Hướng dẫn khám tầm soát Hướng dẫn tổ chức khám
Khám tầm soát BVMĐTĐ là một phần quan trọng trong quản lý bệnh ĐTĐ toàn cầu. Kể cả khi có nhiều bác sỹ nhãn khoa, việc sử dụng bác sỹ nhãn khoa hoặc chuyên gia đáy mắt để khám tầm soát bệnh nhân ĐTĐ là cách sử dụng nguồn lực không hiệu quả.
Khám tầm soát có thể bao gồm khám mắt toàn diện với TL đã chỉnh kính và các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh hiện đại. Tuy nhiên, ở những nơi có điều kiện nguồn lực hạn chế, các khám nghiệm tối thiểu bảo đảm chất lượng khám bao gồm thử TL và khám đáy mắt để phân loại BVMĐTĐ. Cần thử TL trước khi làm giãn đồng tử. Hình 1 trong phụ lục là ví dụ về quy trình khám tầm soát BVMĐTĐ.
Thử TL cần được cán bộ y tế đã được tập huấn thực hiện theo một trong các cách sau, tuỳ thuộc vào nguồn lực sẵn có:
Thử TL với chỉnh kính ở khoảng cách 3 hoặc 4 mét bằng bảng TL có độ tương phản cao.
Thử TL hiện có bằng bảng TL nhìn gần hoặc nhìn xa và thử kính lỗ nếu có TL giảm.
Thử TL hiện có bằng bảng nhỏ có ít nhất 5 ký tự chuẩn cầm tay với mức TL 6/12 (20/40) và thử kính lỗ nếu có TL giảm.
Việc khám đáy mắt có thể thực hiện như sau:
Soi đáy mắt trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc khám đáy mắt trên đèn khe.
Chụp ảnh đáy mắt (một trong các cách sau: trường rộng đến 30o; 2 chiều hoặc hình nổi; có giãn đồng tử hoặc không giãn đồng tử). Cùng với chụp ảnh, có thể chụp OCT hoặc không. Có thể sử dụng công nghệ trực tuyến (bảng phụ lục 3).
Để khám đáy mắt, có thể sử dụng cán bộ không phải chuyên y nhưng người khám phải được tập huấn tốt để khám đáy mắt và đánh giá mức độ nặng của BVMĐTĐ và chụp hình đáy mắt. Người đọc ảnh chụp đáy mắt cần có kỹ năng cao trong đánh giá mức độ tổn thương.
Những thông tin phù hợp từ kết quả thử TL và khám đáy mắt giúp quyết định sử dụng phác đồ điều trị như trình bày ở bảng 2a và bảng 2b. Phác đồ điều trị có thể điều chỉnh theo từng trường hợp bệnh cụ thể.
Những bệnh nhân chưa được đánh giá đầy đủ cần chuyển đến bác sỹ nhãn khoa trừ phi được xác định chắc chắn là không có BVMĐTĐ hoặc BVMĐTĐ chưa tăng sinh nhẹ (ví dụ: chỉ có vi phình mạch). Ngoài ra, những bệnh nhân với giảm TL không rõ nguyên nhân cũng cần được chuyển đến bác sỹ nhãn khoa.
Như một phần của khám tầm soát, bệnh nhân ĐTĐ cần được hỏi về mức độ kiểm soát ĐTĐ, bao gồm xét nghiệm đường huyết, huyết áp và mỡ máu. Đối với phụ nữ, cần hỏi về tình trạng thai sản. Những vấn đề sức khoẻ (nếu có) này cần được chăm sóc thỏa đáng.
Hướng dẫn chuyển tuyến
Tiêu chuẩn chuyển tuyến tối thiểu bao gồm:
Giảm TL dưới 6/12 (20/40) hoặc bệnh nhân cảm thấy giảm TL.
Nếu BVMĐTĐ được phân loại theo các tiêu chuẩn Phân loại Quốc tế đơn giản (Bảng 1), cần chuyển tuyến phù hợp (Bảng 2a và 2b).
Nếu khi khám sàng lọc không thử TL hoặc khám đáy mắt được thì chuyển khám bác sỹ mắt.
Khám mắt toàn diện cho bệnh nhân ĐTĐ
Lần khám đầu tiên
Phải khám mắt toàn diện, bao gồm thử TL, xác nhận và đánh giá mức độ nặng của BVMĐTĐ và phù hoàng điểm ĐTĐ từng mắt. Cần hỏi bệnh sử, tập trung vào bệnh sử ĐTĐ và các yếu tố ảnh hưởng.
Hỏi bệnh sử (Thiết yếu)
Khoảng thời gian mắc bệnh
Tình hình kiểm soát đường huyết (hemoglobin A1c)
Tình hình sử dụng thuốc (đặc biệt là các thuốc uống điều trị ĐTĐ, huyết áp, mỡ máu)
Bệnh sử toàn thân (ví dụ: bệnh thận, bệnh cao HA, tăng mỡ máu, thai sản)
Tiền sử nhãn khoa
Thăm khám lâm sàng (Thiết yếu)
TL
Nhãn áp (NA)
Soi góc tiền phòng nếu có chỉ định (khi có tân mạch mống mắt, hoặc NA cao)
Khám trên đèn khe
Khám đáy mắt
Các phương pháp khám đáy mắt
Hiện nay có 2 phương pháp phát hiện BVMĐTĐ hiệu quả nhất là chụp ảnh đáy mắt và khám trên đèn khe với đồng tử giãn. Cả 2 phương pháp phụ thuộc kỹ năng đánh giá hình ảnh của cán bộ chuyên khoa mắt đã được đào tạo. Các phương pháp khác được trình bày trong bảng phụ lục 3.
Chụp ảnh đáy mắt có ưu điểm là cung cấp hình ảnh lưu trữ được. Vì vậy, đây là phương pháp được ưu tiên lựa chọn để đánh giá võng mạc. Tuy nhiên, những người khám được tập huấn tốt có thể nhận biết BVMĐTĐ mà không cần chụp ảnh và trong nhiều tình huống thì đây là cách khám tốt nhất.
Mức độ sẵn có về nhân lực và trang thiết bị rất khác nhau ở từng nơi. Tuy nhiên, kể cả ở những nước nghèo nhất vẫn thường có các trung tâm được trang bị để sử dụng các phương pháp thăm khám phức tạp.
Sử dụng dụng cụ khám đòi hỏi phải tập huấn và đạt được các yêu cầu về kiến thức và kỹ năng nhưng kỹ năng soi đáy mắt gián tiếp và khám trên đèn khe cần được ưu tiên so với chụp ảnh đáy mắt. Việc sử dụng máy chụp mới bán tự động, không cần giãn đồng tử có thể là rất dễ dàng. Vẩn đục môi trường trong suốt làm khó soi đáy mắt và giảm chất lượng ảnh chụp đáy mắt nên tất cả ảnh chụp phải được cán bộ đã được tập huấn kiểm tra.
Tái khám bệnh nhân có BVMĐTĐ
Nhìn chung, hỏi bệnh sử và tái khám cần thực hiện như khám lần đầu. Việc đánh giá các triệu chứng, TL, đo NA và khám đáy mắt là thiết yếu.
Tái khám - Hỏi bệnh sử
Các triệu chứng về chức năng thị giác
Tình trạng đường huyết (hemoglobin A1c)
Tình trạng toàn thân (ví dụ: có thai, HA, mỡ máu, bệnh thận)
Tái khám - Thăm khám lâm sàng
TL
NA
Soi góc tiền phòng khi có chỉ định
Khám trên đèn khe
Khám đáy mắt
Các khám nghiệm bổ sung (Cơ sở chăm sóc mắt tuyến cao)
Chụp OCT là cách tốt nhất để xác định vị trí và độ nặng của phù võng mạc. OCT giúp đánh giá định lượng mức độ nặng của PHĐĐTĐ. Quét bản đồ võng mạc hữu ích cho khu trú vùng võng mạc dày lên. Một mặt cắt quét đơn lẻ có ích cho việc chi tiết hóa PHĐĐTĐ như tỏa lan, dạng nang, bong thanh dịch dưới võng mạc và co kéo dịch kính - võng mạc.
Chụp ảnh đáy mắt là công cụ hữu ích để ghi lại diễn tiến bệnh và xác định chi tiết về độ nặng của bệnh.
Chụp mạch huỳnh quang là không cần thiết để chẩn đoán phù hoàng điểm ĐTĐ hoặc BVMĐTĐTS. Cả 2 bệnh lý này được chẩn đoán bằng thăm khám lâm sàng.
Chụp mạch huỳnh quang có thể được sử dụng để đánh giá vùng võng mạc thiếu máu, xác định tân mạch võng mạc và các vi phình mạch hoặc tình trạng thiếu máu hoàng điểm trong PHĐĐTĐ.
Tư vấn, giáo dục sức khoẻ cho bệnh nhân
Trao đổi về kết quả khám và giải thích cho bệnh nhân hiểu.
Khuyến nghị bệnh nhân có bệnh ĐTĐ nhưng chưa bị BVMĐTĐ đi khám mắt có giãn đồng tử hàng năm.
Tư vấn cho bệnh nhân về việc điều trị hiệu quả BVMĐTĐ phụ thuộc vào điều trị kịp thời cả khi TL còn tốt và chưa có triệu chứng tại mắt.
Tư vấn để bệnh nhân hiểu tầm quan trọng của việc duy trì đường huyết và HA gần mức bình thường và kiểm soát mỡ máu.
Trao đổi với các bác sỹ chuyên khoa khác như bác sỹ gia đình, bác sỹ chuyên khoa nội hoặc bác sỹ chuyên khoa nội tiết về những phát hiện ở mắt.
Cung cấp cho những bệnh nhân phẫu thuật thất bại hoặc điều trị không thể có kết quả sự hỗ trợ chuyên môn thoả đáng.
Giới thiệu chuyển đi để được tư vấn, phục hồi chức năng hoặc hưởng các dịch vụ xã hội tương ứng.
Chuyển tuyến bệnh nhân đã điều trị PRP (Panretinal Photocoagulation - PRP) hoặc phẫu thuật để tái khám phù hợp.
Bảng 3a. Lịch theo dõi và xử trí BVMĐTĐ tùy thuộc mức độ nặng ở những cơ sở tuyến cao
Độ nặng của BVMĐTĐ
|
Lịch khám, theo dõi của bác sỹ nhãn khoa
|
Không có BVMĐTĐ rõ ràng
|
Tái khám sau 1-2 năm, không nhất thiết phải do bác sỹ nhãn khoa khám
|
BVMĐTĐKTS nhẹ
|
6-12 tháng, không nhất thiết phải do bác sỹ nhãn khoa khám
|
BVMĐTĐKTS vừa
|
3-6 tháng
|
BVMĐTĐKTS nặng
|
<3 tháng; Cân nhắc PRP sớm
|
BVMĐTĐTS
|
<1 tháng; Cân nhắc PRP
|
BVMĐTĐTS ổn định (đã điều trị)
|
6-12 tháng
|
Độ nặng của PHĐĐTĐ
|
Lịch khám, theo dõi của bác sỹ nhãn khoa
|
PHĐĐTĐ ngoài trung tâm
|
3-6 tháng; Cân nhắc quang đông khu trú
|
PHĐĐTĐ trung tâm
|
1-3 tháng; Cân nhắc quang đông khu trú hoặc điều trị anti- VEGF
|
PHĐĐTĐ ổn định
|
3-6 tháng
| 1>3>
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |