Hai sắc hoa Ti-gôn
Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương.
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương cát,
Tay vít dây hoa trắng cạnh lòng.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
Bảo rằng : "Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi !"
Thuở đó nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp :"Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy".
Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá ! - Tôi buồn lắm,
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...
Từ đấy, thu rồi, thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời,
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chêt, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng "một người".
Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Như hồng tựa trái tim tan vỡ.
Và đỏ như màu máu thắm pha !
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi…
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi !
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi ! Người ấy có buồn không ?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng ?
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1999
NHÀ THƠ TẠ HỮU YÊN
Tiểu sử:
Tên thật: Tạ Hữu Yên
Sinh năm: 1927
Nơi sinh: Hoa Lư - Ninh Bình
Bút danh: Tạ Hữu Yên, Lê Hữu, Xuân Hữu, Đông Xuân, Cử Tạ
Thể loại: thơ, truyện ngắn
Các tác phẩm:
Tiếng ca xanh (1978) Chi tiết
Bàn tay hoa văn (1985)
Bức chân dung (1985)
Nỗi nhớ ngày thường (1987)
Thung lũng lửa và hoa (1988)
Truyện hay nhớ mãi (1988)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Bác về thăm quê
Vẫn mãi tranh xưa lối ngõ vào
Chuồn chuồn dỡn nắng dọc bờ ao
Xa quê từ ấy Người luôn nhớ
Chùm hoa bông bụt đỏ bên rào
Và cánh võng đay thời thơ ấu
Nghe đâu đây lời mẹ ru con
Chấp chới cánh cò chiều bảng lảng
Sao mà đầy tình nghĩa nước non
Bác hai lần có dịp thăm quê
Người ngồi giữa bà con xóm mạc
Nụ cười hiền phơ phơ tóc bạc
Chuyện đời thường đêm ngắn tày gang
Bác đi khắp năm châu bốn biển
Về Kim Liên nói giọng quê nhà
Ăn vài bữa cơm cà dầm ớt
Bồi hồi nhớ lại những ngày qua
NHÀ THƠ TẢN ĐÀ
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Khắc Hiếu
Sinh năm: 1889
Mất năm: 1939
Bút danh: Tản Đà
Nơi sinh: Bất Bạt - Sơn Tây (nay là Ba Vì, Hà Tây)
Thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, văn học dịch
Các tác phẩm:
Khối tình con (ba tập 1917, 1918, 1932)
Tống biệt (Thiên Thai tống biệt)
Còn chơi (1922 – 1924)
Thơ Tản Đà >> Chi tiết
Thơ chơi, thơ ngông >> Chi tiết
Nhàn tưởng
Thơ về mình >> Chi tiết
Giấc mộng con
Giấc mộng lớn
Thề non nước (1922)
Tản Đà văn tập
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Thề non nước
Trông mờ mây phủ núi xa
hay hồn viễn vọng sông Đà, Tản Viên.
Những con đường dốc, đường nghiêng
mở bằng tiếng hát hồn nhiên một thời
những chàng phơi phới hai mươi
nước non xuôi ngược có vơi hẹn thề?
Những nàng bỡ ngỡ xa quê
nước trôi đi mãi nhớ về non chăng?
Hỏi nơi thác bạc điện giăng
có khô dòng lệ tháng năm mỏi mòn?
Nước còn trăn trở nguồn cơn
đời còn nông nổi bãi cồn cạn vơi
câu thơ khắc khoải nổi trôi
đầu nguồn nức nở, lạnh nơi cuối dòng...
(1890-1939)
NHÀ THƠ TẾ HANH
Tiểu sử:
Tên thật: Trần Tế Hanh
Sinh năm: 1921
Bút danh: Tế Hanh
Nơi sinh: Quảng Ngãi.
Thể loại: thơ, nghiên cứu lý luận phê bình, văn học dịch
Các tác phẩm:
Hoa niên (1944)
Gửi miền Bắc (1958)
Tiếng sóng (1960)
Hai nửa yêu thương (1963)
Khúc ca mới (1966) Chi tiết
Giữa những ngày xuân (1977)
Con đường và dòng sông (1980)
Em chờ anh (1983)
Giải thưởng văn chương:
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1: 1996)
Giới thiệu một tác phẩm:
Nhớ con sông Quê hương
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống lòng sông lấp loáng
Chẳng biết nước có giữ ngày giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỉ niệm của dòng trôi
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi
Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ
Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bẩy
Bầy chim non bơi lội trên sông
Tôi giơ tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ
Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió bể
Vẫn trở về lưu luyến bên sông
Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tôi nhớ cả những người không quen biết
Lai láng chảy lòng tôi như suối tưới
Quê hương ơi ! Lòng tôi cũng như sông
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mong ước
Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tình thương
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Hội nhà văn 1999
NHÀ THƠ THÂM TÂM
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Tuấn Trình
Sinh năm: 1917
Mất năm: 1950
Nơi sinh: Hải Dương
Bút danh: Thâm Tâm
Thể loại: thơ, kịch
Các tác phẩm:
Tống biệt hành (in trong Thi nhân Việt Nam, 1942)
Ngẫm nghĩ cố sự
Chào Hương Sơn
Ly biệt
Vạn lý Trường Thành (in trước Cách mạng Tháng 8-1945)
Chiều mưa đường số 5 (1949)
Thơ Thâm Tâm (1988).
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Tống biệt hành
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng trong lòng?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,
Một giã gia đình, một dửng dưng…
- Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,
Chí lớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị, hai chị, cùng như sen,
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
Ta biết người buồn sáng hôm nay
Trời chưa mùa thu tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc,
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say…
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ THANH HẢI
Tiểu sử:
Tên thật: Phạm Bá Ngoãn
Sinh năm: 1930
Mất năm: 1980
Nơi sinh: Thừa Thiên - Huế
Bút danh: Thanh Hải
Thể loại: thơ
Các tác phẩm:
Những đồng chí trung kiên (1962)
Huế mùa xuân (tập 1-1970, tập 2-1975)
Dấu võng Trường Sơn (1977) Chi tiết
Mưa xuân đất này (1982)
Thanh Hải thơ tuyển (1982)
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Mùa xuân nho nhỏ
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa biếc tím
Ơi, con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy bên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao….
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập trong hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
Mùa xuân - ta xin hát
Câu nam ai, nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
11-1980
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ THANH THẢO
Tiểu sử:
Tên thật: Hồ Thành Công
Sinh năm: 1946
Nơi sinh: Mộ Đức - Quảng Ngãi.
Bút danh: Thanh Thảo
Thể loại: thơ
Các tác phẩm:
Những người đi tới biển (1977) Chi tiết
Dấu chân qua trảng cỏ (1980)
Khối vuông Rubic (1985)
Từ một đến một trăm (1988)
Những ngọn sóng mặt trời (1994).
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Dấu chân qua trảng cỏ
Buổi chiều qua trảng cỏ voi
Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh
Gió nghiêng ngả giữa màu xanh
Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mang
Lối mòn như sợi chỉ giăng
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
Dấu chân ai đọc nên vần
Nên nào ai biết đi gần đi xa.
Cuộc đời trải mút mắt ta
Lối mòn nhỏ cũng dẫn ra chiến trường
Những người sốt rét đang cơn
Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhoè?...
Chiếc bòng con đựng những gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Mang bao khát vọng con người
Dấu chân nho nhỏ không lời không tên
Thời gian như cỏ vượt lên
Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua
Ai đi gần ai đi xa
Những gì gợi lại chỉ là dấu chân.
Vùi trong trảng cỏ thời gian
Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta
Vẫn đằm hơi ấm thiết tha
Cho người sau biết đường ra chiến trường…
Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ THANH TỊNH
Tiểu sử:
Tên thật: Trần Văn Ninh, sau đổi Trần Thanh Tịnh
Sinh năm: 1917
Mất năm: 1988
Nơi sinh: Huế
Bút danh: Thanh Tịnh
Thể loại: thơ, truyện ngắn
Các tác phẩm:
Ngậm ngải tìm trầm (1943)
Quê mẹ (1941)
Chị và em (1942)
Xuân và Sinh (1944)
Hận chiến trường (1937)
Sức mồ hôi (1954)
Thơ ca (1973)
Đi giữa mùa sen (1980)
Thanh Tịnh, đời và văn (1996).
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Tơ trời với tơ lòng
Còn nhớ năm xưa độ tháng này
Cánh đồng xào xạc gió đùa cây,
Vô tình thiếu nữ cùng ta ngắm
Một đoạn tơ trời lững thững bay
Tơ trời theo gió vướng mình ta,
Mối khác bên nàng nhẹ bỏ qua
Nghiêng nón nàng cười đôi má thắm
Ta nhìn vơ vẩn áng mây xa
Tìm dấu hôm xưa giữa cánh đồng
Bên mình chỉ nhận lúa đầy bông
Tơ trời lơ lửng vươn mình uốn
Bến nối duyên mình với… cõi không
Nơi xuất bản: NXB Hội nhà văn, 1998
NHÀ THƠ THẾ LỮ
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Đình Lễ, sau đổi thành Nguyễn Thứ Lễ
Sinh năm: 1907
Mất năm: 1989
Nơi sinh: Hà Nội
Bút danh: Lê Ta, Thế Lữ
Thể loại: thơ, truyện ngắn, kịch, văn học dịch
Các tác phẩm:
Mấy vần thơ (1935) Chi tiết
Vàng và máu (1934) >> Chi tiết
Nhà vật của thời đại >> Chi tiết
Bên đường thiên lôi (1936)
Lê Phong phóng viên (1937)
Mai Hương và Lê Phong (1937) >> Chi tiết
Đòn hẹn (1939) >> Chi tiết
Gói thuốc lá (1940) >> Chi tiết
Gió trăng ngàn (1941)
Trại Bồ Tùng Linh (1941)
Thế giới muôn màu >> Chi tiết
Thoa (1942)
Chuyện tình của anh Mai (1953)
Tay đại bợm (1953).
Tập truyện ngắn >> Chi tiết
Giải thưởng văn chương:
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật, 2000
Giới thiệu một tác phẩm:
Nhớ rừng
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi
Ta biết ta chúa tể của muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
Hoa chăm, cỏ xén, lối thẳng, cây trồng
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
- Hỡi cảnh núi rừng ghê gớm của ta ơi!!!
NHÀ THƠ THU BỒN
Tiểu sử:
Tên thật: Hà Đức Trọng
Sinh năm: 1935
Mất năm: 2003
Bút danh: Thu Bồn
Nơi sinh: Điện Bàn - Quảng Nam.
Thể loại: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn
Các tác phẩm:
Trường ca Thu Bồn Chi tiết
Tre xanh (1965)
Mặt đất không quên (1970)
Quê hương mặt trời vàng (1975)
Badan khát (1976)
Người vắt sữa bầu trời (1985)
Một trăm bài thơ tình nhờ em đặt tên (1992)
Chớp trắng (1970)
Những đám mây màu cánh vạc (1975)
Hòn đảo chân ren (1972)
Dòng sông tuổi thơ (1973)
Đỉnh núi (1980)
Mắt bồ câu và rừng phi tiễn (1986)
Giải thưởng văn chương:
Giải thưởng văn học quốc tế Lotus (Hội nhà văn Á Phi) cho trường ca Bài ca chim Chơ rao
Giới thiệu một tác phẩm:
Bài ca chim Chơ Rao
…Sao đâu biết Hùng đêm nay không ngủ
Chứng kiến mối tình trong thương đau
Nỗi tâm sự của người con nước mặn
Cũng dào lên như sóng biển dạt dào.
Hùng có mái nhà tranh nho nhỏ
Và một người yêu vò võ đợi chờ
Hàng dương quanh năm cãi lời ngọn gió
Mái tranh nghèo gió đánh xác xơ.
Cô gái biển vốn nghề chài lưới
Trên bàn tay có nắng mặt trời
Cô gái có tâm hồn sóng biển
Hứa yêu anh yêu mãi trọn đời.
Những gánh cá ngời ngời ánh bạc
Bàn chân thoăn thoắt chạy đi nhanh
Bờ biển lặng em cao tiếng hát
Nước thuỷ triều lên dào dạt ghe mành.
Ngày ra đi anh hẹn em trở lại
Muối biển trọn đời vẫn mặn anh ơi1
Hãy nhớ em nhớ con thuyền gội sóng
Một cánh buồm con mỏng mảnh giữa chân trời.
Anh nhớ nhé xóm nghèo chài lưới
Con cá tươi nấu trả canh bầu
Đất quê ta quân thù còn chiếm
Bưng bát cơm và có biết ngon đâu.
….
Nơi xuất bản: NXB Giáo dục, 2005
NHÀ THƠ TỐ HỮU
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Kim Thành
Sinh năm: 1920
Mất năm: 2002
Nơi sinh: Quảng Điền - Thừa Thiên- Huế
Bút danh: Tố Hữu
Thể loại: thơ, nghiên cứu lý luận phê bình, văn học dịch
Các tác phẩm:
Từ ấy (1946) Chi tiết
Bác Hồ Chi tiết
Việt Bắc (1954) Chi tiết
Gió lộng (1961) Chi tiết
Ra trận (1972) Chi tiết
Máu và hoa (1977) Chi tiết
Một tiếng đờn (1992) Chi tiết
Sống là cho Chi tiết
Đợi anh về (1998)
Theo chân Bác Chi tiết
Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (1973)
Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (1981)
Giải thưởng văn chương:
Giải thưởng văn học Asian 1996
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I (1996)
Giới thiệu một tác phẩm:
Từ ấy
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù
NHÀ THƠ TRẦN DẦN
(1926 - 1997)
Tiểu sử:
Tên thật: Trần Văn Dần
Bút danh: Trần Dần
Nơi sinh: Nam Định
Thể loại: thơ, tiểu thuyết, văn học dịch.
Các tác phẩm:
Người người lớp lớp (1954)
Nhất định thắng (1956)
Cách mạng tháng Tám (1989)
Bài thơ Việt Bắc (1990)
Cổng tỉnh (1994)
Những người chân đất
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Bài thơ Việt Bắc
(Trích)
Chương I
Đây!
Việt Bắc!
Sông Lô nước xanh
tròng trành mảnh nguyệt
Bình Ca sương xuống
lạc con đò!
Đáy dạ thời gian còn đọng
những tên
Như
Nà Phạc
Phủ Thông
Đèo Thùng
Khâu Vác
Tôi nhớ
đồn Róm khi xưa
nơi ta ngã xuống
Trời sao ấp ủ!...
Đây khe suối cạn
nơi bạn ta nằm.
Chắc hẳn
khu A.T.K
beo gầm cỏ rậm
Bản xưa
chim chóc
phục hồi chưa?
Người khách đến!
Thuyền lên bến lạ.
Mải vui sương núi
trăng ghềnh
Tìm đâu
dấu vết ngày xưa?
Đâu
bom đạn tội tình
thuở ấy?
Rừng chẳng nói
lá rơi vàng võ!
Thác
bạc phơ đầu
mài gọt
đá xanh!
Nhưng hãy tin
nhiều đêm
bên bếp lửa,
Lũ trẻ đầu xanh
nghe
chuyện người xưa,
Cũng
mê mải
như ta
nghe cổ tích!...
Ở đây
ta đã long đong
chín mùa xuân sạm lửa,
Đạn
như ruồi
bâu kín
gót chân đi!
Ở đây
lên bắc
lại
về đông
Vò võ
chân trời
khẩu súng
Mỗi đêm
từ biệt
một quê hương!
Ở đây
ta dấy nghiệp
nhọc nhằn
Hai tay trắng
mưu cơ
tần tảo
Mới làm nên
đất nước bây giờ.
Chính
chiếc nôi Việt Bắc
bế bồng ta
Qua
tất cả
tháng năm đầy lửa,
Nuôi ta
nuôi cách mạng
lớn khôn.
Ta bầu bạn
củ khoai môn
nương sắn
Bạn
con chim mất ngủ
rừng già.
Bạn
sông Đà
sông Mã
chở đầy sao
Bạn hang núi
lá vàng rơi
khắc khoải.
Ở đây
muối mặn ta kiêng
thương xót
đời con khát nước
Tương lai
ta thắt bụng
vì mày!
Ta đã nhịn
như
người lính nhịn.
Nhịn mùa xuân
lại đến
nhịn mùa đông
Nhịn điếu thuốc
nhịn từng vuông vải
Nhịn no
nhịn ấm
nhịn tình yêu!
Ở đây
mây sớm
quấn
sương chiều,
Đầu bản
hùm kêu
khản giọng
Đạn bom
chầu chực
bốn bên nhà.
Ta sống
giữa
bản hùng ca nguy hiểm.
Ở đây
manh áo vải
chung nhau.
Giấc ngủ
cùng chung
chiếu đất.
Hành quân
chung
khói bụi đường trường
Con muỗi độc
chung nhau
cơn sốt.
Chiến trường
chung
dầu dãi đạn bom.
Tới khi ngã
lại chung nhau
đất mẹ.
Hãy chia sẻ cho nhau
gió bấc!
Chia
mưa phùn
nước lũ
cơm thiu.
Để đến lúc
mắc trùng vây địch,
Lại chia nhau
những thỏi đạn
cuối cùng.
Ở đây
ta mắc nợ
núi rừng.
Một món nợ
khó bề trang trải.
Việt Bắc
cho ta vay
địa thế!
Vay từ
bó củi
nắm tên.
Vay từ
những hang sâu
núi hiểm.
Cả
trám bùi
măng đắng
đã nuôi ta.
Ta mắc nợ
những rừng sim bát ngát.
Nợ
bản mường heo hút
chiều sương.
Nợ củ khoai môn
nợ chim muông
nương rẫy.
Nợ
tre vầu
bưng bít
rừng sâu.
Nợ con suối
dù trong
dù đục,
Nợ
những người
đã ngã
không tên!
Ôi
thế kỉ muôn quên ngàn nhớ!
Nợ này
đâu dễ trả
mà quên!
Đi!
Tất cả!
Dù quen tay vỗ nợ,
cũng chớ bao giờ
vỗ nợ
nhân dân!
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |