦN
Tiểu sử:
Tên thật: Lò Ngân Sủn
Sinh năm: 1945
Nơi sinh: Bát Xát - Lao Cai
Bút danh: Lò Ngân Sủn, E Sun, Lô Quang Thuận
Thể loại:Thơ, truyện ký
Các tác phẩm:
Chiều biên giới (1989)
Những người con của núi (1990)
Đám cưới (1992) Đường dốc (1993)
Con của núi ( Tập 1: 1996; tập 2: 1997)
Lều nương (1996)
Chiếc vòng bạc (1987)
Tục ngữ Dáy (tập truyện, 1995)
Suối Pí Lè (1996)
Dòng sông mây (1995)
Chợ tình (1995)
Hưu tập thể (tập truyện, 1995)
Suối Pí Lè (1996)
Ở đây (1994)
Trời, cái bật lửa (1995)
Giải thưởng văn chương:
Bộ giao thông
Bộ Giáo dục
Giới thiệu một tác phẩm:
Chiều biên giới
Chiều biên giới em ơi
Có nơi nào xanh hơn
Như tiếng chim hót gọi
Như chồi non cỏ biếc
Như rừng cây của là
Như tình yêu đôi ta.
Chiều biên giới em ơi
Có nơi nào cao hơn
Như đầu sông đầu suối
Như đầu mây đầu gió
Như quê ta ngọn núi
Như đất trời biên cương.
Chiều biên giới em ơi
Có nơi nào đẹp hơn
Khi mùa hoa đào nở
Khi mùa sở ra cây
Lúa lượn bậc thang mây
Mùi toả ngát hương bay.
Chiều biên giới em ơi
Rừng chăng dây điện sáng
Ta nghe tiếng máy gọi
Như nghe tiếng cuộc đời
Lòng ta thầm mê say
Trên nông trường lộng gió
Rộng như trời mênh mông.
Chiều biên giới em ơi
Đôi ta cùng chiến hào
Gần nhau thêm bền chí
Tình yêu là vũ khí
Giữ đất trời quê hương.
Chiều biên giới em ơi
Nghe con sông chảy xiết
Nghe con suối thác dổ
Hồn ta như ngọn gió
Thổi giữa trời quê hương
Hoàng Liên Sơn, 1980
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1999
NHÀ THƠ LƯU QUANG VŨ
Tiểu sử:
Tên thật: Lưu Quang Vũ
Sinh năm: 1948
Mất năm: 1988
Nơi sinh: Phú Thọ
Bút danh: Lưu Quang Vũ
Thể loại: Thơ, kịch, truyện
Các tác phẩm:
Hương cây Chi tiết
Thơ và truyện ngắn Lưu Quang Vũ Chi tiết
Mây trắng của đời tôi (1989)
Bầy ong trong đêm sâu thơ, 1993
Thơ tình Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ (1994).
Sống mãi tuổi 17 (1979)
Hồn Trương Ba da hàng thịt (1984)
Người tốt nhà số 5 (1981)
Khoảnh khắc và vô tận (1986)
Bệnh sĩ (1988)
Lời thề thứ 9 (1988)
Điều không thể mất (1988)..s
Diễn viên và sân khấu
Mùa hè đang đến (truyện, 1983)
Người kép đóng hổ(truyện, 1984)
Giải thưởng văn chương:
Bộ Quốc phòng 1992
Giới thiệu một tác phẩm:
Tiếng Việt
Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm
Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về
Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm
Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre..
Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng
Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya
Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng
Tiếng đập dồn nước lũ xoáy chân đê.
Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa
Khi hun thuyền gieo mạ lúc đưa nôi
tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ
Nón ai xa thăm thẳm bên trời.
“Đá cheo leo trâu trèo trâu trượt…”
Đi mòn đàng dứt cỏ đợi người thương
Đây muối mặn gừng cay lòng khế xót
Ta như chim trong tiếng Việt như rừng.
Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.
Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.
Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy
Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn
Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối
Tiếng heo may gợi nhớ những con đường.
Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng
Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta
Tiếng chẳng mất khi Loa thành đã mất
Nàng Mị Châu quỳ xuống lạy cha già.
Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng
Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi
Tiếng tủi cực kẻ cầu ngủ quán
Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời.
Trái Đất rộng giàu sang bao thứ tiếng
Cao quý thâm trầm rực rỡ vui tươi
Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim người
Như tiếng sáo như dây đàn máu nhỏ.
Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ
Phá cũi lồng vời vợi cánh chim bay
Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay
Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt.
Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết
Người qua đường chung tiếngViệt cùng tôi
Như vị muối chung lòng biển mặn
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời.
Ai thủa trước nói những lời thứ nhất
Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu
Điều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt
Ai người sau nói tiếp những lời yeê?
Ai phiêu bạt nơi chân trời góc biển
Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya?
Ai ở phía bên kia cầm súng khác
Cùng tôi trong tiếng Việt quay về.
Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên mỗi miìh quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi tiếng Việt ân tình…
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2001
NHÀ THƠ LƯU TRÙNG DƯƠNG
Tiểu sử:
Tên thật: Lưu Quang Lũy
Sinh năm: 1930
Bút danh: Lưu Trùng Dương, Trần Hướng Dương, Trần Thế Sự, Lưu Ly
Nơi sinh: Hải Châu- Đà Nẵng
Thể loại: Thơ, tiểu thuyêt, kịch
Các tác phẩm:
Tập thơ của người lính (1949)
Những người đáng yêu nhất (1960)
Nỗi nhớ màu xanh (1975)
Tình nguyện (1964)
Như hòn Non Nước (truyện thơ, 1971)
Trên đỉnh núi Thành ta hát (1979)
Thơ tặng anh bộ đội Cụ Hồ (1990)
Họ đi tìm thiên đường (tiểu thuyết, 1988)
Muối của Bok Hồ (kịch dân ca, 1964)
Giải thưởng văn chương:
Bộ Nội vụ 1985
Giới thiệu một tác phẩm:
Giao thừa này, Báu ở đâu
Gửi Nguyễn Trung Thành
Giao thừa này, Báu ở đâu Báu nhỉ?
Giữa rừng Tây Nguyên hùng vĩ bóng xà nu
Mở đài khuya nghe thư Tết Bác Hồ?
Hay Báu ở một làng ven biển rộng
Đêm Quảng Ngãi trời đầy sao hi vọng
Đón giao thừa chờ tiếng pháo mừng xuân?
Hay Báu đã về xóm cũ Tam Quan
Ăn miếng dừa thơm đậm tình cá nước?
Hay là Báu đang cùng dân nổi đuốc
Thiêu hàng rào ấp chiến lược thành tro? …
Báu ở đâu, ở đâu giữa lúc giao thừa
Nam - Bắc gọi nhau dạt dào tưởng nhớ ! …
Đọc thư Báu mà tưởng chừng nghe rõ
Chính mình đang tâm sự với mình:
"… Ôi những xóm làng rợp bóng dừa xanh
Đã ấp ủ ta mười năm kháng chiến
Đến cây cỏ cũng thiết tha, trìu mến
Đến khí trời cũng đùm bọc, thương yêu!...
Lớn giữa căm thù: kì diệu bao nhiêu
Em gái nhỏ thành anh hùng giết giặc
Làng ta đó, dưới mưa bom xơ xác
Giải phóng rồi cuộc sống hồi xuân.
Mỗi làng xóm đơn sơ, mỗi khuôn mặt bình thường
Đều chứa một bản trường ca bất tuyệt".
Phải, Báu ơi: dẫu nghìn trang tiểu thuyết
Viết say mê chưa nói được một phần
Bởi anh hùng là tập thể nhân dân
Bởi Tổ quốc ta vô cùng vĩ đại!...
Trời Hà Nội vẫn xanh như buổi ấy
Hai đứa mình đi chợ Tết bên nhau
Nhưng năm nay tơ lụa ít khoe màu
Để áo nhuộm xanh sẵn sàng chiến đấu
Người lính phòng không đón giao thừa trên mâm pháo
Nhìn trời sao tưởng thấy cả miền Nam…
Phần mình thì tháng trước ở Nghệ An
Ra trận địa làm thơ cùng chiến sĩ.
Mình mong mỏi những vần thơ chống Mĩ
Sẽ hành quân bên pháo suốt đường dài
Và trong từng viên đạn diệt máy bay
Có chút hồn mình hoà trong thuốc nổ…
Mỗi khi gặp một người quen biết cũ
Báu nói giùm mình gửi lời thương
Trái tim mình vẫn đập giữa quê hương
Dù mình sống nơi nào trên trái đất.
Chưa trực tiếp ra chiến trường giết giặc
Bút mình cầm nguyện góp một mũi chông
Với triệu mũi chông nhọn hoắt căm hờn
Của nửa nước anh hùng đang rực đỏ…
Thôi Báu nhé, giao thừa đang tới đó;
Dù ở đâu ta vẫn đứng kề nhau
Bắc cùng Nam chỉ một chiến hào …
1966
NHÀ THƠ LƯU TRỌNG LƯ
Tiểu sử:
Tên thật: Lưu Trọng Lư
Sinh năm: 1912
Mất năm: 1991
Nơi sinh: Bố Trạch, Quảng Bình
Bút danh: Lưu Trọng Lư
Thể loại: thơ, tùy bút, hồi ký, kịch, truyện
Các tác phẩm:
Tỏa sáng đôi bờ (1959)
Người con gái sông Gianh (1966)
Tiếng thu (1966)
Từ đất này (1971)
Nho nhỏ những mảnh đời >> Chi tiết
Người sơn nhơn (truyện, 1933)
Chiếc cáng xanh (truyện, 1941)
Khói lam chiều (truyện, 1941)
Mùa thu lớn (1978)
Thêm một mùa thơ >> Chi tiết
Nữ diễn viên miền Nam (kịch bản cải lương)
Cây Thanh Trà (kịch bản cải lương)
Xuân Vỹ Dạ ( nói)
Anh Trỗi (kịch nói)
Nửa đêm sực tỉnh (hồi ký, 1989)?
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Nắng mới
Mỗi lần nắng mới hắt bên song
Xao xác gà trưa gáy não nùng
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không
Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời
Lúc Người còn sống, tôi lên mười
Mỗi người nắng mới reo ngoài nội
Áo đỏ Người đưa trước giậu phơi
Hình dáng mẹ tôi chửa xoá mờ
Hãy còn mường tượng lúc vào ra:
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè trước giậu thưa.
Nơi xuất bản: Tập Tiếng thu - 1939
NHÀ THƠ MÃ GIANG LÂN
Tiểu sử:
Tên thật: Lê Văn Lân
Sinh năm: 1941
Nơi sinh: Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hóa
Bút danh: Mã Giang Lân
Thể loại: Thơ, tiểu luận
Các tác phẩm:
Bình minh và tiếng súng (tập thơ, 1975)
Hoa và dòng sông (tập thơ, 1979)
Một tình yêu như thế (tập thơ,1990)
Phố bên sông >>Chi tiết
Thơ văn Thôi Hữu (sưu tầm, giới thiệu, 1984, tái bản 2000)
Thơ Thâm Tâm (sưu tầm, giới thiệu, 1988)
Văn học Việt Nam 1945-1954 (chuyên khảo, 1990, tái bản 1998)
Thơ - Những cuộc đời (tiểu luận, 1992)
Tìm hiểu thơ (chuyên luận, 1997, tái bản 2000)
Tuyển tập Tế Hanh (sưu tầm giới thiệu tập I,II, 1987-1997)
Tuyển tập Văn học Việt Nam tập 24A, 24B (chủ biên, biên soạn cùng Hữu Nhuận, 1997, tái bản 2000)
Quá trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam 1900-1945 (chủ biên, 2000)
Tiểu trình thơ hiện đại Việt Nam (chuyên luận, 2000)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Trụ cầu Hàm Rồng
Đạn hai mươi li bắn thủng xi măng
Bom tấn ép bẻ tung cột sắt
Tên lửa nổ thép già thành nước
Trụ cầu Hàm Rồng chỉ làm bằng cốt sắt xi măng
Tinh mơ giặc ném bom
Tên lửa tầm xa phóng vội
Không ngày nào bọn cướp trời không tới
Không đêm nào bình yên
Cứ thế suốt bốn năm
Trụ cầu Hàm Rồng chỉ làm bằng cốt sắt xi măng
In xuống dòng sông
Là màu đỏ lá cờ
Như mặt trời mới mọc
Là lửa hàn nở trên từng thanh sắt
Những nụ cười công nhân
Những khẩu pháo phòng không
Đợi giặc
Các chiến sỹ cất cao tiếng hát
Mênh mông
In xuống dòng sông
Là những đoàn vận tải
Những đoàn xe chuyên cần nhẫn nại
Cứ thế suốt bốn năm
Trụ cầu Hàm Rồng chỉ làm bằng cốt sắt xi măng
Trụ cầu ung dung đứng đó
Bọn giặc lái bị bắt qua đây cúi đầu run sợ
Cứ thế suốt bốn năm
Trụ cầu Hàm Rồng chỉ làm bằng cốt sắt xi măng.
Nơi xuất bản: Nhà Xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ MINH HUỆ
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Đức Thái
Sinh năm: 1924
Nơi sinh: Bến Thủy, Thành phố Vinh
Bút danh: Minh Huệ, Mai Quốc Minh, Nguyễn Thái
Thể loại: thơ, bút ký, tiểu thuyết, tiểu luận
Các tác phẩm:
Tiếng hát quê hương (1959)
Đất chiến hào, (1970)
Mùa xanh đến (1972)
Đêm nay Bác không ngủ (1985)
Rừng xưa rừng nay (1962)
Ngọn cờ Bến Thủy (truyện ký, 1974-1979)
Người mẹ và mùa xuân (truyện ký, 1981)
Phút bi kịch cuối cùng (1990)
Thưởng thức thơ viết về Bác Hồ (1992)
Dòng máu Việt Hoa (1954)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Đêm nay Bác không ngủ
Anh đội viên thức dậy
Thấy trời khuya lắm rồi
Mà sao Bác vẫn ngồi
Đêm nay Bác không ngủ
Lặng yên bên bếp lửa
Vẻ mặt Bác trầm ngâm
Trời thì mưa lâm thâm
Mái lều gianh xơ xác
Anh đội viên nhìn Bác
Càng nhìn lại càng thương
Người cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm
Rồi Bác đi dém chăn
Từng người, từng người một
Sợ cháu mình giật thột
Bác nhón chân nhẹ nhàng
Anh đội viên mơ màng
Như nằm trong giấc mộng
Bóng Bác cao lồng lộng
Ấm hơn ngọn lửa hồng
Thổn thức cả nỗi lòng
Thầm thì anh hỏi nhỏ:
- Bác ơi, Bác chưa ngủ
Bác có lạnh lắm không?
- Chú cứ việc ngủ ngon
Ngày mai đi đánh giặc
Vâng lời anh nhắm mắt
Nhưng bụng vẫn bồn chồn
Không biết nói gì hơn
Anh nằm lo Bác ốm
Lòng anh cứ bề bộn
Vì Bác vẫn thức hoài
Chiến dịch hãy còn dài
Đường hầm lắm dốc lắm ụ
Đêm nay Bác không ngủ
Lấy sức đâu mà đi!
… Lần thứ ba thức dậy
Anh hốt hoảng giật mình
Bác vẫn ngồi đinh ninh
Chòm râu im phăng phắc
Anh vội vàng nằng nặc:
- Mời Bác ngủ Bác ơi
Trời sắp sáng mất rồi
Bác ơi, mời Bác ngủ.
- Chú cứ việc ngủ ngon
Ngày mai đi đánh giặc
Bác thức thì mặc Bác
Bác ngủ không yên lòng
Bác thương đoàn dân công
Đêm nay ngủ ngoài rừng
Rải lá cây làm chiếu
Manh áo phủ làm chăn
Trời thì mưa lâm thân
Làm sao cho khỏi ướt
Càng thương càng nóng ruột
Mong trời sáng mau mau
Anh đội viên nhìn Bác
Bác nhìn ngọn lửa hồng
Lòng vui sướng mênh mông
Anh thức luôn cùng Bác
Đêm nay Bác ngồi đó
Đêm nay Bác không ngủ
Vì một lẽ thường tình
Bác là Hồ Chí Minh.
1951
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ NGÔ VĂN PHÚ
Tiểu sử:
Tên thật: Ngô Văn Phú
Sinh năm: 1937
Nơi sinh: Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc
Bút danh: Ngô Bằng Vũ, Đào Bích Nguyên
Thể loại: Thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, biên khảo, sưu tầm, dịch thuật
Các tác phẩm:
Tháng năm mùa gặt (1978)
Ngọn giáp búp đa (1978)
Đi ngang đồi cọ (1986)
Cỏ bùa mê (1988)
Đừng khóc (1991)
Âm thầm (1992)
Mặt trái xoan (1986)
Mắt mùa thu (1994) Chi tiết
Hoa trắng tình yêu (1995)
Heo may (1998)
Ngõ trúc (1986)
Bụi và lốc (1988)
Dạo chơi núi Dục Thúy (1993)
Ngang trái Phủ Tây Hồ (1993)
Cờ lau dựng nước Chi tiết
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Mây và bông
Trên trời mây trắng như bông,
Ở dưới cánh đồng, bông trắng như mây
Những cô má đỏ hây hây
Đội bông như thể đội mây về làng
Chim ngói
Không hiểu từ đâu
Cứ mùa thu
Chúng bay về khắp cánh đồng,
siêng năng nhặt đỗ
những đàn chim ngói
mặc áo mầu nâu
Đeo cườm ở cổ
Chân đất hồng hồng
như nung qua lửa
mang theo ngọn gió mùa đông bắc đầu tiên
Mùa màng bỗng rực rỡ lên
những sắc màu đẹp nhất
Chúng đem tinh chất xa xôi từ những khoảng trời
Về hoà với sức mỡ màu của đất
Hương đồng, hi vọng tràn trong mắt
những tiếng cười bay dọc xóm vui
Sao tôi thấy chúng giống những cô gái làng tôi
Những cô gái báo báo hiệu những vụ mùa phong thu, bát ngát.
1965
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1999
NHÀ THƠ NGUYỄN BÍNH
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Bính Thuyết
Sinh năm: 1918
Mất năm: 1966
Bút danh: Nguyễn Bính Thuyết
Nơi sinh: Vụ Bản, tỉnh Nam Định
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Cô gái hái mơ
Thơ Nguyễn Bính Chi tiết
Lỡ bước sang ngang (1940)
Tâm hồn tôi (1940)
Hương cố nhân (1941)
Một nghìn cửa sổ (1941)
Người con gái ở lầu hoa (1942)
Mười hai bến nước (1942)
Mây Tần (1942)
Ông lão mài gươm (1947)
Đồng Tháp Mười (1955)
Trả ta về (1955)
Gửi người vợ miền Nam (1955)
Trông bóng cờ bay (1957)
Tình nghĩa đôi ta (1960)
Đêm sao sáng (1962)
Tiếng trống đêm xuân (1958)
Cô Son (chèo)
Bóng giai nhân
Người lái đò sông Vị
Giải thưởng văn chương:
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt II)
Giới thiệu một tác phẩm
Chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm em làm khổ tôi!
Nào đâu cái yếm lụa sồi
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
Nói ra sợ mất lòng em
Van em em hãy giữ yên quê mùa
Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh.
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.
Nơi xuất bản: Trích tập Thơ mới 1932-1945, Nhà xuất bản Hội nhà văn - 1999
NHÀ THƠ NGUYỄN BÙI VỢI
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Bùi Vợi
Sinh năm: 1934
Nơi sinh: Thanh Chương - Nghệ An
Bút danh: Nguyễn Bùi Vợi
Thể loại: Thơ, truyện
Các tác phẩm:
Hạnh phúc (1956)
Gửi người yêu (1957)
Câu chuyện tình yêu (1957)
Bông hoa mẫu giáo (1963) Chi tiết
Con gái cô út Tịch (truyện thơ, 1968)
Quê xanh (1974)
Anh là chiến sĩ (truyện vừa, 1977)
Trống trận đêm xuân (truyện thơ, 1970)
Gươm thề Lũng Nhai (truyện thơ, 1982)
Bông hoa cỏ - mặt gương soi (1982)
Gió nóng (1983) >> Chi tiết
Nắng đất rừng (truyện dài, 1984)
Thơ giữa đời thường (1986)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Qua Thậm Thình
Đi qua xóm núi Thậm Thình
Bâng khuâng nhớ nước non mình nghìn năm
Vua Hùng một sáng đi săn
Trưa tròn bóng nắng nghỉ chân chốn này
Dân dâng một quả xôi đầy
Bánh chưng mấy cặp, bánh giày mấy đôi
Đẹp lòng, vua phán bầy tôi
Tìm đất kén thợ định nơi xây nhà
Trăm cô gái tựa tiên sa
Múa chày đôi với chày ba rập rình
Đêm đêm tiếng thậm, tiếng thình
Cối gạo đầy cả nghĩa tình nước non
Không còn dấu cũ lầu son
Phía sau thành phố khói vời trong mây
Trời cao. Bóng toả đường cây
Nhịp chày xưa thoảng đâu đây … thậm thình.
1971
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2001
NHÀ THƠ NGUYỄN DUY
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Duy Nhuệ
Sinh năm: 1948
Bút danh: Nguyễn Duy
Nơi sinh: Đông Vệ - Thanh Hoá
Thể loại: Thơ, bút ký, tiểu thuyết
Các tác phẩm:
Cát trắng (1973)
Ánh trăng (1984)
Mẹ và em (1987) Chi tiết
Đường xa (1989)
Quà tặng (1990)
Về (1994)
Thơ thiền Lý Trần (2005)
Nhìn ra bể rộng trời cao (1985)
Khoảng cách (1985)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Sông Thao
Sông Thao thêm một lần tôi tắm
Thêm một lần tôi đến để rồi đi
Gió cứ thổi trống không ngoài bãi vắng
Tôi nhìn em để chẳng nói năng gì
Tôi gửi lại đây cái buồn vô cớ
Để mang về nỗi nhớ bâng quơ
Xin chớ hỏi cớ làm sao như vậy
Tôi vốn không rành mạch bao giờ
Em đưa tiễn bước chân gìn giữ lắm
Hạt mưa dùng dằng ngọn cỏ ven đê
Yêu mến ạ, xin đừng buồn em nhé
Dòng nước trôi đi, giọt nước lại rơi về...
NHÀ THƠ NGUYỄN ĐÌNH THI
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Đình Thi
Sinh năm: 1924
Mất năm: 2003
Nơi sinh: Luang Prabang (Lào)
Bút danh: Nguyễn Đình Thi
Thể loại: Thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận, kịch
Các tác phẩm:
Người chiến sĩ (1956, 1958) Chi tiết
Dòng sông trong xanh (1974)
Bài thơ Hắc Hải (1959)
Tia nắng (1983)
Xung kích (1951)
Thu đông năm nay (1954)
Mấy vấn đề văn học (1956- 1958)
Chọn lọc >> Chi tiết
Bên bờ sông Lô (1957)
Vỡ bờ (tập I và tập II) (1962, 1970)
Con nai đen (1961)
Cái tết của mèo con (1961)
Mặt trận trên cao (1967)
Vào lửa (1966)
Hoa và Ngần (1975)
Giấc mơ (1983)
Tiếng sóng (1985)
Hòn cuội (1987)
Giải thưởng văn chương:
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (đợt I, năm 1996)
Giới thiệu một tác phẩm:
Đất nước
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm lá vẫn rơi đầy
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trong biếc nói cười thiết tha
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
Từ những năm đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây thằng chúa đất
Đứa đè cổ đứa lột da
Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
Ngày nắng đốt theo đêm mưa giội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Giũ bùn đứng dậy sáng loà.
1948- 1955
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Khoa Điềm
Sinh năm: 1943
Bút danh: Nguyễn Khoa Điềm
Nơi sinh: Phong Điền - Thừa Thiên- Huế
Thể loại: Thơ, ký
Các tác phẩm:
Đất ngoại ô (1973)
Mặt đường khát vọng (1974)
Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986)
Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990)
Cửa thép (1972)
Đất và khát vọng
Trường ca Chi tiết
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Đất nước
Khi ta lớn Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa.." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó..
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ra cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời..
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau 4.000 năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào 4.000 năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhỏ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong 4.000 lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyển lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước là Đất Nước nhân dân
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết "yêu em từ thở trong nôi"
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
Người dạy ta nghèo ăn cháo ăn rau
Biết ăn ớt để đánh lừa cái lưỡi
Cái cuốc, con dao, đánh lừa cái tuổi
Chén rượu đánh lừa con mỏi, cơn đau
Con nộm nag tre đánh lừa cái chết
Đánh lừa cái rét là ăn miếng trầu
Đánh lừa thằng giặc là chuyện Trạng Quỳnh
Nhưng lạ lùng thay, nhân dân thông minh
Không hề lừa ta dù cao dao, cổ tích
Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật
Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời
Dẫu phải cay đắng dập vùi
Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu
Cây khế chua có đại bàng đến đậu
Chim ăn rồi trả ngon ngọt cho ta
Đất đai cỗi cằn thì người sẽ nở hoa
Hoa của đất, người trồng cây dựng cửa
Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa
Thì tin yêu ngay thẳng đón ta vào
Ta nghẹn ngào, Đất Nước Việt Nam ơí
Em nghe không trái thị đã rơi xuống tay người
Trai không chỉ rơi vì sức hút đất đai
Trái rơi vì tay người ao ước
Khi trái chạm tay người và người ấm ủ
Thì lừng hương và cô Tấm bước ra
Đi trả thù và sống Tự do
Không rơi xuống bùn, ôi trái thị quê ta
Để bùn lấm và thành bùn vạn kiếp
Rơi vào tay người, đó là định luật
Của đấu tranh và nhân nghĩa Việt Nam
Tuổi trẻ ơi trong sương gió tháng năm
Ta đã lớn rồi, chín đầy hy vọng
Hãy ngã xuống tay nhân dân, hỡi sắc vàng của nắng
Hỡi hương thơm của nồng mặn mồ hôi..
Hãy ngã vào tay nhân dân, đừng vãi đừng rơi
Đừng do dự, đừng hoài nghi nữa
Hãy yêu nhân dân và nghe người nhắn nhủ
Hãy tìm sức mạnh trên cơ thể nhân dân
Nhân dân đang đi lên đội ngũ trùng trùng
Thế vô tận của nghìn năm giết giặc
Lửa đã cháy hồng hào mặt đất
Mùa chín tình yêu, mùa chín hận thù
Không bao giờ xương máu phải bơ vơ
Ôi sông núi uy nghi ngàn dặm đất
Có nghe tiếng chúng con: Xin có mặt
Nguyện làm người xung kích của quê hương
Đấy tiếng hát chúng con: tiếng hát xuống đường!
Nơi xuất bản: Trích Trường ca Mặt đường khát vọng - 1974, Nhà xuất bản Giáo dục 2005
NHÀ THƠ NGUYỄN NHƯỢC PHÁP
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Nhược Pháp
Sinh năm: 1914
Mất năm: 1938
Nơi sinh: Hà Tây
Bút danh: Nguyễn Nhược Pháp
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Ngày xưa
Người học vẽ (1936)
Trẻ thơ (1950)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Người xứ thơ tiên
Chùa Hương không gặp gỡ
rừng mơ chắc đã mơ?
Lời còn trong hơi thở
giai nhân cùng người thơ.
Phải người từ xưa nhớ
phảng phất nỗi sương mờ
hay vẫn người mấy thuở
tích cũ miền cổ sơ
thần linh chung chỗ ở
voi, hổ đến hầu cờ
cá, cua lên bờ thở
rắn ngủ cùng bé thơ
tiểu đồng giọng chưa vỡ
mơ những điều vẩn vơ.
Bồng đảo hương chưa mở
tiên nữ còn măng tơ
xiêm rơi chưa mắc cỡ
cửa động then hững hờ
Chèo vui đêm xuân lỡ
thuyền lạc dưới trăng mờ
tiếng trần gian lại ngỡ
Cung Quảng vào đêm thơ
tiên với người ngờ ngợ
bạn cũ tự bao giờ.
Sương vương chưa ai gỡ
thế gian còn tinh mơ
mặt trời chưa cơ nhỡ
trăng chẳng khuyết bao giờ
hoa chưa hề dang dở
nhụy suốt đời trinh sơ
tim chưa hề trắc trở
không biết đến đợi chờ.
Động Thiên Trù chợt mở
giật mình bừng giấc thơ
người đi, thơ vẫn ở
rót ngọc đến bây giờ...
Kiếp phù sinh: hơi thở
tuổi thọ nhường cho thơ!
(1914-1938)
NHÀ THƠ NGUYỄN PHAN HÁCH
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Phan Hách
Sinh năm: 1944
Nơi sinh: Thuận Thành - Bắc Ninh
Bút danh: Nguyễn Phan Hách
Thể loại: Thơ, truyện, tiểu thuyết
Các tác phẩm:
Người quen của em (1981)
Gương mặt (1997)
Vườn hoa cổng ô (1974)
Tổ chim sẻ (1978)
Sau những cách xa (1984)
Quà tặng của thiên nhiên (1985)
Khớp ngựa ô (1987)
Vị đắng trên môi (1988)
Hoa hoàng lan (1995)
Tan mây (1983)
Mê cung (1990)
Người đàn bà buồn (1994)
Tình đùa (1996)
Tập truyện ngắn Chi tiết
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Hoa sữa
Tuổi mười lăm, em lớn từng ngày
Một buổi sớm, em bỗng thành thiếu nữ
Hôm ấy mùa thu, anh vẫn nhớ
Hoa sữa thơm ngây ngất quanh hồ.
Tình yêu đầu mang hương sắc mùa thu
Mùi hoa sữa trong áo em và mái tóc
Tình yêu đầu tưởng không gì chia cắt
Vậy mà tan trong sương gió mong manh.
Tại vầng trăng? Tại em hay tại anh
Tại sang đông không còn hoa sữa?
Tại siêu hình? Tại gì không biết nữa
Tại con bướm vàng có cánh nó bay
Đau khổ nhiều nhưng éo le thay
Không phải thời Rô-mê-ô và Juy-li-ét
Nên chẳng có đứa nào dám chết
Đành lòng thôi mỗi đứa một phương.
Chỉ mùa thu vẫn tròn vẹn yêu thương
Hương hoa sữa cứ trở về mỗi độ
Hương của những tình đầu nhắc nhở
Có hai người xưa đã yêu nhau…
Nơi xuất bản: NXB Hội nhà văn – 2001
NHÀ THƠ NGUYỄN VĨ
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Vĩ
Sinh năm: 1912
Mất năm: 1971
Nơi sinh: Đức Phổ - Quảng Ngãi.
Bút danh: Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền.
Các tác phẩm:
Tập thơ đầu (1934)
Đứa con hoang (1936)
Hoang vu (1962)
Kẻ thù là Nhật Bản (1938)
Cái họa Nhật Bản (1938),
Hào quang Đức Phật (1948).
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Gửi Trương Tửu
Nay ta thèm rượu nhớ mong ai
Một mình nhấp chén chẳng buồn say
Trước kia hai thằng hết một nậm
Trò chuyện dông dài mặt đỏ thẫm
Nay một mình ta một be con
Cạn rượu rồi thơ mới véo von
Dạo ấy chúng mình nghèo xơ xác
Mà vẫn coi tiền như cỏ rác
Kiếm được đồng nào đem tiêu hoang
Rủ nhau chè chén nói huynh hoang
Xáo trộn văn chương với chả cá
Chửi đông chửi tây chửi tất cả
Sáng dậy nhìn nhau cười hê hê
Bây giờ thời thế vẫn thấy khó
Nhà văn An Nam khổ như chó
Mỗi lần cầm bút viết văn chương
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương
Rồi nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm trời kiết vẫn kiết
Mà thương cho tôi thương cho anh
Đã rụng bao nhiêu mớ tóc xanh
Bao giờ chúng mình thật ngất ngưởng
Tôi làm trạng nguyên anh tưởng sướng
Rồi anh bên võ tôi bên văn
Múa bút tung gươm hả một phen
Cho bõ căm hờn cái xã hội
Mà anh thường kêu mục nát thối
Cho người làm ruộng kẻ làm công
Đều được an vui hớn hở lòng
Bao giờ chúng mình gạch một chữ
Làm cho đảo điên pho lịch sử
Làm cho bốn mươi thế kỷ xưa
Hất mồ nhổm dậy cười say sưa
Để xem hai chàng trai quắc thước
Quét sạch quân thù trên đất nước
Để cho toàn thể dân Việt Nam
Đều được tự do muôn muôn năm
Để cho muôn muôn đời dân tộc
Hết đói rét lầm than tang tóc
Chứ như bây giờ là trò chơi
Làm báo làm bung chán mớ đời
Anh đi che tàn một lũ ngốc
triết lí con tườu văn chương cóc
Còn tôi bưng thúng theo đàn bò
Ra chợ bán văn ngày tháng qua
Cho nên tôi buồn không biết mấy
đời còn nhố nhăng ta chịu vậy
ngồi buồn lấy rượu uống say sưa
Bực chí thành say mấy cũng vừa
Mẹ cha cái kiếp làm thi sỹ
Chơi nước cờ cao gặp vận bĩ
rồi đâm ra điên, đâm vẩn vơ
Rốt cuộc chỉ còn… mộng với mơ
Nơi xuất bản: NXB Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ NGUYỄN XUÂN SANH
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Xuân Sanh
Sinh năm: 1920
Nơi sinh: Đà Lạt
Bút danh: Nguyễn Xuân Sanh
Các tác phẩm:
Xuân Thu nhã tập (1942, 1992)
Tiếng hát quê ta (1958)
Chiếc bong bóng hồng (1957)
Nghe bước xuân về (1961)
Quê biển (1966)
Sáng thơ (1971)
Đảo dưa đỏ (1971)
Đất nước và lời ca (1978)
Tuyển tập Nguyễn Xuân Sanh (1991)
Đất thơm (1995)
Về thơ (1947, 1949)
Anh hùng Trần Đại Nghĩa (1953)
Giải thưởng văn chương:
Giải thưởng ngoại hạng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1951-1952 (cấp cho tập thể các nhà văn đã viết về Anh hùng và chiến sĩ thi đua - tác giả viết về Anh hùng Trần Đại Nghĩa)
Giới thiệu một tác phẩm:
Nhạc rừng Việt Bắc
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |