Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA
Tiểu sử:
Tên thật: Trần Đăng Khoa
Sinh năm: 1958
Nơi sinh: Hải Dương
Bút danh: Trần Đăng Khoa
Thể loại: thơ
Các tác phẩm:
Từ góc sân nhà em (1968)
Góc sân và khoảng trời (1968) Chi tiết
Trừng phạt (trường ca) (1973)
Khúc hát người anh hùng (1974) Chi tiết
Bên cửa sổ máy bay (1986) Chi tiết
Thơ Trần Đăng Khoa (1970) Chi tiết
Truyện ký Chi tiết
Giải thưởng văn chương:
Giải thưởng nhà nước về văn học và nghệ thuật
Giới thiệu một tác phẩm:
Hạt gạo làng ta
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay…
Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy
Hạt gạo làng ta
Những năm bom Mỹ
Trút trên mái nhà
Những năm khẩu súng
Theo người đi xa
Những năm băng đạn
Vàng như lúa đồng
Bát cơm mùa gặt
Thơm hào giao thông…
Hạt gạo làng ta
Có công các bạn
Sớm nào chống hạn
Vục mẻ miệng gầu
Trưa nào bắt sâu
Lúa cao rát mặt
Chiều nào gánh phân
Quang trành quết đất
Hạt gạo làng ta
Gửi ra tiền tuyến
Gửi về phương xa
Em vui em hát
Hạt vàng làng ta
Nơi xuất bản: NXB Kim đồng, 1968
NHÀ THƠ TRẦN HUY LIỆU
Tiểu sử:
Tên thật: Trần Huy Liệu
Sinh năm: 1901
Mất năm: 1969
Nơi sinh: Vụ Bản - Nam Định
Bút danh: Hải Khánh, Đẩu Nam, Nam Kiều, Côi Vị, Kiếm Bút
Thể loại: ký, thơ
Các tác phẩm:
Một bầu tâm sự
Ngục trung ký sự
Côn Lôn ký sự (1935).
Suối reo (1941)
Dòng sông Công (1942)
Tập thơ Trần Huy Liệu (1977)
Giải thưởng văn chương:
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000
Giới thiệu một tác phẩm:
Suối reo
NHÀ THƠ TRẦN HỮU THUNG
Tiểu sử:
Tên thật: Trần Hữu Thung
Sinh năm: 1923
Mất năm: 1999
Nơi sinh: Diễn Châu, Nghệ An
Bút danh: Trần Hữu Thung
Thể loại: thơ, ký
Các tác phẩm:
Đồng tháng tám (1965)
Dặn con (1955)
Ngày thu ấy (1957)
Gió Nam (1962)
Hai Tộ hò khoan (1961)
Chị Nguyễn Thị Minh Khai (1961)
Đất quê mình (thơ, 1971)
Tiếng chim đồng (1975)
Anh vẫn hành quân (1983)
Sen quê Bác (1985) Chi tiết
Ký ức đồng chiêm (1988)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Thăm lúa
Mặt trời càng lên tỏ
Bông lúa chín thêm vàng
Sương treo đầu ngọn cỏ
Sương lại càng long lanh
Bay vút tận trời xanh
Chiền chiện cao tiếng hót
Tiếng chim nghe thánh thót
Văng vẳng khắp cánh đồng
Đứng chống cuốc em trông
Em thấy lòng khấp khởi
Bởi vì em nhớ lại
Một buổi sáng mai ri
Anh tình nguyện ra đi
Chiền chiện cùng cao hót
Lúa cũng vừa sậm hột
Em tiễn anh lên đường
Chiếc xắc mây anh mang
Em nách mo cơm nếp
Lúa níu anh trật dép
Anh cúi sửa vội vàng
Vượt cánh đồng tắt ngang
Đến bờ ni anh bảo:
- “Ruộng mình quên cày xáo
Nên lúa chín không đều
Nhớ lấy để mùa sau
Nhà cố làm cho tốt”
Xa xa nghe tiếng hát
Anh thấy rộn trong lòng
Sắp đến chỗ người đông
Anh bảo em ngoái lại
Cam ba lần có trái
Bưởi ba lần ra hoa
Anh bước chân đi ra
Từ ngày đầu phòng ngự
Bước qua kì cầm cự
Anh có gửi thư về
Cầm thư anh mân mê
Bụng em giừ phấp phới
Anh đang mùa thắng lợi
Lúa em cũng chín rồi
Lúa tốt lắm anh ơi
Giải thi đua em giật
Xoè bàn tay bấm đốt
Tình đã bốn năm ròng
Người ta bảo không trông
Ai cũng nhủ đừng mong
Riêng em thì em nhớ
Chuối đầu vườn đã lổ
Cam đầu ngõ đã vàng
Em nhớ ruộng nhớ vườn
Không nhớ anh răng được
Mùa sau kể mùa trước
Em vác cuốc thăm đồng
Lúa sậy hạt nặng bông
Thấy vui vẻ trong lòng
Em trông ngày chiến thắng.
Nơi xuất bản: NXB Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ TRẦN MAI NINH
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Thường Khanh
Sinh năm: 1917
Mất năm: 1947
Nơi sinh: Thanh Hoá
Bút danh: Trần Mai Ninh, Mai Đỗ, Hồng Diên, TK
Thể loại: thơ, truyện ngắn, phê bình văn học
Các tác phẩm:
Thằng Tuất (1939)
Trừ họa (1941) Chi tiết
Ngơ ngác (1941)
Sống đã rồi viết văn (1944)
Thơ văn Trần Mai Ninh (1980)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Nhớ máu
Ơ cái gió Tuy Hoà…
Cái gió chuyên cần
Và phóng túng.
Gió đi ngang, đi dọc,
Gió trẻ lại - lưng chừng
Gió nghỉ,
Gió cười,
Gió reo lên lồng lộng.
Tôi đã thấy lòng tôi dậy
Rồi đây
Còn mấy bước tới Nha Trang
- A, gần lắm!
Ta gần máu,
Ta gần người,
Ta gần quyết liệt.
Ơi hỡi Nha Trang!
Cái đô thành vĩ đại
Biết bao người niệm đọc tên mi.
Và Khánh Hoà vĩ đại!
Mắt ta căng lên
Cả mặt
Cả người,
Cả hồn ta sát tới
Nhìn mi!
Ta có nhớ
Những con người
Đã bước vào bất tử!
Ơ, những người!
Đen như mực, đặc thành keo
Tròn một củ
Hay những người gầy sắt lại
Mặt rẹt một đường gươm
Lạnh gáy,,,
Lòng bàn tay
Khắc ấn chuỗi dao găm.
Chân bọc sắt,
Mắt khoét thủng đêm dày
Túi chứa cả Nha Trang… họ bước
Vương Gia Ngại… Cung Giũ Nguyên
Chút chít Hoàng Bá San… còn nữa!
Cả một đàn chó ghẻ
Sủa lau nhau
Và lần lượt theo nhau
Chết không ngáp!
Dao găm để gáy,
Súng màng tang
Ồng ộc xối đầy đường máu chó.
Chúng nó rú.
Cả trại giặc kinh hoàng:
NHÀ THƠ TRẦN MẠNH HẢO
Tiểu sử:
Tên thật: Trần Mạnh Hảo
Sinh năm: 1949
Nơi sinh: Nghĩa Hưng, Nam Định
Bút danh: Trần Mạnh Hảo
Thể loại:thơ, tiểu thuyết, phê bình văn học
Các tác phẩm:
Trường Sơn của bé (1974)
Tiếng chim gõ cửa (1976)
Hoa vừa đi vừa nở (1981)
Trường ca mặt trời trong lòng đất (1981) Chi tiết
Ba cặp núi và một hòn núi lẻ (1986)
Từ chiếc ô trời của mẹ (1989)
Mình anh trong một thế giới (1991)
Đất nước hình tia chớp (1994)
Chuồn chuồn cắn rốn (1995)
Tứ tuyệt (1995)
Chìa khóa của mỗi người (1998)
Trăng mật (1989)
Ly thân (1989)
Sinh ra để yêu nhau (1988)
Thơ phản thơ (1995)
Phê bình phản phê bình (1996).
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Sông Hồng
Khi vừa rời lòng mẹ
Con đỏ hoe như một cục bùn non
Có phải mẹ vừa nhặt con lên từ đáy sông Hồng
Mà hạt phù sa bật khóc?
Con mới hiểu biển vì sao khát nước
Triệu năm còn ừng ực uống dòng sông
Vì sao Lạc Long Quân lấy sông Hồng làm đuốc
Soi nước Văn Lang từng bước Tiên Rồng
Con mới hiểu vì sao hạt thóc
Lại mang hình con mắt mỏi mòn trông
Mẹ ru hạt phù sa khó nhọc
Ngủ đi mà hoá cánh đồng
Mẹ đi mót lúa, lúa không hạt nào
Sông Hồng lụt cả ca dao
Con cò bị bão giạt vào lời ru
Tuổi thơ nằm cạnh sông Hồng tôi ngủ
Cỏ chân đê làm gió cứ ong ong
Trong mơ tôi thành Chử Đồng Tử
Thức dậy ra bờ sông vùi người trong cát
Không thấy nàng Tiên Dung
Nhưng tôi đã lấy được sông Hồng
Lấy lại tình yêu chàng Trương Chi đánh mất
Lấy được tiếng đàn có nước mắt cha ông
Đêm tôi học sử trong nhà
Nghe sóng sông Hồng như tay lật sách
Như thể Hai Bà Trưng
Nhảy từ đê tuẫn tiết
Đến nay còn chưa rơi xuống lòng sông…
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2001
NHÀ THƠ TRẦN NINH HỒ
Tiểu sử:
Tên thật: Trần Hữu Hỷ
Sinh năm: 1943
Nơi sinh: Việt Yên - Bắc Giang
Bút danh: Trần Ninh Hồ
Thể loại: thơ, truyện ngắn
Các tác phẩm:
Vườn hoa cổng ô (1973)
Ở trận (1976)
Điều không ngờ tới (1984)
Thư cuối năm (1985)
Những vòng vây (1989)
Trăng hai mùa (1976)
Viết cho một người (1990)
Thấp thoáng trăm năm (1996).
Thơ gửi cho thơ (1999)
Giấc mơ vách núi (1999)
Lữ thứ với con người (2004)
Cho người tôi thương nhớ (2004)
Giải thưởng văn chương:
Giải thưởng thơ Hội nhà văn Việt Nam 1996
Giới thiệu một tác phẩm:
Thủng thẳng với mùa xuân
Những đám mây tong tả
Dưới vòm trời lặng im
Một người đi mấy ngả
Một ngả mấy người tìm
Mặt nước loáng cánh chim
Nền trời soi tăm cá
Mặt nước loáng cánh chim
Nền trời soi tăm cá
Theo tận cùng gót lạ
Lại nghe tiếng chân quen
Nhớ cái gì thắc thỏm
Quên cái gì đinh ninh
Chợt ước thành đom đóm
Vừa bay vừa giật mình
Đắng, ngọt đều là mật
Ngọt, đắng cũng là duyên
Thơ hay như … thất luật
Người vui như … ưu phiền !
1996
Nơi xuất bản: NXB Văn hoá Thông tin - 1996
NHÀ THƠ TRẦN TUẤN KHẢI
Tiểu sử:
Tên thật: Trần Tuấn Khải
Sinh năm: ?
Mất năm: 1983
Nơi sinh: Mĩ Lộc - Nam Định
Bút danh: Đông Minh, Đông Á Thị, Á Nam
Thể loại: thơ
Các tác phẩm:
Bút quan hoài (1913)
Hồn tự lập 1 (1914)
Tiễn chân anh Khóa (1915)
Duyên nợ phù sinh I, II (1921- 1923)
Hồn tự lập II (1927)
Với sơn hà I, II (1936 - 1949)
Gương bể dâu, (1924)
Hồn hoa (1925)
Thiên thai lão hiệp (1935)
Mảnh gương đới (1972)
Hậu anh Khóa (1975)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Gánh nước đêm
Em bước chân ra
Con đường xa tít
Con sông mù mịt
Bên vai kĩu kịt
Nặng gánh em trở ra về
Ngoảnh cổ trông sông rộng trời khuya…
Vì chưng nước cạn nặng nề em dám kêu ai!
Nghĩ tiếc công cho bà Nữ Oa đội đá, vá trời
Cho con dã tràng lấp bể biết đời nào xong
Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng
Nước non gánh nặng
Cái đức ông chồng hay hỡi có hay
Em trở vai này….
Nơi xuất bản: NXB Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ TRINH ĐƯỜNG
(1917 - 2001)
Tiểu sử:
Tên thật: Trương Đình
Bút danh: Phú Xuân, La Vân, Duy Mỹ
Nơi sinh: Đại Lộc, Quảng Nam
Thể loại: thơ, truyện ngắn, nghiên cứu lý luận phê bình, kí
Các tác phẩm:
Hoa gạo (1960)
Hạt giống (1966)
Phượng hoàng con (1991)
Hành trình (1995)
Trò chơi phù thế (1997)
Làm cầu La Kham (1957)
Ngày và đêm của một lứa đôi (1988)
Ngày hội thơ (1994)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Chốt trên mây
Trên đây bầu trời nghiêng về Tây
Trên đây quanh năm mây trắng bay
Mới lên rợn ngợp khi nhìn xuống
Tôi say trời cao, tôi say mây.
Ba nghìn thước cao so biển bằng
Tưởng sờ được đỉnh Phan-xi-păng
Chiến sĩ lâng lâng trong khí loãng
Đứng ngang mặt trời ngang mặt trăng.
Không gian là xứ nữ thần mây
Thời gian lâu mau theo mây bay
Ánh ngày như gương mờ trước thuỷ
Bản đồ sương sa lau luôn tay.
Trên đây cây cằn rêu phủ đầy
Căm căm gió thổi rụng bàn tay
Chân mày sương đọng trấn thủ ấm
Mưa đã chợt về hoa tuyết bay.
Ở đây chuyện kể như truyền thuyết
Mười người đi lấy củ hoàng liên
Một người sẩy tay rồi biệt tích
Âm u xương tàn vực không tên.
Vẫn có trên đây tiếng lửa cười
Có gà gáy rạng ánh sao Mai
Nước nấu mau sôi, cơm chín dở
Chiến hào vẫn đào ngang lưng trời
Bồi hồi đọc lại trang sử xưa
Trên đá hồng hoang mây cổ sơ
Thương dáng cha ông đi mở cõi
Nhận từ Công Nguyên mặt kẻ thù.
Ở nơi chỉ có mây đi chơi
Ở nơi không có dấu chân người
Vẫn còn dấu ấn đoàn đo đạc
Nét chữ son in như máu tươi.
Rắn mổ chết người là hổ mang
Vượt biên luồn rừng là quân gian
Kẻ thù mới: sư đoàn dê núi
Quân ta tinh ánh mắt đại bàng.
Nọ Hoàng Liên Sơn, này Tả Phình
Kia hệ sông Đà hình lông chim
Quặng núi như sao lên cực Bắc
Mùa màng theo vàng về Điện Biên.
Các anh ở trời mà giữ đất
Giấu mình trong mây, trong mù sa
Biên giới Tây Nam đất đang cháy
Biên giới phía này ngầm phong ba.
Đây trời, đây đất, đây sông núi,
Tổ quốc giao cho vị trí này
Các anh: mũi kiếm đầu biên giới
Tôi muốn làm mây ở lại đây.
1978
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ TÚ MỠ
Tiểu sử:
Tên thật: Hồ Trọng Hiếu
Sinh năm: 1900
Mất năm: 1976
Nơi sinh: Hà Nội
Bút danh: Bút Chiến Đấu
Thể loại: thơ
Các tác phẩm:
Dòng nước ngược (1943)
Địch vận diễn ca (1949)
Nụ cười kháng chiến (1952)
Tấm Cám (1955)
Nụ cười chính nghĩa (1958)
Đòn bút (1962)
Ông và cháu (1970)
Thơ Tú Mỡ (1971) Chi tiết
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Gây quan
Mỗi năm nhà nước mở khoa thi
để kén trong trugn bắc lưỡng kỳ
lấy mặt sỏi sành ra giúp việc
bổ làm tập sự ngạch quan chi
Mỗi năm các cậu lớp tân khoa
Sung sướng bằng xưa đỗ thám hoa
Tuy chẳng vinh quy, cờ võng lọng
Cũng là lừng lẫy khắp gần xa
Quảng cáo công không, các nhật trình
đăng tên, đăng tuổi, lại đăng hình,
làm như các cậu “quan non” ấy
là những kỳ đồng mới tái sinh
Trong làng trưởng giả những cô nào
sẵn mỏ nhưng chưa có kẻ đào
mấp máy hòng lên bà lớn tắt
mơ màng của dẫn lại tay trao
Cụ thượng Quỳnh ta cũng sướng ran
xoa tay hỉ hả cái gan vàng
mừng cho nước Việt còn cơ khá
vì chẳng bao giờ tiệt giống quan
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Đời nay, 1934
NHÀ THƠ VĂN CAO
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Văn Cao
Sinh năm: 1923
Mất năm: 1995
Bút danh: Văn Cao
Nơi sinh: Hải Phòng
Thể loại: thơ, truyện ngắn
Các tác phẩm:
Cái hầm sông (1948)
Những người trên biển (1956)
Lá (1988).
Tuyển tập Văn Cao (1994)
Dọn nhà (1943)
Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc
Giải thưởng văn chương:
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (đợt 1 - 1996)
Giới thiệu một tác phẩm:
Trường Ca Sông Lô
Sông Lô sông ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u.
Ru ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói Thu
Sông Lô, sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang
Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu nước sông Lô xưa.
Trên dòng sông trở về đoàn người reo mừng vui trên sóng nước biếc trôi đầy sông bao đám xác thù
Dân hân hoan nghe sóng réo vi vu xa xa, đường ngập người vang gió lá vi vu hiền hòa
Sông mênh mông như bát ngát hát: thây giặc trôi trở về ngập bờ, sông ầm vang tiếng súng trái phá, bao rừng thu như bát ngát người
Dân hân hoan chiến sĩ pháo binh Việt Nam ghi công, tiếng trái phá quân thù ngập chìm dòng Lô,
Đây dòng Lô, đây dòng Lô.
Đoàn quân thời chinh chiến ca rằng: đây sóng xanh , đây oai hùng , đây sông Lô, đây sóng căm hờn vút cao.
Sóng lấp lánh ngàn sao đoàn chiến sĩ sông Lô, chiến sĩ sông Lô thân rừng áo sương đã ca rằng:
Giờ mồ thực dân , sóng lấp thét vang , chiến sĩ sông Lô oai hùng đấu tranh gặp nhiều vạn sóng, thây giặc nát tan trong tâm can toàn dân.
Thề trong đêm gió rét từng sân vui bóng người quanh lửa hồng.
Nền khô trơ than xám , đêm chìm đợi ánh chiêu dương.
Vui hát ca hòa vui hát ca hòa dân buông lưới, Phan Lương vui bóng thuyền, lều dựng lên ven sông, bóng người sầm uất bến Then
Vui hát ca hòa vui hát ca hoà chí kie'ân thiết bên sông Lô đắp nhà, bao dân trong khu mười mơ thành người sông Lô.
Đời vui hát lên, đời vui sướng về.
Vui hát ca hòa vui hát ca hòa chí chiến đấu, đây tay trai Việt Bắc,
Sông Lô đang xuôi, mau tin về đồng lúa reo mừng, rung trong bao hương đồng mừng một mùa chiến công.
Vui hát ca hòa vui hát ca dân vui nắng như chim xuân thấy mùa và đài hoa lưu luyến xanh rừng đầy lá búp non.
Vui hát ca hòa vui hát ca hòa những lưới mắc, ta vui khoan cá đầy
Ta tay dân chài xuôi ngược dòng sông Lô, từng quăng lưới xa, từng vây lưới giặc.
Vui hát ca hòa vui hát ca hòa với ánh sáng ta đang xây đời mới,
Sông nuôi dân thiên thu đã hòa mạch máu bao người, sóng xuôi quanh co về, hòa mạch cùng với xuôi.
Dòng sông Lô trôi, dòng sông Lô trôi, mùa xuân tới nước băng qua ngàn, nước in ven bờ xanh ươm bóng tre, dòng sông Lô lướt trôi.
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Văn hoá, 1997
NHÀ THƠ VIỄN PHƯƠNG
Tiểu sử:
Tên thật: Phan Thanh Viễn
Sinh năm: 1928
Nơi sinh: Tân Châu, Anh Giang
Bút danh: Phương Viễn
Thể loại: thơ, truyện ngắn
Các tác phẩm:
Chiến thắng Hòa Bình (1953)
Cửa mở >> Chi tiết
Mắt sáng học trò (1970)
Nhớ lời di chúc (1972)
Như mây mùa xuân (1978)
Phù sa quê mẹ (1991)
Anh hùng mìn gạt (1968, tái bản nhiều lần)
Sắc lục Trữ La (1988)
Quê hương địa đạo
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Viếng lăng Bác
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Dẫu biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Nơi xuất bản: NXB Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ VŨ CAO
Tiểu sử:
Tên thật: Vũ Hữu Chỉnh
Sinh năm: 1922
Bút danh: Vũ Cao
Nơi sinh: Vụ Bản-Nam Định
Thể loại: thơ, truyện ngắn
Các tác phẩm:
Sớm nay (1962)
Đèo trúc (1973)
Núi đôi (1990)
Truyện một người bị bắt (1958)
Những người cùng làng (1959)
Em bé bên bờ sông Lai Vu (1960)
Anh em anh chàng Lược (1965)
Từ một trận địa (1973).
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Núi Đôi
Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng
Xuân Dục Đoài, Đông hai cánh lúa
Bữa thì anh tới, bữa anh sang.
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi là Núi Đôi
Em vẫn đùa anh: Sao khéo thế
Núi chồng núi vợ đứng song đôi.
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau.
Anh vào bộ đội lên đông bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mỗi bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục, Núi Đôi chăng?
Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.
Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông?
Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà, thăm Núi Đôi.
Mới đến đầu ao, tin sét đánh
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thuỷ chung,
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng đưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!
Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng.
Từ núi qua thôn đường nghẽn lối
Xuân Dục Đoài, Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao, nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay.
Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuây dần chuyện xót đau.
Anh nghe có tiếng người qua chợ:
Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu!
Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó, anh còn đây
Ở đây cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này?
Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi: em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.
Anh đi bộ đội, sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
1956
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |