Cỏ hoa cần gặp
Có thể chấm dứt được rồi những nụ cười giễu cợt
Rằng những ai nói về cỏ hoa là những kẻ
không chạm hai chân trên mặt đất này
Anh vẫn đến thăm em bằng bước chân có thật
Vẫn không quên chùm hoa cúc cầm tay...
Anh không dửng dưng trước hạt gạo khó khăn ngày hai bữa
Anh không quên những vất vả đời thường
Anh biết rõ những giọt nước mắt em đôi khi thành chất độc
Nhỏ xuống lòng mình loang lổ vết thương
Nhưng anh vẫn cần nói cùng em về hoa cỏ
Về những vòm me không ai có thể đốn mất của mình
Về những chiếc chuồng bồ câu màu hồng trên mái ngói
Về tím đỏ ráng chiều,
Về vạt nắng bình minh...
Dẫu hoa đã từ lâu không có mặt trên những bàn ăn đạm bạc.
Dẫu bóng mát vòm me chưa che tròn lưng
những đứa trẻ con lượm rác ven đường.
Dẫu đã xuất hiện quá nhiều kẻ vác súng săn
tìm bầy chim thành phố.
Và có người lạnh nhạt nhìn nhau nhân danh áo cơm
Thì những kẻ mơ mộng còn rất cần đấy chứ
Anh sợ vật giá leo thang nhưng cũng lo vầng trăng
không mọc nữa đêm rằm
Hay sợ trăng đã mọc rồi mà đầu anh vẫn cúi
Bởi trái tim mình đã thành đá tảng rêu phong
Nên anh vẫn muốn nói cùng em về hoa cỏ
Ta xanh xao - nhưng hãy rất con người
Ta phẫn nộ - nhưng chớ thành trái độc
Ai vấp ngã ven đường, không một giọt lệ rơi
Không một giọt lệ rơi vì mắt nhìn ráo hoảnh
Vì mắt đã lạnh tanh những dung tục đời thường
Nên anh cứ muốn nói hoài về hoa cỏ
Để còn biết giật mình khi chạm một làn hương
Nơi xuất bản: Tập Cỏ hoa cần gặp - Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2001
Bài học đầu cho con
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè
Quê hương là vòng tay ấm
Con nằm ngủ giữa mưa đêm
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm
Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương có ai không nhớ...
NHÀ THƠ ĐOÀN VĂN CỪ
Tiểu sử:
Tên thật: Đoàn Văn Cừ
Sinh năm: 1913
Bút danh: Đoàn Văn Cừ, Kẻ Sĩ, Cư sĩ Nam Hà
Nơi sinh: Hà Nội
Thể loại: Thơ, văn xuôi
Các tác phẩm:
Thôn ca I (1944), Thôn ca II (1960)
Thơ lửa (1947)
Việt Nam huy hoàng (1948)
Quân dân Nam Định anh dũng chiến đấu (1953)
Trần Hưng Đạo, anh hùng dân tộc (1958)
Dọc đường xuân (1979)
Đường về quê mẹ (1987)
Tuyển tập Đoàn Văn Cừ (1992)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Chợ tết
Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà gianh,
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc;
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon,
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ,
Thằng em bé nếp đầu trên yếm mẹ,
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu,
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.
Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa,
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh,
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh.
Người mua, bán ra vào đầy cổng chợ.
Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ,
Để lắng nghe người khác nói bô bô.
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ
Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán.
Một thầy khoá gò lưng trên cánh phản,
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân.
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu,
Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu.
Áo cụ lí bị người chen sấn kéo,
Khăn trên đầu đang chít cũng tung ra.
Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà,
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi.
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi,
Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa.
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha,
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết,
Con gà trống mào thâm như cục tiết
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.
Chợ tưng bừng như thế tới gần đêm.
Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh,
Trên con đường đi các làng hẻo lánh,
Những người quê lũ lượt trở ra về.
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê,
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.
1939
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ DUY KHÁN
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Duy Khán
Sinh năm: 1934
Mất năm: 1993
Nơi sinh: Quế Võ - Bắc Ninh
Bút danh: Duy Khán
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Trận mới ( 1972)
Tâm sự người đi (1987)
Tuổi thơ im lặng (1986)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Trao lời qua gió
Từ lâu quen với xa xôi
Một lời giáp mặt, nghìn lời trên thơ
Những lời một thực mười mơ
Nối lời như nối bến bờ không xa
Ở đây nắng hắt qua nhà
Thất thường mưa gió như là tính anh
Đã xanh, trời tuyệt là xanh
Đã mây, mây kín đọng thành mưa rơi
Mưa tràn chín chục ngày trời
Thừa nơi tắm mát, thiếu nơi ăn nằm
Mùa mưa nay đã đến gần
Nhớ ngày mưa ấy bàn chân ngập bùn
Tiễn anh ra tận đầu thôn
Trắng trời, trắng đất em còn ngó trông
Mới hay có lửa trong lòng
Nên êm ngày lạnh, nên nồng ngày mưa
Mùa này nắng bỏng ban trưa
Áo anh bạc trắng nhoè ra màu vàng
Bỏng rồi cát lại đem rang
Bàn tay của đảo là bàn tay anh
Biển nào càng mặn, càng xanh
Bàn tay giữa biển đã thành sạn chai
Bàn tay súng nặng thép dày
Ngày về bổi hổi cầm tay đất liền
Tay em lạ lạ quen quen
Bao gian nan vẫn dịu mềm ngát thơm
Trong anh gió cát vẫn còn
Niềm vui khép một vòng tròn đó em.
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2001
NHÀ THƠ GIANG NAM
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Sung
Sinh năm: 1929
Nơi sinh: Ninh Hoà - Khánh Hoà
Bút danh: Giang Nam, Châu Giang, Hà Trung, Lê Minh
Thể loại: Thơ, Tiểu thuyết, ký
Các tác phẩm:
Tháng Tám ngày mai (1962)
Quê hương (1965)
Người anh hùng Đồng Tháp (1969)
Vầng sáng phía chân trời (1975)
Hạnh phúc từ nay (1978)
Thành phố chưa dừng chân (1985)
Vở kịch cô giáo (1962)
Người Giồng tre (1969)
Tiền tuyến lửa (1984)
Rút từ sổ tay chiến tranh (1989)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Quê hương
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
"Ai bảo chăn trâu là khổ?"
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được..
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích..
Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ, tôi đi
Cô bé nhà bên (có ai ngờ)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương quá đi thôi)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi..
Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)
Tôi nắm bày tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi, quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người..
Xưa quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học vị đòn, roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục 2005
NHÀ THƠ HÀN MẠC TỬ
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Trọng Trí
Sinh năm: 1912
Mất năm: 1940
Nơi sinh: Đồng Hới- Quảng Bình
Bút danh: Hàn Mặc Tử, Phong Trần, Lệ Thanh, Minh Duệ Nhị
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Mùa xuân chín
Đây thôn Vĩ Dạ
Gái quê
Thơ Điên
Xuân như ý
Thức khuya
Tuyển tập >> Chi tiết
Thượng thanh khí
Cẩm châu duyên
Thơ Hàn Mặc Tử
Duyên kỳ ngộ
Quần tiên hội
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Đây thôn Vĩ Dạ
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền..
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay;
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa khách đường xa,
Áo em trắng quá, nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2000
NHÀ THƠ HỒ CHÍ MINH
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Tất Thành
Sinh năm: 1890
Mất năm: 1969
Nơi sinh: Nam Đàn - Nghệ An
Bút danh: Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc, Trần Lực
Thể loại: Thơ, truyện ngắn
Các tác phẩm:
Nhật ký trong tù Chi tiết
Đường Cách Mệnh
Những trò lố hay Varen và Phan Bội Châu
Vi hành
Giải thưởng văn chương:
Danh nhân văn hoá thế giới
Giới thiệu một tác phẩm:
Cảnh rừng Việt Bắc
NHÀ THƠ HỒ DZẾNH
Tiểu sử:
Tên thật: Hà Triệu Anh (hay Hà Anh)
Sinh năm: 1916
Mất năm: 1991
Bút danh:Hồ Dzếnh, Lưu Thị Hạnh
Nơi sinh: Quảng Xương - Thanh Hóa
Thể loại: Thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch
Các tác phẩm:
Quê ngoại (1942) >> Chi tiết
Thơ Hồ Dzếnh >> Chi tiết
Chân trời cũ (1942) Chi tiết
Trong bóng rừng>> Chi tiết
Một truyện tình mười lăm năm về trước (1942)
Cô gái Bình Xuyên (1946)
Người nữ cứu thương Trung Hoa (1947)
Đi hay ở (1955)
Tập truyện ngắn Nét Buồn >> Chi tiết
Hồ Dzếnh - Tác phẩm chọn lọc (1988)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Ngập ngừng
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,
Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân.
Ngó trên tay, thuốc lá cháy lui dần…
Tôi nói khẽ: gớm, làm sao nhớ thế.
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé.
Em tôi ơi, tình có nghĩa gì đâu
Nếu là không lưu luyến buổi sơ đầu?
Thủa ân ái mong manh hơn nắng lụa,
Hoa bướm ngập ngừng, cỏ cây lần lữa,
Hẹn ngày mai mùa đến sẽ vui tươi,
Chỉ ngày mai mới đẹp, ngày mai thôi!
Em cứ hẹn, nhưng em đừng đến nhé,
Tôi sẽ trách - cố nhiên - nhưng rất nhẹ;
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,
Tình mất vui khi tình còn dang dở.
Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
Cho nghìn sau … lơ lửng … với nghìn xưa …
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2001
NHÀ THƠ HỒ THẾ HÀ
Tiểu sử:
Tên thật: Hồ Thế Hà
Sinh năm: 1955
Nơi sinh: Bình Định
Quê quán: Thừa Thiên - Huế
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Khoảnh khắc
Nghìn trùng
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Khóc ngoại
Năm ngoại mất cháu hãy còn nhỏ dại
Chẳng biết chi ngoài nước mắt rơi
Cháu đã khóc - như bao người - cháu khóc
Chốc đấy mà mười mấy năm trời
Và từ ấy cháu không còn ngoại nữa
Dáng lưng còng gậy trúc của bà đâu
Cháu lớn lên đi chân trời cuối bể
Nghĩ mà thương đời ngoại khổ nghèo
Để hôm nay cháu về đây thăm ngoại
Thắp nén hương lặng lẽ nguyện cầu
Lặng lẽ đau bên nấm mồ của ngoại
Cỏ thời gian tàn úa đã từ lâu.
Cháu lại khóc trong tủi buồn, cháu khóc
Chưa bao giờ thương ngoại thế, ngoại ơi
Trong hoang vắng năm hương tàn lạnh ngắt
Đủ thiêng liêng cao quý một kiếp người
Ngoại ở lại, cháu cúi đầu lạy ngoại
Xin đất lành hãy che chở ngoại tôi
Nếu có thật vòng luân hồi của Phật
Xin cho ngoại tôi phía ấy sớm luân hồi.
Cát Hanh,1989
Nơi xuất bản: NXB Lao Động - 2001
NHÀ THƠ HOÀI VŨ
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Đình Vọng
Sinh năm: 1935
Nơi sinh: Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi
Bút danh: Hoài Vũ
Thể loại: Thơ, truyện ngắn, dịch thuật
Các tác phẩm:
Anh ở đầu sông em ở cuối sông (1989)
Vàm Cỏ Đông
Đi trong hương tràm
Chia tay hoàng hôn
Tiếng sáo trúc
Rừng dừa xào xạc (1977)
Quê chồng (1978)
Bến sông Vàm Cỏ (1980)
Bông sứ trắng (1980)
Vườn ổi (1982)
Loạn luân
Nữ điền chủ cuối cùng
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Vàm Cỏ Đông
ở tận sông Hồng, em có biết
Quê hương anh cũng có dòng sông
Anh mãi gọi với lòng tha thiết:
Vàm Cỏ Đông! Ơi Vàm Cỏ Đông!
Đây con sông xuôi dòng nước chảy
Bốn mùa soi từng mảnh mây trời
Từng ngọn dừa gió đưa phe phẩy
Bóng lồng trên sóng nước chơi vơi
Đây con sông như dòng sữa mẹ
Nước về xanh ruộng lúa, vườn cây
Và ăm ắp như lòng người mẹ
Chở tình thương trang trải đêm ngày
Đây con sông như dòng lịch sử
Sáng ngời tên từ thuở Cha Ông
Đã bao phen đoàn quân cảm tử
Vùi đáy sông xác giặc tanh nồng
Ơi Vàm Cỏ Đông! Ơi con sông
Nước xanh biêng biếc chẳng thay dòng
Đuổi Pháp đi rồi, nay đuổi Mỹ
Giặc đi đời giặc, sông càng trong
Có thể nào quên những đêm thâu
Thức với sao đêm, anh đánh tàu
Má đem cơm nóng ra công sự
Nghe tàu Mỹ rú, giục "ăn mau"
Có thể nào quên cô gái thơ
Bơi xuồng thoăn thoắt dưới trăng mờ
Đưa đoàn "Giải phóng" qua sông sớm
Bên sông, bót giặc đứng sờ sờ
Có thể nào quên những con người
Tóc còn xanh lắm, tuổi đôi mươi
Dám đổi thân mình lấy tàu giặc
Nụ cười khi chết hãy còn tươi
Vàm Cỏ Đông đây, ta quyết giữ
Từng chiếc xuồng, tấm lưới, cây dầm
Từng con người làm nên lịch sử
Và dòng sông trong mát quanh năm
Vàm Cỏ Đông đây, ta quyết giữ
Từng mái nhà nép dưới rặng dừa
Từng thửa ruộng ngời đen màu mỡ
Từng mối tình hò hẹn sớm trưa...
ở tận sông Hồng, em có biết
Quê hương anh cũng có dòng sông
Anh mãi gọi với lòng tha thiết
Vàm Cỏ Đông! Ơi Vàm Cỏ Đông!
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ HOÀNG CẦM
Tiểu sử:
Tên thật: Bùi Tằng Việt
Sinh năm: 1922
Bút danh: Bằng Việt, Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi
Nơi sinh: Bắc Giang
Thể loại: Thơ, kịch thơ, truyện thơ, văn xuôi và tác phẩm dịch
Các tác phẩm:
Bên kia sông Đuống (1983) >> Chi tiết
Lá diêu bông (1993)
Ngã ba sông
Đêm liên hoan
Men đá vàng (1989) >> Chi tiết
Mưa Thuận Thành (1991)
Về Kinh Bắc (1994) >> Chi tiết
Quê hương
Thoi mộng (1941)
Hận ngày xanh (1940)
Giới thiệu một tác phẩm
Bên kia sông Đuống
Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu ?
Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em xột xoạt quần nâu
Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm Chỉ người dăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm…
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu ?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ.
Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn
Đêm buông xuống dòng sông Đuống
- Con là ai ? - Con ở đâu về ?
Hé một cánh liếp
- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
"À ơi... cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù"
Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay
"Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."
Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa, hoa cười
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời.
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
Việt Bắc, tháng 4-1948
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ HOÀNG LỘC
Tiểu sử:
Tên thật:
Sinh năm: 1920
Mất năm: 1949
Nơi sinh: Ninh Giang - Hải Dương
Bút danh: Hoàng Lộc
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Từ hoàng hôn đến bình minh
Lời thông điệp
Viếng bạn (1947)
Tuổi xuân, những trang thơ, những cuộc đời (1990)
Chặn gọng kìm đường số 4 (1948)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |