Viếng bạn
Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặthơ cành
Đắp cho người dưới mộ
Đứa nào bắn anh đó
Súng nào nhằm trúng anh
Khôn thiêng xin chỉ mặt
Gọi tên nó ra anh!
Tên nó là đế quốc
Tên nó là thực dân
Nó là thằng thổ phỉ
Hay là đứa Việt gian?
Khóc anh không nước mắt
Mà lòng đau như thắt
Gọi anh chửa thành lời
Mà hàm răng dính chặt
Ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán
Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung
Nơi xuất bản: NXB Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ HOÀNG NHUẬN CẦM
Tiểu sử:
Tên thật: Hoàng Nhuận Cầm
Sinh năm: 1952
Bút danh: Hoàng Nhuận Cầm
Nơi sinh: Từ Liêm - Hà Nội
Thể loại: Thơ, kịch
Các tác phẩm:
Thơ tuổi 20 (1974)
Những câu thơ viết đợi mặt trời (1983)
Xúc xắc mùa thu (1992)
Chiếc lá đầu tiên
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu
Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu
Dẫu hòn bi lăn hết vòng tuổi nhỏ
Trong những ba lo kia ai dám bảo là không có
Một hai ba giọng hát chú ve kim?
Vào mặt trận lúc giọng ve đang kêu
Hay tiếng gọi lên đỉnh cao đánh giặc
Đây mùa hạ lòng tôi sung sướng nhất
Bao điểm chốt anh hùng, tôi nổ súng cùng ai.
Vào mặt trận lúc giọng ve rất dài
Như sông suối, như đoàn quân vô tận
Da diết tiếng ve ngân chẳng tắt
Tiếng ve bay theo chân bước trùng trùng.
Vào mặt trận lúc giọng ve đang rung
Chúng tôi sống tháng năm xao động lắm
Truy kích giặc có rất nhiều đêm trắng
Nhiều đêm trong, tâm hồn cùng thức bên nhau.
Ra mặt trận lúc giọng ve kêu mau
Là khẩu hiệu khẩn trương vào trận cuối
Những báng súng trong tay đều nóng hổi
Những tim người đập theo tiếng ve kêu…
Mùa khô ơi, mùa khô thân yêu
Dẫu hòn bi lăn hết vòng tuổi nhỏ
Nhưng trong những ba lô kia, ai bảo là không có
Một hai ba giọng hát chú ve kim?
10- 1972
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Tiểu sử:
Tên thật: Hoàng Phủ Ngọc Tường
Sinh năm: 1937
Nơi sinh: Triệu Hải - Quảng Trị
Bút danh: Hoàng Phủ Ngọc Tường
Thể loại: thơ
Các tác phẩm:
Những dấu chân qua thành phố (1976)
Bản di chúc cỏ lau (1991)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Về chơi với cỏ
Thưa rằng người đã quên tôi
Tôi về chơi với ngọn đồi cỏ may
Một đường hang một dấu giày
Một người ngồi một tháng ngày bóng nghiêng
Cảm ơn người trái đào tiên
Tôi về lãng đãng nơi miền cỏ gai
Cỏ gai hoa thắm mặt người
Trinh nữ ơi trinh nữ ơi - tôi buồn
Thôi người ở lại soi gương
Tôi đi về phía con đường cỏ lau
Nợ người một khối u sầu
Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi
Mai kia rồi cũng xa người
Tôi về ngủ dưới khung trời cỏ hoa
Có nàng xoã tóc tiên nga
Quỳ hôn cát bụi khóc oà như mưa.
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ HOÀNG TRUNG THÔNG
Tiểu sử:
Tên thật: Hoàng Trung Thông
Sinh năm: 1925
Mất năm: 1993
Nơi sinh: Quỳnh Lưu - Nghệ An
Bút danh: Đặc Công, Bút Châm, Hồng Vân
Thể loại:Thơ, dịch, tiểu luận phê bình, ký
Các tác phẩm:
Quê hương chiến đấu (1955) Chi tiết
Đường chúng ta đi (1960) Chi tiết
Chặng đường mới của văn học chúng ta (1961)
Những cánh buồm (1971) Chi tiết
Đầu sóng (1968) Chi tiết
Trong gió lửa (1971) Chi tiết
Ô kê cuốn gói (1973)
Như đi trong mơ (1977) Chi tiết
Cuộc sống thơ, thơ cuộc sống (1979)
Hương mùa thơ (1984) Chi tiết
Tiếng thơ không dứt (1989) Chi tiết
Mời trăng (1992) Chi tiết
Những ngày thu ở Liên Xô (ký, 1983)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Bài ca vỡ đất
Chúng ta đoàn áo vải
Sống cuộc đời rừng núi bấy nay.
Đồng xanh ta thiếu đất cày.
Nghe rừng lắm đất lên đây với rừng
Tháng ngày ta góp sức chung.
Vun từng luống đất cuốc từng gốc cây.
Đường xa ta tới đây
Trên đồi cây khát nắng
Giữa hai dòng suối vắng
Đoàn ta vui cấy cày.
Bàn tay lao động
Ta gieo sự sống
Trên từng đất khô.
Bàn tay cần cù.
Mặc dù nắng cháy
Khoai trồng thắm rẫy
Lúa cấy xanh rừng.
Hết khoai ta lại gieo vừng.
Không cho đất nghỉ, không ngừng tay ta.
Suối chảy quanh ta
Tiếng suối ngân nga
Hoà theo gió núi
Ta đào mương mở suối
Tuổi ta là những tuổi đấu tranh
Cho dù bạc áo nông binh
Vẫn còn vỡ đất cấy xanh núi đèo.
Chim reo trong lá.
Hòn đá cheo leo.
Chúng ta một lớp người nghèo.
Giữa chiều nắng gió.
Đào cây cuốc cỏ.
Tỉa đỗ trồng khoai.
Ngày còn dài
Còn dai sức trẻ.
Cuốc càng khoẻ.
Càng dễ cày sâu.
Hát lên! ta cuốc cho mau
Nhanh tay ta cuốc ta đào đất lên
Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm.
Ta vui mùa lúa thơm
Ta mừng ngày quả chín
Gửi ra tiền tuyến
Diệt quân thù, gối đất nằm sương.
Máu ai nhuộm thắm sao vàng.
Mồ hôi ta đổ xuống hàng rau tươi.
Rừng xanh xanh cả máu người.
Còn màu lúa tốt còn tươi áo chàm.
1948
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1999
NHÀ THƠ HỒNG NGUYÊN
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Văn Vượng
Sinh năm: 1924
Mất năm: 1951
Nơi sinh: Đồng Sơn - Thanh Hoá
Bút danh: Hồng Nguyên
Thể loại: Thơ, tiểu luận
Các tác phẩm:
Hồn thơ Việt Nam
Đời anh nông dân vô Nam
Những khẩu hiệu trong đêm
Nhớ
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Nhớ
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “Một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Lột sắt đường tàu,
Rèn thêm gao kiếm,
Áo vải chân không,
Đi lùng giặc đánh.
Ba năm rồi gửi lại quê hương.
Mái lều gianh,
Tiếng mõ đêm trường,
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya
Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô,
Tháng năm bạn cùng thôn xóm.
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng.
Kì hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng.
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa.
- Đằng nớ vợ chưa?
- Đằng nớ?
- Tớ còn chờ độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp,
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.
Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động,
Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng.
Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng
Tôi nhớ bờ tre gió lộng
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau
Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau.
Có tiếng gà gáy xóm,
Có “Khai hội, yêu cầu, chất vấn!”
Có mẹ hiền bắt rận cho những đứa con xa.
Trăng lên tập hợp hát om nhà.
Tôi nhớ
Giường kê cánh cửa,
Bếp lửa khoai vùi
Đồng chí nứ vui vui,
Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ,
Đồng chí mô nhớ nữa,
Kể chuyện Bình - Trị - Thiên,
Cho bầy tôi nghe ví,
Bếp lửa rung rung đôi vai đồng chí
- Thưa trong nớ hiện chừ vô cùng gian khổ,
Đồng bào ta phải kháng chiến ra ri.
Đêm đó chúng tôi đi
Nòng súng nghiêng nghiêng,
Đường mòn thấp thoáng…
Trong điếm nhỏ,
Mươi người trai tráng,
Sờ chuôi lựu đạn.
Ngồi thổi nùn rơm
Thức vừa rạng sáng.
Nhìn trời sương nhẩm bước chúng tôi đi
Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni:
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
“Độc lập nhớ rẽ viền chơi ví chắc!”
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ HỮU LOAN
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Hữu Loan
Sinh năm: 1916
Nơi sinh: Nga Sơn - Thanh Hoá
Bút danh: Hữu Loan, Hữu
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Màu tím hoa sim
Đèo cả
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Màu tím hoa sim
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh
Tôi người Vệ quốc quân
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lớ khi mình không về
Thì thương
Người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê…
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
Không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được nhìn nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
Một mình
Đèn khuya
Bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
Ngày xưa…
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát
Trong màu hoa
(Aó anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…)
Nơi xuất bản: NXB Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ HỮU THỈNH
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Hữu Thỉnh
Sinh năm: 1942
Nơi sinh: Duy Phiên - Tam Dương (nay là huyện Tam Đảo- Vĩnh Phúc)
Bút danh: Hữu Thỉnh, Vũ Hữu
Thể loại: Thơ, bút ký, truyện ngắn
Các tác phẩm:
Âm vang chiến hào
Đường tới thành phố
Từ chiến hào đến thành phố
Khi bé Hoa ra đời
Thư mùa Đông Chi tiết
Trường ca Biển Chi tiết
Mùa xuân đưa đón
Chuyến đò đêm giáp ranh
Thương lượng với thời gian Chi tiết
Thưa thầy
Thư mùa đông
Âm vang chiến hào
Đường tới thành phố
Giải thưởng văn chương:
Giải thưởng Bộ Quốc phòng (1994)
Giải thưởng Bộ Đại học, trung học chuyên nghiệp và Trung ương Đoàn (1991)
Giới thiệu một tác phẩm:
Tiếng hát trong rừng
Nhạc làm trong rừng em hát giữa Trường Sơn
Người sốt rét hát cho người sốt rét
Đường ngổn ngang đường đất còn cháy khét
Cây mát cho người người mát cho nhau
Nhạc ở trong đàn đàn có gì đâu
Rừng bỗng chao nghiêng trước sợi dây mỏng mảnh
Người bỗng bồn chồn tốt tươi náo động
Tay vẫy tay mình mà tưởng nắm tay ai
Em hát về rừng em hát về cây
Em hát về người đang nghe em hát
Anh bỗng quên vừa qua cơn sốt
Rừng bỗng quên vừa trận bom đau
Anh vịn vào tiếng hát vượt gian lao
Những năm Trường Sơn bạn bè trong trẻo quá
Tiếng hát đi rồi căn hồm còn đó
Thành chiếc hộp đàn giữa lòng đất âm sâu.
Trường Sơn 1974
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản hội nhà văn 2001
NHÀ THƠ HUY CẬN
Tiểu sử:
Tên thật: Cù Huy Cận
Sinh năm: 1919
Mất năm: 2005
Bút danh: Huy Cận
Nơi sinh: Hương Sơn- Hà Tĩnh
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Lửa thiêng (1940) Chi tiết
Vũ trụ ca (1942)
Thơ tình Chi tiết
Trời mỗi ngày lại sáng (1958)
Đất nở hoa (1960)
Đất nước, quê hương, thiên nhiên Chi tiết
Bài thơ cuộc đời (1963)
Hai bàn tay em (1967)
Những năm sáu mươi (1968)
Cuộc sống tình đời Chi tiết
Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973)
Họp mặt thiếu niên anh hùng (1973)
Tâm tư và suy tưởng Chi tiết
Những người mẹ, những người vợ (1974)
Ngày hằng sống ngày hằng mơ (1975)
Ngôi nhà giữa nắng (1978)
Hạt lại gieo (1984)
Giải thưởng văn chương:
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (đợt 1 - 1996)
Giới thiệu một tác phẩm:
Tràng Giang
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ HUY THÔNG
Tiểu sử:
Tên thật: Phạm Huy Thông
Sinh năm: 1918
Năm mất: 1988
Nơi sinh: Hà Nội
Bút danh: Huy Thông
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Yêu đương (1933)
Anh Nga (1934)
Tiếng địch sông Ô (1935)
Tần Ngọc (1937)
Con voi già
Tần Hồng Châu
Chàng Lưu
Kinh Kha
Huyền Trân công chúa
Tây Thi
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Khúc tiêu thiều
Ngồi dưới liễu du dương ta nhẹ giấc
Cây nhã tiêu dồn dập nhạc mơ hồ.
- Gió ngang mơi hàng cây chưa tỉnh giấc
Bình minh xuân êm ái như lời mơ.
Kìa Tây Thi! Sao mây chưa đượm trắng
Anh tới đây chưa kịp gọi hồn tiêu,
Em đã sớm cong mình trên nước lặng
Cho nước trong ngược vẽ dáng yêu kiều?
Đừng rũ vội… ! Giời im còn tăm tối,
Cầu Nhược Gia chưa kẻ bám tre lần…
Quăng lụa thắm bên ngùôn đừng rũ vội,
Em lên nghe anh gọi tiếng chim thần!
Em hay chăng? Ngày xưa khi vua Thuấn
Chúm môi thiêng say thổi khúc tiêu này,
Phượng sánh hoàng từng không theo nhịp uốn;
Ngàn muôn chim giao cánh chập chờn bay.
Đờn suối bỗng lên cung - và chan chứa
Những câu ca tươi sáng ánh u uyên,
Nụ trúc đào quên thu đua thắm nở;
Gió trên trần dìu dặt ngát hương tiên…
Ngày nay, cạn lời khua trong ống rỗng,
Không bao giờ thấy nữa cảnh huyền xưa.
Suối thờ ơ, mây gió lười cảm động;
Chim xa xôi lạ điệu Tiêu thiều ca.
Tiêu chẳng khiến giời đêm kia thôi tối,
Hơi xuân qua vẫn lạnh … nhưng cần chi?
Vì, mỗi lần rung hơi anh đắm thổi,
Em lắng nghe lời trúc, - Tây Thi!
Nơi xuất bản: NXB Văn học - 2006
NHÀ THƠ HUỲNH VĂN NGHỆ
Tiểu sử:
Tên thật: Huỳnh Văn Nghệ
Sinh năm: 1914
Mất năm: 1977
Nơi sinh: Tân Uyên - Biên Hoà
Bút danh: Huỳnh Văn Nghệ
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Đồng Nai
Nhớ Bắc
Bên bờ sông xanh
Thơ Huỳnh Văn Nghệ
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Nhớ Bắc
Ai về Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Rồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long
Ai nhớ người chăng ? Ôi Nguyễn Hoàng
Mà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu buồn xa xứ
Non nước Rồng Tiên nằng nhớ thương.
Vẫn nghe tiếng hát thời quan họ
Xen nhịp từng câu vọng cổ buồn
Vẫn thương vẫn nhớ mùa vải đỏ
Mỗi lần phảng phất hương sầu riêng.
Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên
Chinh Nam say bước quá xa miền
Kinh đô nhớ lại xa muôn dặm
Muốn trở về quê mơ cảnh tiên
Ai đi về Bắc xin thăm hỏi
Hồn cũ anh hùng đất Cổ Loa
Hoàn Kiếm hồ xưa linh quy hỡi
Bao giờ mang trả liếm dân ta.
1940
Nơi xuất bản: NXB Giáo dục - 2005
NHÀ THƠ KHƯƠNG HỮU DỤNG
Tiểu sử:
Tên thật: Khương Hữu Dụng
Sinh năm: 1907
Bút danh: Khương Hữu Dụng, Thế Nhu, Hy Doãn, Thiên Nhân, TN, HP, HZ
Nơi sinh: Hội An - Quảng Nam
Thể loại: Thơ, dịch
Các tác phẩm:
Những tiến thân yêu (1962)
Quả nhỏ (1972)
Bi bô (1985)
Thơ Khương Hữu Dụng (1993)
Tuyển tập Khương Hữu Dụng (2 tập, 1992) >> Chi tiết
Tuyển tập Đường thi (1996)
Kinh nhật tụng của người chiến sĩ (1946)
Từ đêm Mười chín (1951)
Thần khúc thơ Đường (tập I và II)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
NHÀ THƠ LÂM THỊ MỸ DẠ
Tiểu sử:
Tên thật: Lâm Thị Mỹ Dạ
Sinh năm: 1949
Bút danh: Lâm Thị Mỹ Dạ
Nơi sinh: Lệ Thủy - Quảng Bình
Thể loại: Thơ, truyện ngắn
Các tác phẩm:
Trái tim sinh nở (1974)
Bài thơ không năm tháng (1983)
Danh ca của đất (1984)
Nai con và dòng suối (1987)
Phần thưởng muôn đời (1987)
Hái tuổi em đầy tay (1989)
Thơ Chi tiết
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Khoảng trời - hố bom
NHÀ THƠ LÊ ANH XUÂN
Tiểu sử:
Tên thật: Ca Lê Hiến
Sinh năm: 1940
Mất năm: 1968
Nơi sinh: Châu Thành - Bến Tre
Bút danh: Lê Anh Xuân
Thể loại: Thơ, trường ca
Các tác phẩm:
Tiếng gà gáy (1965)
Có đâu như ở miền Nam (1968)
Nguyễn Văn Trỗi (1968)
Hoa dừa (1971)
Thơ Lê Anh Xuân (1981)
Giữ đất (1966)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Dáng đứng Việt Nam
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy Anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi, nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức tường đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sĩ Giải phóng quân.
Tên Anh đã thành tên đất nước
Ôi anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục - 2005
NHÀ THƠ LỆ BÌNH
Tiểu sử
Tên Thật: Phạm Văn Lệ
Sinh năm: 1948
Nơi Sinh: Thanh Hóa
Thể loại: Thơ
Các tác phẩm:
Thành phố mười mùa hoa (thơ thiếu nhi, 1993)
Đếm sao (thơ thiếu nhi 1995)
Tia nắng, hạt mưa (thơ 1998) Chi tiết
Bàn thắng vàng (thơ thiếu nhi 1995)
Hương sả (thơ 2001)
Ngàn năm sau (thơ, 2005) Chi tiết
Giải thưởng văn chương:
Bài thơ Tia nắng, hạt mưa (nhạc sĩ Khánh Vinh phổ nhạc): đoạt giải nhất cuộc thi sáng tác bài hát cho lứa tuổi Hoa học trò do Báo Thiếu niên Tiền phong, Hoa học trò Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức năm 1992, Được bình chọn là một trong 50 ca khúc thiếu nhi hay nhất thế kỷ 20 chào thế kỷ 21 do Báo Thiếu niên Tiền phong Hội Nhạc sĩ Việt Nam Ban Khoa giáo Đài Truyền hình Việt Nam và Ban Âm nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức bình chọn năm 1999.
Giởi thiệu một tác phẩm
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |