Hình 5. Biểu đồ ảnh hưởng của nguồn cơ chất cảm ứng đến hoạt độ chitinase của chủng NS nghiên cứu Kết quả biểu đồ cho thấy:
Đối với cơ chất cảm ứng là bột vỏ tôm, bột vỏ cua thì hoạt độ chitinase của chủng
nghiên cứu rất thấp. Nguyên nhân là do bột vỏ tôm, bột vỏ cua là nguồn cơ chất rất khó
phân giải, bởi thành phần cấu tạo của chúng ngoài chitin, còn có rất nhiều tạp chất và
khoáng chất khác như CaCO
3
, protein, lipit, chất hữu cơ… nên enzyme chitinase do
Trichoderma BL2 tổng hợp trong MT không thể phân giải hoàn toàn để tạo sản phẩm
cuối cùng là N-acetyl-D glucosamine được.
Đối với cơ chất cảm ứng là bột chitin, hoặc chitin huyền phù thì hoạt độ enzyme
chitinase cao hơn đáng kể. Bởi trong thành phần chitin đã được loại bỏ các tạp chất khó
thủy phân, trong cấu trúc chitin chủ yếu chỉ còn các kiên kết hyhro, không còn ở dạng
phức hợp liên kết với các chất khác như ở bột vỏ tôm, cua thô nữa. Tuy nhiên, khi sử
dụng cơ chất chitin ở dạng huyền phù thì hoạt độ chitinase đạt giá trị cực đại. Điều này
chứng tỏ chitin là một cấu trúc khá bền vững, rất khó tan trong nước, trong dung dịch
acid hay kiềm loãng. Do đó, khi tạo dạng chitin huyền phù bằng acid HCl đậm đặc đã
phá vỡ một phần các liên kết trong mạch chitin. Nhờ đó mà enzyme chitinase dễ dàng
thực hiện các phản ứng phân cắt.
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Ulhoa C. J (1991) [12] khi xác định
chitin huyền phù là nguồn cơ chất thích hợp để Trichoderma sinh tổng hợp chitinase có
hoạt độ cao và cũng thống nhất với kết luận của El-Katatny et al. (2001) khi chọn chitin
huyền phù làm cơ chất để thu chitinase từ chủng T. harzianum. Do đó, chúng tôi chọn
chitin huyền phù làm nguồn cơ chất cảm ứng cho các TN tiếp theo.
3.2.3. Khảo sát ảnh hưởng nồng độ chất cảm ứng Tiến hành nuôi chủng Tri. BL2 trên MT5 thay đổi nồng độ chitin huyền phù từ
0,0; 0,5; 1,0; 1,5; 2,0%. Sau 3 ngày nuôi cấy, tiến hành xác định hoạt độ chitinase. Kết
quả được minh họa ở Hình 6.