Đánh giá việc thực hiện Chính sách thuốc quốc gia giai đoạn 1996 -2011, Chiến lược phát triển ngành dược Việt Nam giai đoạn 2002 -2011


Công tác dược bệnh viện, mạng lưới thông tin và cảnh giác dược



tải về 1.54 Mb.
trang11/17
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích1.54 Mb.
#3204
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   17

5. Công tác dược bệnh viện, mạng lưới thông tin và cảnh giác dược:

Hiện nay, thông tin thuốc là một nhiệm vụ quan trọng của người dược sĩ. Thông tin thuốc có thể liên quan đến cụ thể một bệnh nhân như việc chăm sóc dược cho bệnh nhân đó, hoặc tham gia trong việc hướng dẫn điều trị, xuất bản thư tin điện tử hoặc cập nhật trang web. Thông tin còn bao gồm cả các thông tin về dạng bào chế, tác dụng dược lý, về phản ứng có hại, về liều lượng cách dùng, về điều chỉnh liều trong trường hợp đặc biệt. Người dược sĩ có thể hỗ trợ về việc lựa chọn và sử dụng thuốc một cách hợp lý (hiệu quả, an toàn, kinh tế), về chính sách thuốc, lựa chọn nguồn thông tin hoặc các vấn đề có liên quan đến thực hành lâm sàng.

Mặt khác, việc thiếu kênh cung cấp thông tin thuốc đáng tin cậy làm cho người sử dụng thuốc thường chỉ dựa trên thông tin thuốc do nhà sản xuất, phân phối cung cấp. Vì lý do thương mại, các thông tin về thuốc do nhà sản xuất, phân phối cung cấp nhiều khi bị thổi phồng hoặc che dấu thông tin bất lợi liên quan đến thuốc dẫn đến sự lạm dụng thuốc một cách không cần thiết. Điều này có thể gián tiếp gây nên một sự lãng phí cho xã hội và ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân.

Về phía cơ quan quản lý nhà nước về dược, trong bối cảnh các mặt hàng thuốc gia tăng không ngừng về số lượng, thông tin liên quan đến thuốc ngày càng nhiều, đa dạng và trái chiều, nếu thiếu những đơn vị cung cấp thông tin thuốc một cách độc lập, khách quan, cơ quan quản lý có thể đưa ra các quyết định thiếu chính xác và phù hợp.

Tại Mỹ, theo thống kê, tai biến do sử dụng thuốc không đúng vì thiếu thông tin là một trong các nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong (106.000 ca/năm), chỉ sau bệnh tim mạch và ung thư, tổn phí mỗi năm lên đến 177 tỉ đôla, trong đó 6 – 10% ca tai biến là do tương tác giữa các thuốc với nhau. Chính vì vậy, thông tin thuốc là một vấn đề luôn được coi trọng hàng đầu nhằm hướng tới sử dụng thuốc một cách an toàn và hợp lý trong chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ con người. Để hạn chế những rủi ro hoặc tác dụng không mong muốn của thuốc thì việc hiểu rõ các thông tin về thuốc khi sử dụng là một yếu tố cực kỳ quan trọng.

* Thuận lợi:

Có thể nói rằng, cho đến nay, hệ thống thông tin thuốc ở Việt Nam mặc dù đã có nhưng chưa hoàn chỉnh; chưa có mạng thông tin về thuốc trong cả nước; một số đơn vị thông tin thuốc được thành lập ở các cơ sở điều trị đã bắt đầu có sự phối hợp chặt chẽ với nhau mặc dù hệ thống cơ sở dữ liệu về thông tin thuốc còn rất hạn chế; thiếu những nguồn thông tin thuốc chính thống, đáng tin cậy và phi thương mại.

Năm 1994, được sự hỗ trợ của Tổ chức tầm nhìn Thế giới (World Vision - Australia) (1992 - 1994) về trang thiết bị, cơ sở dữ liệu, Trung tâm Thông tin thuốc trường Đại học Dược Hà Nội - Trung tâm thông tin thuốc đầu tiên của Việt Nam đã được thành lập. Sau đó, từ 1994 - 1996, Trung tâm Thông tin thuốc Trường Đại học Dược Hà Nội được dự án Hợp tác Y tế Việt Nam - Thuỵ Điển (SIDA) hỗ trợ cơ sở dữ liệu cập nhật, hỗ trợ xuất bản và phân phối tạp chí Thông tin dược lâm sàng miễn cho cán bộ y tế tại các cơ sở điều trị (Sở Y tế, bệnh viện TƯ, tỉnh, huyện, Hội đồng thuốc điều trị các bệnh viện, các viện, trường …). Với sự hỗ trợ của SIDA, cơ sở dữ liệu về thông tin thuốc của Trung tâm thông tin thuốc trường Đại học Dược Hà Nội được bổ sung cập nhật hàng năm, góp phần vào việc cung cấp thông tin thuốc cho cán bộ y tế đạt hiệu quả hơn. Những tài liệu này không chỉ giúp ích cho các cán bộ y tế trong công tác điều trị mà còn là tài liệu hữu hiệu cho cán bộ giảng dạy, sinh viên trong và sau đại học của Trường đại học Dược Hà Nội và các trường y dược khác. Cũng nhờ sự hỗ trợ của SIDA, năm 1996, Trung tâm Thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc phía Nam được thành lập và đặt tại Viện kiểm nghiệm thuốc thành phố Hồ Chí Minh. Các hoạt động của Trung tâm Thông tin thuốc phía bắc (trường ĐH Dược Hà Nội) và phía nam (Viện kiểm nghiệm thuốc thành phố Hồ Chí Minh) trong giai đoạn 1996 - 2006 đều do SIDA tài trợ. Từ năm 2007, nguồn hỗ trợ của SIDA đã kết thúc, hoạt động của các Trung tâm Thông tin thuốc gặp nhiều khó khăn.

Các Trung tâm thông tin thuốc: Trung tâm Thông tin thuốc trường Đại học Dược Hà Nội, Trung tâm Thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc phía Nam vẫn đang tích cực hoạt động mặc dù kinh phí cho hoạt động của các trung tâm này còn hạn chế, chủ yếu phải tìm kiếm các nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, các hoạt động thường xuyên của Trung tâm hiện nay vẫn cần nguồn hỗ trợ ổn định, chính thức của Nhà nước.

Sau khi Chính sách Quốc gia về Thuốc của Việt Nam được ban hành (1996), cùng với Hội động thuốc và điều trị, một số bệnh viện đã thành lập được các đơn vị (hoặc bộ phận) thông tin thuốc để triển khai mạng lưới cung cấp thông tin. Từ năm 1998, theo hướng dẫn của Bộ Y tế, nhiều bệnh viện đã có đơn vị thông tin thuốc. Từ một số bệnh viện tuyến trung ương có đơn vị thông tin thuốc hoạt động tương đối tốt như Bạch Mai, Chợ Rẫy, Đa khoa Đà Nẵng đến các trung tâm của các bệnh viện đại phương. Mặc dù còn mang tính hình thức, hoạt động chưa hiệu quả do thiếu các nguồn tham khảo về thông tin thuốc, cụ thể là thông tin điệu tử (CD ROM, internet…) và tài liệu chuyên ngành, đặc biệt là các bệnh viện tuyến tỉnh, huyện… nhưng bước đầu đã hình thành việc trao đổi, chia sẻ thông tin giữa các khoa phòng lâm sàng trong cùng một bệnh viện hoặc giữa các bệnh viện ở các cấp hay từ bệnh viện với các cơ quan khác như trường, sở y tế, bộ y tế còn.

* Thách thức:

Chính vì việc chưa có một hệ thống thông tin thuốc đầy đủ và hiệu quả cho nên nhu cầu thông tin thuốc mang tính chất khách quan, chính thống của các cơ quan quản lý, các nhà chuyên môn … là rất bức xúc. Hiện tại, có thể nói nguồn cung cấp thông tin thuốc chủ yếu cho các bệnh viện, thầy thuốc để điều trị là từ các công ty sản xuất, phân phối dược phẩm thông qua các Hội thảo giới thiệu thuốc, trình dược viên …Đứng về góc độ khoa học, đây là những nguồn thông tin mang tính thương mại, không khách quan. Việc thiếu thông tin thuốc nên sử dụng thuốc bất hợp lý, không an toàn xảy ra khá phổ biến, chẳng hạn kê hai biệt dược của cùng một hoạt chất (Ví dụ : Paracetamol và Panadol) trong một đơn thuốc, hoặc kê các thuốc tương tác có thể gây hiệu quả nghiêm trọng như phối hợp kháng sinh gentamycin và cephotaxim có thể làm tăng độc tính với thận, những cặp phối hợp này được dùng rất phổ biến ở tuyến tỉnh cũng như tuyến Trung ương.

Chưa có một đề án/kế hoạch xây dựng hệ thống thông tin thuốc của Việt Nam một cách đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Các Trung tâm/đơn vị thông tin thuốc đều được hình thành trên cơ sở tự phát mà không theo một quy hoạch tổng thể.

Ngay cả cơ quan quản lý cũng không có đầy đủ thông tin để đánh giá chất lượng và độ an toàn của thuốc, đặc biệt là các thuốc mới. Sự chia sẻ thông tin về thuốc giữa các cơ quan quản lý (Cục Quản lý dược, Cục Quản lý khám chữa bệnh, Cục HIV/AIDS, Vụ Bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em …), giữa trung ương và địa phương (Bộ Y tế, Sở Y tế), giữa bộ ngành này và bộ ngành khác (Bộ Y tế, Bộ NNPTNT..) còn nhiều bất cập, chưa thực sự hiệu quả. Có thể nói, chúng ta chưa xây dựng và phát triển được mạng lưới thông tin thuốc ở Việt Nam một cách toàn diện, chưa có định hướng lâu dài và bền vững.

Thiếu nguồn kinh phí ổn định,  kinh phí của Nhà nước đầu tư cho hệ thống thông tin thuốc vẫn chưa được quan tâm và đánh giá đúng. Nhận thức của cơ quan quản lý, cơ sở điều trị, bác sĩ, bệnh nhân đối với tầm quan trọng của công tác thông tin thuốc còn chưa thực sự sâu sắc. Hiện nay, vai trò và trách nhiệm của Bộ Y tế đối với việc thông tin thuốc đã được quy định rất rõ trong Luật Dược. Vấn đề là khi nào Bộ Y tế sẽ thực sự chú trọng đến công tác này để triển khai hoạt động có hiệu quả.

Bên cạnh khó khăn về tài chính, các Trung tâm còn gặp khó khăn về vấn đề nhân sự. Từ trước đến nay, Viện Kiểm nghiệm thuốc thành phố Hồ Chí Minh luôn phân bổ một cán bộ của Viện làm kiêm nhiệm tại Trung tâm. Vì kiêm nhiệm, lại không có chuyên môn lâm sàng và kỹ năng tra cứu thông tin thuốc nên cán bộ kiêm nhiệm thường mất nhiều thời gian trong việc giải đáp các vấn đề liên quan đến thuốc cho cán bộ y tế và người dân. Vì không tương thích chuyên môn nên cán bộ của Viện Kiểm nghiệm thành phố Hồ Chí Minh không đủ sự kiên nhẫn để theo đuổi công việc này. Ngoài ra, chế độ đãi ngộ cho cán bộ kiêm nhiệm cũng không khác biệt nhiều với cán bộ khác của viện. Điều đó khiến cho Trung tâm liên tục phải thay đổi nhân sự và làm cho hoạt động của Trung tâm thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc phía Nam trở nên chệch choạc, không ổn định. Thậm chí, có những giai đoạn, trung tâm gần như đóng cửa vì không có cán bộ. Chính vì vậy, Bộ Y tế cần có các biện pháp để can thiệp vào hệ thống thông tin thuốc, chấn chỉnh và sắp xếp lại hệ thống để các trung tâm thông tin thuốc hoạt động thực sự có hiệu quả, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sử dụng thuốc hợp lý, an toàn.

Các trung tâm thông tin thuốc tại các bệnh viện chưa triển khai hoạt động hoặc hoạt động chưa có hiệu quả hoặc do chưa có hoặc chưa đủ biên chế chuyên trách với trình độ chuyên môn sâu phù hợp. Thêm vào đó, việc tập huấn và đào tạo về nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác thông tin thuốc còn chưa được tiến hành đồng bộ và thường xuyên.

Hai trung tâm thông tin thuốc đặt tại trường ĐH Dược Hà Nội và Viện Kiểm nghiệm thuốc thành phố Hồ Chí Minh cho đến nay hoạt động rất cầm chừng, chủ yếu mang tính chất giải ngân các nguồn tài trợ. Hoạt động của các trung tâm này không đáp ứng được nhu cầu thông tin thuốc của cơ quan quản lý, các cơ sở điều trị cũng như của người dân. Các Trung tâm thông tin thuốc hiện có chủ yếu hoạt động phụ thuộc vào các nguồn tài trợ, dự án và chưa có sự phối hợp với nhau. Tại các cơ sở điều trị, đơn vị thông tin thuốc đã được thành lập nhưng hoạt động không hiệu quả hoặc gần như không hoạt động, thiếu sự phối hợp và chỉ đạo của Hội đồng thuốc và điều trị bệnh viện. Giữa các cơ sở y tế chưa có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc trao đổi thông tin và sử dụng thuốc.

Cơ sở vật chất của các trung tâm thông tin thuốc còn nghèo nàn, chưa đáp ứng được việc tìm kiếm, tra cứu, cung cấp thông tin cho cán bộ y tế và cơ quan quản lý. Trang thiết bị không đồng bộ do được mua từ nhiều nguồn tài trợ khác nhau.

Nhận thức của cán bộ y tế về vai trò quan trọng của thông tin thuốc và công tác theo dõi phản ứng có hại của thuốc còn hạn chế. Mặc dù đã có nhiều lớp tập huấn về thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc được tổ chức và công tác này đã được các cán bộ y tế chú ý hơn so với 10 năm trước, nhưng trong thực tế, sự quan tâm đến công tác này còn chưa nhiều.

Các đơn vị sản xuất, kinh doanh dựoc, đặc biệt là các đơn vị trong nước thường chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế trong việc kinh doanh mà chưa chú ý đến việc cung cấp các thông tin về thuốc lưu hành trong giai đoạn hậu mại.

II. Các yếu tố ảnh hưởng đến quy hoạch:

1. Bối cảnh Quốc tế:

1.1. Những nhận định tổng quát về phát triển thế giới trong thời gian qua và các xu hướng phát triển trong thời gian tới

Trong xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, ngày càng có nhiều quốc gia nhận thức được những lợi ích của việc mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới mang lại, do đó, tham gia ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Những năm gần đây, thương mại thế giới, cả thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ, đều phát triển mạnh mẽ về khối lượng cũng như giá trị. Sự phát triển của thương mại, đem lại nhiều lợi ích cho các quốc gia đặc biệt là giữa các nước phát triển và đang phát triển như Việt Nam

Việt Nam đã gia nhập WTO, với việc mở cửa trong thương mại giữa các nước trong khuôn khổ của tổ chức này sẽ giúp chúng ta xác định được tình hình thị trường thế giới, nhận biết những cơ hội và thách thức mà mở cửa mang lại.

Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), trong những năm qua, với chức năng là diễn đàn đàm phán cho các quốc gia thành viên, đã có nhiều cố gắng nhằm rút ngắn khoảng cách giữa các nước giàu và các nước nghèo và WTO cũng đã có những thành công nhất định trong việc rút ngắn khoảng cách trên đặc biệt trong lĩnh vực dược phẩm.



1.2. Những nét lớn trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam

Trên lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam đã và đang tham gia tích cực, năng động, sáng tạo và hiệu quả vào nhiều diễn đàn, cơ chế đa phương cấp khu vực và quốc tế (tháng 7/2008 và tháng 10/2009, Việt Nam đã hai lần hoàn thành trọng trách Chủ tịch trong nhiệm kỳ hai năm 2008 - 2009 làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; Việt Nam cũng đang chuẩn bị kết thúc năm 2010 với việc hoàn thành xuất sắc vai trò Chủ tịch luân phiên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN…). Chính những thành công đó góp phần tạo hình ảnh tốt đẹp về Việt Nam, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Những hợp tác tốt đẹp cấp Nhà nước và Chính phủ sẽ tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển quan hệ làm ăn kinh tế ở cấp vi mô. Trong thời gian tới đây, có lẽ sẽ không khó để dự báo rằng dòng vốn FDI, FII, ODA… sẽ vào Việt Nam sôi động hơn.

Bất chấp một số bất cập kinh tế gần đây (những bất cập thường thấy trong các nền kinh tế của các nước đang phát triển), Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng GDP ở mức cao nhiều năm liên tục; đã hoàn thành trước hạn nhiều mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc; sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã nhanh chóng chuyển từ vị trí nhóm nước nghèo nhất sang nhóm nước có thu nhập trung bình thấp; Việt Nam đã đối phó tốt với khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay; năm 2009, Chính phủ Nhật Bản từng công nhận Việt Nam là nước sử dụng vốn ODA hiệu quả nhất…

Dự báo triển vọng lạc quan của nền kinh tế vĩ mô trong thời gian tới đây đang có sự thay đổi tích cực theo hướng tăng cường hiệu lực và hiệu quả trong điều hành vĩ mô. Sự thay đổi mô hình tăng trưởng như đề cập trong Dự thảo Chiến lược phát triển Kinh tế - Xã hội 2011-2020 trình Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI;

Những dự báo tiến triển theo hướng tích cực như nêu trên sẽ góp phần làm nên những nhân tố nền tảng hỗ trợ cho xu hướng phát triển của kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.

Trong lĩnh vực Dược, sau khi gia nhập WTO thị trường dược đang mở rộng cửa cho các công ty nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực nhập khẩu và hậu cần (logistics). Trước đây, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong lĩnh vực dược vào Việt Nam chủ yếu đầu tư nhà máy sản xuất thuốc thì nay có khoảng 70 - 80% doanh nghiệp FDI này chuyển dần sang lĩnh vực lưu thông phân phối dược phẩm.

Hiện nay, rất nhiều công ty dược phẩm nước ngoài muốn vào thị trường Việt Nam thông qua việc hợp tác với công ty trong nước tham gia vào khâu nhập khẩu và dịch vụ hậu cần trong ngành dược. Tính đến hết năm 2008, có 438 công ty sản xuất và cung ứng thuốc của nước ngoài đăng ký hoạt động tại Việt Nam với hình thức phổ biến nhất là văn phòng đại diện và chủ yếu tham gia vào khâu nhập khẩu thuốc, chiếm tỷ lệ đến 70%. Trong khi đó, chỉ có 1/5 tổng số thuốc đang lưu hành tại Việt Nam được sản xuất bởi các công ty này.

1.3. Những thuận lợi và khó khăn đối với Việt Nam trong đó cụ thể hơn về công nghiệp dược và nhu cầu sử dụng thuốc ở Việt Nam

So với một số nước phát triển trên thế giới, ngành dược Việt Nam được đánh giá khá non trẻ về “tuổi đời” lẫn kinh nghiệm. Tuy nhiên, sau hơn hai mươi năm đổi mới cùng nền kinh tế đất nước, ngành dược đang dần “lột xác”, có những bước tiến nhất định. Hiện tại, ngành công nghiệp dược nước ta đã và đang phát triển vững chắc cả về số lượng và chất lượng.

Ngành dược được coi là một ngành non trẻ nhưng hiện nay đã có những bước tiến nhất định. Việt Nam đã hòa mình vào dòng chảy của WTO, tất cả mặt hàng đều phải chịu sự cạnh tranh gay gắt. Dược phẩm là sản phẩm đặc biệt, do vậy sự cạnh tranh trên thị trường dược phẩm cũng luôn quyết liệt và được sự quan tâm của toàn xã hội.

Ba năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO mang lại những thuận lợi cũng như khó khăn cho ngành dược. Ngành dược đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển. Bên cạnh những thuận lợi về môi trường đầu tư, tiếp cận công nghệ mới, đón nhận một lượng vốn đầu tư lớn, có cơ hội lựa chọn nguồn nguyên liệu đa dạng với chi phí hợp lý,… ngành dược phải đối đầu với không ít khó khăn như: Năng lực cạnh tranh còn yếu, thiếu hiểu biết các quy định về sở hữu trí tuệ; thiếu vốn, kỹ thuật công nghệ; đối mặt với các doanh nghiệp dược phẩm nước ngoài trên một sân chơi bình đẳng khi Chính phủ cam kết giảm thuế suất thuế nhập khẩu; nới lỏng chính sách với các doanh nghiệp nước ngoài.

Sau hơn 20 năm phát triển trong môi trường cạnh tranh, có thể khẳng định thị trường dược Việt Nam đã cơ bản vận hành theo cơ chế thị trường với các đặc thù riêng của một ngành kinh doanh đặc biệt. Điều này cũng có nghĩa là các nguyên tắc và quy luật cạnh tranh đã từng bước phát huy tác dụng và ngày càng đóng vai trò chi phối trên thị trường.

Tuy nhiên, lớn mạnh cùng thời gian, ngành dược Việt Nam đang bước vào thời kỳ cạnh tranh theo các nguyên tắc cơ bản kể từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc “đổi mới”; chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá-tập trung bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường có định hướng Xã hội chủ nghĩa và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.

Theo đánh giá của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), công nghiệp dược Việt Nam ở mức đang phát triển. Việt Nam đã có công nghiệp dược nội địa, nhưng đa số phải nhập khẩu nguyên vật liệu, do đó nhìn nhận một cách khách quan có thể nói rằng công nghiệp dược Việt Nam vẫn ở mức phát triển trung bình-thấp.

Bên cạnh những khó khăn, thách thức về trình độ công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực, môi trường cạnh tranh… công nghiệp dược Việt Nam vẫn có nhiều điều kiện thuận lợi để đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm tiếp theo. Thị trường nội địa còn chưa được khai thác hết, trong khi nhu cầu chi tiêu cho dược phẩm ngày càng tăng. Các doanh nghiệp dược trong nước đang tích cực đẩy mạnh đầu tư cho việc sản xuất sản phẩm thay vì chỉ phân phối sản phẩm dược nhập từ nước ngoài như trước đây.

Phần lớn người dân Việt Nam tập trung ở nông thôn, thường có mức sống thấp, có nhu cầu cao các loại thuốc có giá thành rẻ, đây là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp dược Việt Nam mở rộng thị trường. Hơn nữa, người tiêu dùng Việt ngày càng có mức sống nâng cao, tình trạng sức khỏe ngày càng được quan tâm vì vậy có nhu cầu thuốc cao để đảm bảo sức khỏe. Đây cũng là một trong những điều kiện thuận lợi để phát triển ngành dược Việt Nam.

So với các nước trên thế giới và trong khu vực, 3 thị trường “dược phẩm mới nổi” chiếm 60% thị phần các nước Châu Á/Thái Bình Dương 60.9 tỉ đô la Mỹ trong năm 2008, tốc độ tăng trưởng khoảng 13-14%/năm trong 5 năm, trong đó mức độ tăng trưởng của thị phần trường dược phẩm Việt Nam 24% và đạt 0,8 tỉ đô la Mỹ.



Biểu đồ 11: Doanh số thị trường dược phẩm Châu Á Thái Bình Dương (tỷ đôla Mỹ)

2
. Bối cảnh trong nước:


2.1. Giới thiệu chung về tình hình phát triển nền kinh tế xã hội của Việt Nam:

2.1.1. Thành tựu nổi bật

Sau giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước năm 1975, Việt Nam nỗ lực phát triển kinh tế dựa trên phát triển nông nghiệp. Đến năm 1980, các thành phần kinh tế và doanh nghiệp tư nhân hình thành đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển và thị trường chứng khoán bắt đầu hoạt động tại Việt Nam vào năm 2000. Năm 2007, dựa trên các thế mạnh: sự ổn định chính trị, chi phí nhân công thấp, dân số lớn đã đưa Việt Nam hội nhập nhanh chóng với kinh tế thế giới và trở thành thành viên của WTO, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nền kinh tế Việt Nam dần phát triển.

Các tổ chức quốc tế có những phân loại và xếp hạng khác nhau cho công nghiệp dược: Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO) chia công nghiệp dược theo 5 mức phát triển, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Hội nghị Thương mại và Phát triển Liên Hợp Quốc (UNCTAD) xác định mức độ phát triển công nghiệp dược của các quốc gia theo 4 cấp độ:


  • Cấp độ 1: Nước đó hoàn toàn phải nhập khẩu thuốc.

  • Cấp độ 2: Sản xuất được một số thuốc tên gốc (generic); đa số thuốc phải nhập khẩu.

  • Cấp độ 3: Có công nghiệp dược nội địa; có sản xuất thuốc generic; xuất khẩu được một số dược phẩm.

  • Cấp độ 4: Sản xuất được nguyên liệu và phát minh thuốc mới. Theo đánh giá, hiện nay công nghiệp dược Việt Nam mới ở gần cấp độ 3 theo thang phân loại của WHO. Còn nếu theo thang phân loại 5 mức phát triển của UNIDO thì công nghiệp dược của ta mới chỉ ở mức 3, nghĩa là “công nghiệp dược nội địa sản xuất đa số thành phẩm từ nguyên liệu nhập”. Tuy vậy, cũng phải nhận thấy ngành công nghiệp dược Việt Nam trong 10 năm gần đây đã tăng trưởng nhanh chóng

2.1.2 Hạn chế, khó khăn, thách thức của tình hình phát triển xã hội đến phát triển công nghiệp dược Việt Nam:

Về môi trường: Do thị trường dược phẩm Việt Nam sau khi hội nhập tăng trưởng với tốc độ nhanh nên cơ sở hạ tầng chưa phát triển kịp yêu cầu, một số nguồn lực về điện, nước, văn phòng, đất, các phí khác còn hạn chế. Mặt khác công nghiệp dược Việt Nam phần lớn nguyên liệu phải nhập khẩu, trình độ, kỹ năng của lao động chưa cao nên việc phát triển công nghiệp dược Việt Nam còn khó khăn.

Về công nghệ: Thị trường dược phẩm Việt Nam có tiềm năng lớn, liên tục tăng trưởng trong 10 năm gần đây đáp ứng ngày càng cao nhu cầu thuốc cho dự phòng và chữa bệnh phục vụ nhân dân. Thuốc sản xuất trong nước ngày càng khẳng định chất lượng của mình và hiệu quả trong điều trị. Các hoạt chất thông thường được đăng ký sản xuất quá nhiều trong khi đó các thuốc chuyên khoa, đặc trị gần như chưa có số đăng ký, các dạng bào chế như thấm qua niêm mạc, giải phóng hoạt chất có kiểm soát, thuốc cấy dưới da,… chưa có doanh nghiệp đầu tư. Các thuốc mới cũng chưa được đầu tư nghiên cứu sản xuất do đó thuốc chuyên khoa đặc trị, thuốc có dạng bào chế đặc biệt vẫn phải nhập khẩu nhiều do nhu cầu về thuốc ngày càng tăng nhưng sản xuất trong nước còn trùng lặp.

Phát triển dịch vụ: Thị trường dược phẩm Việt Nam là một thị trường lớn, mặc dù Việt Nam đã từng bước mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển nhưng kinh doanh dịch vụ trong lĩnh vực dược vẫn chưa phát triển đúng tiềm năng. Phát triển lĩnh vực dịch vụ (như dịch vụ kiểm nghiệm thuốc, dịch vụ nghiên cứu sinh khả dụng của thuốc và đánh giá tương đương sinh học của thuốc) sẽ đóng góp vào sư phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng thực tế hiện nay, các cơ sở dịch vụ trong lĩnh vực dược (dịch vụ logistic, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh)...



2.2. Định hướng phát triển kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2010-2020 và dự báo xa cho giai đoạn 2020-2030

2.2.1 Cơ sở dự báo nhu cầu sử dụng thuốc giai đoạn đến năm 2020:

Dự báo phát triển dân số:

Hiện dân số Việt Nam đang đứng thứ 13 trên thế giới với 86 triệu người và là nước có dân số trẻ 60% dưới 30 tuổi,63% trong độ tuổi lao động, 40% ở khu vực thành thị. Theo dự báo, năm 2020, dân số Việt Nam sẽ vượt qua Nhật Bản (nước đang có số dân giảm) và đứng thứ tư châu Á chỉ sau Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia và với tốc độ tăng trưởng dân số trung bình 1.1%/năm thì dân số Việt Nam đạt 100 triệu vào 2025.Tỷ lệ phát triển dân số sẽ có những thay đổi trong vòng 10 năm tới. Trong đó, việc chuyển dịch dân số vào khu thành thị và tăng mạnh lực lượng lao động (những người đưa ra quyết định tiêu thụ) và kiểu hộ gia đình nhỏ sẽ kích thích việc tiêu dùng. Nền kinh tế tiêu thụ sẽ trở thành một yếu tố lớn trong tổng quan kinh tế. Dự báo sự phát triển dân số và sự di dân vào đô thị sẽ đưa nền kinh tế tiêu dùng tại Việt Nam đạt đến những tầm cao mới.



Biểu đồ 12: D
ân số Việt Nam năm 2008 so với các nước trong khu vực


(Nguồn: Cục Báo cáo Hội nghị Đầu tư ngành Dược)
Mô hình bệnh tật

Trước đây, mô hình bệnh tật của Việt Nam chủ yếu là các bệnh nhiễm trùng thì nay mô hình bệnh tật đã hoàn toàn thay đổi: chỉ có 27% là các bệnh do vi trùng gây nên, có đến 62% các bệnh không phải do vi trùng (các bệnh lây nhiễm do siêu vi trùng) như: huyết áp, tâm thần, tim mạch, suy dinh dưỡng, tiểu đường..., còn lại 11% loại bệnh do tai nạn thương tích (trong đó có tai nạn giao thông).

Nguyên nhân của sự thay đổi mô hình bệnh tật này là do sự biến đổi khí hậu, quá trình phát triển công nghiệp hóa, sự ô nhiễm môi trường... Ngoài ra còn có khoảng 30 bệnh truyền nhiễm mới xuất hiện như: Ebola, bò điên, SARS, cúm tuýp A/H5N1, cúm tuýp A/H1N1... đang có xu hướng gia tăng mà nguyên nhân chính là do biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường. Hiện nay, đầu tư cho y tế dự phòng hiện chiếm khoảng 30% tổng đầu tư cho ngành y tế.

Tương tự các nước ASEAN về nhân khẩu học, mô hình bệnh tật và tử vong, thị trường chăm sóc sức khỏe Việt Nam đang có xu hướng “phương tây” hóa. Các nhóm bệnh mắc nhiều nhất tương tự như các nước ASEAN, riêng các bệnh về thần kinh Trung ương có thị phần lớn nhất, cụ thể:



Bảng 33: Xu hướng thị trường chăm sóc sức khỏe tại VN so với các nước trong khu vực:

 

 

Indonesia

Philippines

Vietnam

Thailand

Malaysia

Singapore

Tuổi thọ

 

70

71

71

73

73

82

Cơ cấu tuổi

< 15

28%

36%

26%

21%

32%

15%

15 – 64

66%

60%

68%

70%

63%

76%

> 65

6%

4%

6%

9%

5%

9%

Các bệnh nhiễm khuẩn chính

Do nước/thực phẩm

Tương tự- Tiêu chảy, Gan, Thương hàn

Do lây nhiễm

Tương tự - Dengue, Sốt rét, Viêm não, Chikungunya

HIV

0.1%

0.1%

0.4%

1.5%

0.4%

0.2%

Nguyên nhân gây tử vong chính

Tim mạch

14%

10%

13%

7%

11%

22%

Mạch não

8%

5%

11%

6%

9%

10%

Tiểu đường

3%

3%

2%

5%

4%

4%

Hô hấp

7%

N/A

5%

3%

6%

7%

COPD

5%

2%

8%

4%

5%

3%

Lao

8%

10%

4%

N/A

3%

N/A

Khác

Tiêu chảy, Sơ sinh

Sơ sinh, Cao huyết áp

Tiêu chảy, Sơ sinh

HIV

Cao huyết áp

Gan, ung thư phổi

Bảng 34: Cơ cấu thị phần dược phẩm theo nhóm bệnh

Therapeutic Category

Indonesia

Philippines

Vietnam

Thailand

Malaysia

Singapore

ASEAN

Chuyển hóa, dinh dưỡng

27%

20%

20%

14%

18%

12%

18%

Nhiễm trùng hệ thống

17%

15%

19%

18%

15%

14%

17%

Tim mạch

9%

17%

16%

16%

18%

13%

16%

Hô hấp

11%

11%

9%

7%

9%

7%

9%

Thần kinh TW

10%

8%

12%

8%

8%

7%

8%

Cơ, xương, khớp

4%

4%

3%

8%

6%

6%

6%

Ung thư

2%

3%

3%

7%

5%

16%

5%

Khác

20%

21%

17%

23%

21%

24%

22%

Sự phát triển của các loại hình dịch vụ y tế:

Theo đánh giá của Tổ chức y tế thế giới về mức độ đáp ứng của hệ thống y tế, Việt Nam là 1 trong 33 nước có dưới 1 giường bệnh/1000 người và các bệnh viện công lập đang trong tình trạng quá tải. Mặc dù hệ thống bệnh viện tư nhân tăng trưởng đáng kể, tuy nhiên còn chưa đủ mạnh, mặt khác do lượng bệnh nhân phần lớn tập trung ở khối bệnh viện công lập nên tỷ lệ người dân/giường bệnh vẫn chưa được cải thiện. Việc cung ứng thuốc phục vụ nhu cầu điều trị được các công ty dược chủ yếu tập trung vào thị trường bệnh viện công thông qua đấu thầu.



Bảng 35: Mức độ đáp ứng của hệ thống y tế Việt Nam

Năm

2006

2007

2008

Bệnh viện công lập

878

960

1062

Bệnh viện tư nhân

22

42

77

Giường bệnh/100,000dân

157.7

158.5

168.4

Bác sĩ

52,800

54,800

57,100

Số lượng/100,000 dân

62.6

64.3

66.3

(Nguồn: Cục Khám chữa bệnh - Bộ Y tế)

Hiện nay, chi tiêu chăm sóc sức khỏe vượt quá tăng trưởng kinh tế và tiền tự chi trả là nguồn chi tiêu chủ yếu về y tế. Chi phí y tế đạt khoảng 6% GDP và gia tăng khoảng +11.4%/năm (2000-2004), Bộ Y tế đang dự kiến đề nghị tăng lên 10% vào 2012. Chi phí y tế tư nhân vào năm 2005 là 74%, chi phí bệnh nhân tự chi trả chiếm 86% chi phí y tế tư nhân vào năm 2005.



Thông tin thuốc và sự hiểu biết của công chúng về sử dụng thuốc hợp lý, an toàn:

Việt Nam là nước đông dân số, trình độ dân trí so với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới còn hạn chế, mặc dù công tác dược lâm sàng không phải là mới, tuy nhiên cho đến nay vẫn tập trung ở một số bệnh viện Trung ương và một số bệnh viện lớn ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Khoa dược bệnh viện đã triển khai công tác dược lâm sàng, hướng dẫn sử dụng thuốc an toàn hiệu quả, nhưng nhìn chung chức năng này còn khá mờ nhạt, công việc chủ yếu vẫn là xây dựng Danh mục thuốc sử dụng trong bệnh viện và tham mưu cho Lãnh đạo bệnh viện trong công tác đấu thầu thuốc. Các bệnh viện tuyến tỉnh, đặc biệt là tuyến huyện thì công tác dược lâm sàng chưa đáp ứng được yêu cầu. Tình trạng thiếu dược sĩ đại học và trên đại học ở các địa phương chính là nguyên nhân dược lâm sàng không phát triển được. Tại một số bệnh viện, do còn thiếu tính khoa học nên Khoa Dược lúng túng, tổn hao nhân lực và thời gian cho công tác đầu thầu thuốc mà lãng quên nhiều nhiệm vụ khác.

Công tác dược lâm sàng còn có mối quan hệ sâu sắc đến chương trình giảng dạy về dược lâm sàng tại các Trường Đại học và kế hoạch tổ chức đào tạo, đào tạo lại cho cán bộ y tế sau nhiều năm ra trường. Sự cần thiết phải đạo tạo lại kiến thức dược lâm sàng cho cán bộ y tế mới đáp ứng được yêu cầu thực tế điều trị, nhưng chưa tìm được giải pháp thoả đáng cho vấn đề này, liên quan nhiều đến việc bố trí nguồn kinh phí, thời gian đào tạo. Nơi nào làm tốt công tác dược lâm sàng thì Hội đồng thuốc & điều trị thể hiện tốt hơn vai trò tham mưu cho Giám đốc bệnh viện trong công tác sử dụng thuốc an toàn, hợp lý (thông qua bình bệnh án, …) còn nơi nào làm không tốt công tác dược lâm sàng thì Hội đồng thuốc và điều trị chỉ còn ý nghĩa trên danh nghĩa.

Tỷ lệ tiền thuốc kháng sinh trong tổng số tiền sử dụng thuốc chiếm 32,7%, một phần cho thấy mô hình bệnh tật tại Việt Nam có tỷ lệ các bệnh nhiễm khuẩn cao, mặt khác có thể đánh giá tình trạng lạm dụng kháng sinh vẫn còn khá phổ biến. Tuy nhiên, năm 2008, tỷ lệ sử dụng vitamin giảm 3,1%, corticoid giảm 1,4% và dịch truyền giảm 3,1% so với năm 2007. Muốn đề cao vai trò của Hội đồng thuốc và điều trị, cần phải tăng cường công tác bình bệnh án, phân tích sử dụng thuốc trong các ca lâm sàng nhằm hạn chế tối đa việc lạm dụng kháng sinh, vitamin, sẽ dẫn tới tăng chất lượng điều trị và đảm bảo sử dụng thuốc an toàn, hợp lý.

Ngày 24 tháng 3 năm 2009, Bộ trưởng Bộ Y tế ký Quyết định số: 991/QĐ-BYT về việc thành lập Trung tâm Quốc gia về thông tin và theo dõi tác dụng phụ của thuốc, đặt tại Trường Đại học Dược Hà Nội. Trung tâm này ra đời sẽ khắc phục được những tồn tại về việc theo dõi ADR của thuốc trong những năm qua và thực hiện việc trao đổi thông tin trong khu vực ASEAN(ASEAN PMS). Một đơn vị thông tin thuốc và theo dõi tác dụng có hại của thuốc độc lập, với những chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, được phân bổ kinh phí từ nguồn ngân sách của Nhà nước không còn lệ thuộc vào viện trợ nước ngoài, sẽ là khởi đầu tốt cho lĩnh vực này.

3. Các chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội

Thành tựu đổi mới, kinh tế - xã hội đất nước đã có những bước phát triển vượt bậc, đặc biệt là trong thời kỳ 10 năm trở lại đây. Thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, Việt Nam đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình.

Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001 - 2010 đã được thực hiện; Đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 6,9%/năm. Đến năm 2010 tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người đạt khoảng 1.200 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Thể chế kinh tế thị trường tiếp tục được hoàn thiện.

Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Chính trị - xã hội ổn định, thế và lực của đất nước vững mạnh thêm nhiều, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc. Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho phát triển còn hạn chế. Tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội còn có nhiều bất cập, một số mặt còn nhiều bức xúc. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia.

Những hạn chế, yếu kém trên đây có phần do nguyên nhân khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.



Bảng 36: Triển vọng tăng trưởng kinh tế đến năm 202030

Giai đoạn

2011 - 2015

2016 - 2020

2021 - 2025

Tăng trưởng GDP (% )

7,2 - 7,5

8,0

7,5 - 8,0

Năm

2015

2020

2025

Dân số, triệu người

92 - 93

97 - 98

100 - 102

GDP đầu người (USD)

2.000

3.000 - 3.500

4.500 - 5.000

Nguồn: Tham khảo các nghiên cứu phục vụ xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015.

Theo các nghiên cứu gần đây, Việt Nam sẽ gia nhập các nước có dân số trên 100 triệu người trước năm 2020. Các nghiên cứu đánh giá dự báo phục vụ xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2011-2020 cho thấy nền kinh tế được dự đoán sẽ chỉ hồi phục tăng trưởng trong năm 2010 và phục hồi hoàn toàn vào khoảng những năm 2012 - 2013. Hướng tới mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào những năm 2020, Việt Nam sẽ tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nâng Việt Nam sẽ đạt được mức thu nhập bình quân của các nước đang phát triển (GDP bình quân đầu người khoảng 3.000 - 3.500USD). Dân số đông và thu nhập cao hơn sẽ làm tăng nhu cầu đối với thị trường thuốc Việt Nam.

Để phát triển dịch vụ Chính phủ đã, đang thực hiện loại bỏ những rào cản cơ cấu đối với cạnh tranh thông qua cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và loại bỏ những hạn chế đối với cung, đồng thời tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi để thúc đẩy hoạt động của các nhà cung cấp dịch vụ.

Phân hoá giàu nghèo: tăng liên tục trong nhiều năm giai đoạn 2001-2010 ở mức cao so với nhiều nước, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng bình quân cả thời kỳ ước đạt 7,2%/năm. GDP bình quân đầu người đạt 1.200 USD/2010. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của các vùng có sự chênh lệch lớn, khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng.

Nhu cầu khám chữa bệnh của người dân ngày càng đa dạng, người giàu, người có thu nhập khá muốn được hưởng dịch vụ theo yêu cầu, trong khi người nghèo, người chưa đủ khả năng chi trả chi phí dịch vụ y tế mong muốn nhận được sự hỗ trợ nhiều hơn từ Nhà nước và đòi hỏi có sự công bằng trong tiếp cận dịch vụ kỹ thuật cao.

Trong 10 năm tới, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, sẽ làm thay đổi nhanh chóng mọi mặt của đời sống xã hội và tác động mạnh đối với Ngành Y tế nói chung, lĩnh vực Dược nói riêng.

Năm 2010, Việt Nam ra khỏi nhóm nước đang phát triển có thu nhập thấp, nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng với tốc độ khá cao. Hầu hết các chỉ tiêu về sức khỏe trong các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ đã đạt được. Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng nông thôn mới sẽ thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, phân bố lao động giữa các vùng31. Các dịch vụ xã hội cơ bản được cải thiện; cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc sẽ có bước phát triển tốt, việc tiếp cận thông tin của người dân được cải thiện theo hướng đa chiều và đa hình thức; Trình độ dân trí và đời sống của người dân được nâng cao (thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010. Trong 10 năm tới, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta ngày càng mở rộng, Việt Nam tham gia ngày càng nhiều và đầy đủ các điều ước, cam kết quốc tế. Những điều kiện này tạo thuận lợi cho phát triển Ngành Dược, người dân có nhiều cơ hội được lựa chọn, tham gia và tiếp cận các thông tin, dịch vụ chăm sóc về thuốc đa dạng.

Hội nhập ngày càng sâu rộng trong đời sống kinh tế quốc tế, nhưng khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới vẫn chưa được thu hẹp; Chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm còn cao32. Khoảng cách thu nhập giữa các nhóm dân cư, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng kinh tế, có xu hướng gia tăng33. Đô thị hoá, công nghiệp hóa nhanh và toàn cầu hóa dẫn đến tình trạng di dân sẽ diễn ra với cường độ lớn hơn, các loại hình di dân đa dạng hơn, đặt ra những thách thức về cung cấp dịch vụ y tế nói chung, dịch vụ dược nói riêng.

Môi trường bị ô nhiễm, diễn biến phức tạp của thiên tai, dịch bệnh là những thách thức không nhỏ đối với công tác y tế. Việt Nam được đánh giá là một trong năm nước đang phát triển sẽ chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu toàn cầu, đặc biệt là mực nước biển dâng cao, sẽ ảnh hưởng trước hết đến việc ổn định cuộc sống, ăn ở, đi lại, việc làm và thu nhập, sức khoẻ và sự sống của người dân.

Bối cảnh trên tạo ra những thuận lợi nhất định đồng thời cũng đặt ra nhiều khó khăn và thách thức đối với việc triển khai thực hiện các mục tiêu và giải pháp cung ứng thuốc giai đoạn 2011-2020.



4. Dự báo nhu cầu thuốc

4.1. Dịch vụ y tế

Trong thập kỷ qua, với sự quan tâm chỉ đạo, đầu tư của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực của ngành y tế và sự tham gia tích cực của các ban ngành và toàn xã hội, Việt Nam đã đạt được kết quả đáng kể trong việc cải thiện tình trạng sức khỏe của nhân dân. Hầu hết các mục tiêu đã đề ra trong Chiến lược chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2001-2010 đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch. Tỷ số chết mẹ, chết trẻ em đã giảm đáng kể, khả năng đạt trước Mục tiêu Thiên niên kỷ đề ra vào năm 2015. Tỷ lệ suy dinh dưỡng (thể nhẹ cân) ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm nhanh và bền vững. Các bệnh dịch, lây nguy hiểm đã được khống chế.

Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, sự quan tâm đầu tư của Đảng và Chính phủ cho sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân, tình trạng sức khỏe của người dân Việt Nam đã có những cải thiện rõ rệt, thể hiện ở một số chỉ số sức khỏe cơ bản như tuổi thọ trung bình, tỷ suất chết trẻ em, tỷ suất chết mẹ, suy dinh dưỡng...

Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam trong những năm qua đã tăng lên đáng kể. Tổng điều tra Dân số và nhà ở 1/4/2009 cho thấy tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đã đạt 72,8 tuổi (nam đạt 70,2 tuổi, nữ đạt 75,6 tuổi), vượt chỉ tiêu đề ra trong Chiến lược bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân đến năm 2010 là 72 tuổi. Với kết quả này, Việt Nam có tuổi thọ trung bình cao hơn so với nhiều nước có cùng mức thu nhập GDP trên đầu dân.

Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi cũng giảm nhanh, từ 30‰ năm 2001 xuống còn dưới 16,0‰ năm 2010, đã đạt mục tiêu trong Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006-2010 là giảm tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi xuống còn 16‰ .

Số liệu thống kê của Bộ Y tế cho thấy tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 42‰ năm 2001, xuống 27,5‰ năm 2005 và đến năm 2009 còn 25,0‰, đạt mục tiêu đề ra cho giai đoạn 2001-2010. Theo mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ, đến năm 2015, Việt Nam cần giảm tỷ suất này xuống còn 19,3‰. Nếu tiếp tục giữ được tốc độ giảm tỷ suất này đến năm 2015, Việt Nam sẽ đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG).

Về tỷ số chết mẹ, tỷ số này giảm từ 165/100.000 trẻ đẻ sống (năm­­­­ 2001­­­­­­­ ­­­­2002) xuống còn 80/100 000 trẻ đẻ sống (2005) và theo số liệu của Tổng Điều tra Dân số năm 2009, tỷ số này là 69/100 000 trẻ đẻ sống, đạt so với mục tiêu đề ra trong Chiến lược bảo vệ sức khỏe nhân dân (70/100 000 trẻ đẻ sống). Tuy nhiên, so với Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ là giảm ¾ tử vong mẹ trong giai đoạn từ 1990 đến năm 2015 (tức là giảm xuống còn 58,3/100 000 trẻ đẻ sống) thì Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực hơn nữa để đạt được mục tiêu đề ra.

Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi (cân nặng theo tuổi) là một trong những chỉ tiêu sức khỏe quan trọng. Số liệu điều tra của Viện Dinh dưỡng cho thấy tỷ lệ này giảm bền vững qua các năm, từ 25,2% năm 2005 xuống 21,2% năm 2007, 18,9% năm 2009 và 18% năm 2010. Như vậy theo mục tiêu chiến lược là giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân ở trẻ em Việt Nam là dưới 20% vào năm 2010 thì mục tiêu này đã đạt được trước 2 năm.

Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong cải thiện sức khỏe người dân, song vẫn còn một số khó khăn, thách thức:

Có sự chênh lệch khá lớn về tình trạng sức khỏe giữa các vùng, miền, thể hiện ở một số chỉ số như tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, tỷ số chết mẹ còn cao tại các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số... Đối với tử vong trẻ em dưới 1 tuổi, mặc dù tỷ lệ này giảm ở tất cả các vùng, trong đó có các vùng khó khăn, nhưng tỷ lệ ở Tây Nguyên, Tây Bắc và Đông Bắc vẫn còn cao gấp 1,4-1,5 lần so với mức bình quân của cả nước (Bảng 1). Chênh lệch giữa vùng Tây Bắc và vùng Đông Nam Bộ có xu hướng giảm từ 3 lần năm 2005 (33,9‰ và 10,6‰) xuống còn khoảng 2,5 lần năm 2008 (21‰ và 8‰), nhưng mức chênh lệch này vẫn còn rất lớn .

Mức chênh lệch giữa các vùng miền cũng được thể hiện ở tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi. Mặc dù có sự cải thiện rõ rệt trong giai đoạn 2001-2010 như đã đề cập ở trên, Tây Nguyên, Tây Bắc vẫn là các vùng có tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em cao nhất .

Mặc dù tử vong trẻ em nước ta đã giảm một cách đáng kể nhưng với cơ cấu dân số có tỷ lệ trẻ em cao (trẻ em dưới 5 tuổi chiếm 6,7% dân số, ước tính khoảng 6 000 000 trẻ và số trẻ sơ sinh ra đời hằng năm từ 1 200 000 đến 1 500 000) nên số trẻ tử vong vẫn còn rất cao. Theo đánh giá của UNICEF34, hằng năm vẫn có tới 31 000 trẻ dưới 5 tuổi tử vong, trong đó ước tính khoảng 16 000 là trẻ sơ sinh.

Suy dinh dưỡng trẻ em (thể nhẹ cân) mặc dù được cải thiện rõ rệt, song vẫn còn cao so với nhiều nước trong khu vực. Suy dinh dưỡng thể thấp còi còn khá nghiêm trọng với 31,9% trẻ em bị suy dinh dưỡng thể thấp còi. Suy dinh dưỡng thấp còi đang khá phổ biến tại tất cả các vùng sinh thái trên cả nước35. Về hậu quả, suy dinh dưỡng thấp còi là một dạng suy dinh dưỡng mãn tính, để lại hậu quả lâu dài về thể chất khi trưởng thành, dễ mắc phải các bệnh khi trưởng thành như: thừa cân béo phì, đái tháo đường và một số bệnh khác. Suy dinh dưỡng thấp còi cũng liên quan chặt chẽ đến tử vong của trẻ em. Giảm suy dinh dưỡng thấp còi sẽ trực tiếp cải thiện tầm vóc, thể lực và trí tuệ người Việt Nam.

Về cơ bản, Việt Nam đạt được tiến độ thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ vào năm 2015 về y tế, đặc biệt là MDG 4 và 5 về sức khỏe bà mẹ - trẻ em. Tuy vậy, số lượng bà mẹ và trẻ em tử vong vẫn còn khá lớn, đặc biệt là ở các vùng khó khăn. Một số vấn đề liên quan đến MDG 6 về phòng chống HIV/AIDS và một số bệnh khác cũng cần được quan tâm hơn.

Mặc dù đạt được các thành tựu đáng ghi nhận, nhưng Việt Nam vẫn phải đương đầu với những khó khăn thách thức to lớn trong giai đoạn tới về gánh nặng bệnh tật kép, về tỷ số giới tính khi sinh, về an toàn vệ sinh thực phẩm, về môi trường cũng như về thể lực của người Việt Nam, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ em dưới 5 tuổi vẫn còn ở mức cao, gia tăng thừa cân-béo phì ở trẻ em lứa tuổi học đường cùng với một số bệnh mạn tính không lây liên quan đến dinh dưỡng. Các thách thức trong bối cảnh mới tiếp tục đòi hỏi những nỗ lực cao trong hành động, bảo đảm mọi người dân đều được chăm sóc sức khoẻ chất lượng cao, hướng tới tăng cường sức khỏe cho cộng đồng.

Ngày 19/3/2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 35/2001/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân (CSBVSKND) giai đoạn 2001-2010. Trong gần 10 năm thực hiện Chiến lược, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Hệ thống y tế tiếp tục được củng cố, mở rộng và phát triển; Nhiều bệnh dịch mới, nguy hiểm đã được phát hiện, khống chế và đẩy lùi, không có dịch lớn xẩy ra; Bước đầu ngăn chặn được sự xuống cấp các cơ sở y tế, cải thiện được tình trạng thiếu hụt giường bệnh; Nhiều kỹ thuật, công nghệ mới, hiện đại đã được nghiên cứu, ứng dụng thành công; Một số kỹ thuật chuyên môn cao đã trở thành thường quy, được thực hiện tại nhiều bệnh viện tuyến tỉnh. Chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh ngày càng được nâng cao; Chính sách Bảo hiểm Y tế, khám chữa bệnh cho các đối tượng chính sách xã hội đã được thực hiện tốt hơn. Mức độ thụ hưởng các dịch vụ y tế của người dân tăng lên rõ rệt. Nhân dân ở hầu hết các vùng, miền đã được tiếp cận với các dịch vụ y tế cơ bản; Phần lớn các chỉ tiêu tổng quát về sức khoẻ của người dân Việt Nam cao hơn so với các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người. Việt Nam có thể đạt các Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) trước từ 2 - 5 năm.

Nhìn chung các chỉ số sức khoẻ và dịch vụ y tế đều đạt và vượt mục tiêu chiến lược đề ra, tỷ lệ mắc và tử vong do các bệnh truyền nhiễm gây dịch năm sau đều thấp hơn năm trước.

Hệ thống y tế tại Việt Nam được đánh giá là tốt hơn so với những nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người. Các căn bệnh bại liệt và uốn ván đối với trẻ sơ sinh được loại bỏ năm 2000 và phong cũng bị loại bỏ năm 2005. Tỷ lệ tử vong của trẻ dưới 5 tuổi cũng giảm từ 58 phần nghìn năm 1990 xuống còn 25 phần nghìn vào năm 2009, trong khi tỷ lệ tử vong của trẻ dưới 1 tuổi giảm từ 44,4 phần nghìn xuống 15,8 phần nghìn. Tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam là 74,3 đứng thứ 54, cao hơn nhiều nước có cùng thu nhập bình quan đầu người. Việt Nam nằm trong nhóm những quốc gia có HDI (chỉ số phát triển con người qua các dữ liệu về mức thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ và một số nhân tố khác) ở mức trung bình, 0,725 đứng thứ 116/182 quốc gia, vùng lãnh thổ. Năm 2009 Việt Nam có 13.438 cơ sở chăm sóc sức khỏe với 210.800 giường bệnh. Số lượng bác sỹ trên 10.000 dân là 6,5 bác sỹ và số giường bệnh/1 vạn dân là 27 giường vào năm 2009.

Theo số liệu của Tổ chức Y tế thế giới, trong giai đoạn 2000 - 2009, trung bình Việt Nam có 27 giường bệnh trên 10000 dân. Tỷ lệ này cao hơn đáng kể so với khu vực Đông Nam Á và các nước có mức thu nhập thấp nhưng vẫn thấp hơn tỷ lệ của các nước có thu nhập trung bình khá.



WHO ước tính các nước có ít hơn 23 nhân viên y tế (chỉ tính bác sỹ, y tá và hộ lý) trên 10.000 dân sẽ khó có thể đạt được tỷ lệ chăm sóc sức khỏe cơ bản mà các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) đặt ưu tiên. Từ khía cạnh này, Việt Nam chỉ có 14 nhân viên y tế trên 10.000 dân. Chi tiêu bình quân cho y tế của mỗi người dân tính theo cân bằng sức mua là 151 đô la năm 2006 so với con số này ở các nước có mức thu nhập trung bình kém và trung bình khá lần lượt là 181 và 707 đô la. Bên cạnh đó, tỷ trọng chi tiêu của Chính phủ cho y tế trong tổng chi tiêu là thấp hơn đáng kể so với các nước có thu nhập trung bình kém và trung bình khá (6,4% so với 8,2% và 9,8% vào năm 2006). Một số tồn tại khác của Ngành Y tế là mức độ vươn tới các vùng sâu vùng xa, tới các đối tượng dễ bị tổn thương, có hoàn cảnh khó khăn còn thấp, nguồn nhân lực được đào tạo không đầy đủ và thiếu, quản lý nhà nước cần được tăng cường và chất lượng dịch vụ chưa đạt yêu cầu, đặc biệt do thiếu công nghệ hiện đại và đội ngũ cán bộ có trình độ tay nghề cao.


tải về 1.54 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương