ĐẢng cộng sản việt nam lịch sử §¶ng bé Vµ nh¢n d¢n x· T¢n hång 1930 2010


I. ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN NHIỆM VỤ ĐẠI HỘI LẦN THỨ XVII (1996-2000)



tải về 2.06 Mb.
trang11/16
Chuyển đổi dữ liệu11.08.2016
Kích2.06 Mb.
#17403
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   16

I. ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN NHIỆM VỤ ĐẠI HỘI LẦN THỨ XVII (1996-2000).

Năm 1997 là năm đầu tiên huyện Bình Giang mới được tái lập và tiến hành Đại hội Đảng bộ của huyện tái lập. Bước vào thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện Bình Giang lần thứ XXIII và triển khai thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ xã lần thứ XVII đã gặp không ít khó khăn. Song được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Huyện uỷ mới tái lập, cán bộ và nhân dân Tân Hồng đã đoàn kết một lòng, tập trung khắc phục khó khăn, phát huy nguồn lực thực hiện khá tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Giá trị sản xuất tăng bình quân là 8,2%/ năm. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ chuyển dịch theo hướng giảm dần nông nghiệp, tăng dần TTCN và XD, DV.

Tổng sản phẩm xã hội (GDP) đến năm 2000 đạt hàng chục tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người đạt 3,5 triệu đồng/năm. Tổng sản lượng cả màu quy thóc đạt trên 4.000 tấn, riêng năm 2000 đạt 4.431 tấn. Lương thực bình quân đầu người trên 700kg/năm (năm 2000 đạt 786 kg/người/năm). Số hộ giầu và khá tăng nhanh, số hộ nghèo giảm. Đến năm 2000 số hộ giầu trên 35%, hộ khá trên 60%, hộ nghèo còn dưới 3%. Số hộ có nhà xây cơ bản 97,6% trong đó nhà kiên cố cao tầng trên 30%, có 95% số hộ có 3 công trình vệ sinh theo tiêu chuẩn, 99% số hộ có điện thắp sáng, toàn xã có 757 ti vi, 87 xe gắn máy, 18 máy điện thoại, 13 xe công nông, 8 máy tuốt lúa, 29 máy xay xát.

Sản xuất nông nghiệp phát triển đúng hướng toàn diện, vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa chuyển đổi cơ cấu cây trồng tăng sản lượng hàng hoá có giá trị kinh tế cao. Tổng diện tích canh tác bình quân hàng năm là 470 ha, trong đó diện tích lúa hàng hoá trên dưới 40%. Cây vụ đông và rau màu bình quân hàng năm đạt 117 ha bằng 25% diện tích canh tác hệ số quay vòng đất đạt bình quân 2,35 lần/năm. Đặc biệt xã đã tận dụng sự chuyển giao khoa học- kỹ thuật cả trong trồng trọt và chăn nuôi. Do vậy xã thực hiện tự sản xuất và cấp I hoá giống lúa được 80%, năng suất lúa tăng từ 8 tấn/ha năm 1996 lên 9 tấn/ha năm 2000.

Cho đến năm 2000, xã đã chuyển hàng chục ha đất trồng lúa bấp bênh sang lập ao, lập vườn, cùng với cải tạo vườn tạp, san lấp thùng vũng để trồng cây có giá trị kinh tế.

Ngành chăn nuôi trong những năm 1996-2000 có bước phát triển khá, nhiều gia đình đã mở rộng chăn nuôi theo hướng trang trại, tỷ lệ lợn hướng lạc được nâng lên. Năm 2000 đàn lợn toàn xã có trên 2000 con có trên 300 con lợn nái, sản lượng đạt trên 163,6 tấn/năm. Đàn gia cầm bình quân có trên 35.000 con/năm. Đàn trâu bò có 300 (chủ yếu là bò), đàn trâu giảm do chuyển đổi cây trồng và tỷ lệ làm đất bằng máy cầy nhỏ tăng lên. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản có 25ha, thu hẹp dần do nhân dân bơm bùn san lấp ao hồ để lập vườn, do vậy sản lượng cá bình quân đạt 25 tấn/năm. Tổng sản lượng thực phẩm hàng năm đạt trên 240 tấn, bình quân đầu người đạt 42kg/năm.

Việc đầu tư cho sản xuất, lao động; nguồn vốn, quỹ đất đã được khai thác. Trình độ thâm canh tăng vụ ngày càng cao, biết hạch toán kinh tế, lựa chọn cách làm ăn hiệu quả nhất, đã góp phần nâng cao đời sống nhân dân, làm thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn xã nhà.

Sản xuất tiểu thủ công nghiệp trong những năm 1996-2000 có phát triển nhưng chưa mạnh, chưa có ngành nghề truyền thống thu hút lao động và mang lại thu nhập đáng kể. Nghề thủ công chủ yếu là nghề mộc, nề, cơ khí nhỏ, vận tải, sản xuất vật liệu xây dựng với quy mô nhỏ lẻ, do vậy chỉ đạt 7,6% trong tổng thu nhập.

Dịch vụ phát triển đa dạng chủ yếu tập trung ở chợ Mộ Trạch và tụ điểm các thôn, thu hút trên 450 lao động. Có một số hộ kinh doanh được cấp giấy phép, còn lại là kinh doanh nhỏ lẻ tại nhà, số đông vừa sản xuất vừa kinh doanh dịch vụ kết hợp mang tính chất thời vụ. Tỷ trọng của dịch vụ trong cơ cấu kinh tế là dưới 20%.

Tổng số vốn đầu tư cho xây dựng trong 5 năm (1996-2000) là hàng trăm triệu đồng, chủ yếu đầu tư cho các công trình phúc lợi, kết cấu hạ tầng phục vụ cho sự nghiệp y tế, giáo dục, lưới điện hạ thế. Trong 5 năm (1996-2000) xã đã làm mới trạm hạ thế khu Tân Phong, cải tạo và nâng cấp 14 km đường ở các thôn bằng vật liệu cứng, trong đó có 1km đường bê tông trị giá 649 triệu đồng, đặc biệt thôn Trạch Xá đi đầu phong trào bê tông hoá giao thông. Với sự hỗ trợ của trên và sự đóng góp của nhân dân xã đã xây dựng 8 phòng học kiên cố cao tầng trường tiểu học và văn phòng ban giám hiệu nhà trường, trị giá 604.850.000 đồng, nâng cấp trạm y tế trị giá 32 triệu đồng, nâng cấp nghĩa trang liệt sĩ trị giá 29.441.000đ, nâng cấp văn phòng UBND xã 32.589.000đ, nâng cấp văn phòng HTX dịch vụ NN 49.000.000đ. Có thể nói 5 năm 1996-2000 tốc độ xây dựng trong nhân dân và tập thể xã cao nhất từ trước tới nay, tỷ lệ nhà xây kiên cố cao tầng đến năm 2000 đạt trên 45% số hộ trong xã.

Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được nâng lên, hộ có mức khá và giàu ngày một tăng. Các đối tượng gia đình thương binh liệt sỹ và gia đình có công với cách mạng được quan tâm chi trả chế độ, cấp phát đúng, đủ, kịp thời.

Quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN ngày được hoàn thiện, đất đai được quản lý tương đối tốt, hộ nông dân được giao quyền sử dụng đất theo luật, trên 90% số hộ trong xã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất canh tác. Hợp tác xã nông nghiệp được chuyển đổi theo luật đó là HTX dịch vụ nông nghiệp.

Công tác văn hoá xã hội luôn được các cấp uỷ đảng trong xã quan tâm. Đảng bộ đã tổ chức triển khai thực hiên NQ/TW2 khóa VIII về giáo dục và đào tạo. Đảng bộ có chương trình hành động cụ thể, có chính sách khuyến học khuyến tài. Sự nghiệp giáo dục đã có bước phát triển rõ rệt. Chất lượng giáo dục toàn tiện tiếp tục được nâng lên, số học sinh giỏi, giáo viên giỏi đạt giải các cấp ngày một tăng. Sự quan tâm của các cấp, các ngành, gia đình, nhà trường và xã hội có chiều sâu đạt hiệu quả tích cực. Năm 1992, huyện chỉ đạo sát nhập trường mẫu giáo với nhà trẻ đổi tên thành trường Mầm non, số cháu vào mẫu giáo 86%, riêng lớp 5 tuổi đạt 100%, 6 tuổi vào lớp một 100%, tốt nghiệp tiểu học và tuyển sinh lớp 6 bằng 100%, tốt nghiệp phổ thông cơ sở đạt 98%, thi đỗ vào THPT trên 70%. Hàng năm tỷ lệ học sinh giỏi đạt 7%; khá 35%, trung bình 53%. Riêng 2 năm học: 1998-1999, 1999-2000 xã có 7 em đạt học sinh giỏi cấp tỉnh. Số em thi đậu vào các trường đại học và cao đẳng ngày một tăng. Hai trường tiểu học và trung học cơ sở đạt danh hiệu tiên tiến, từ năm 1998 đến năm 2000 liên tục trường THCS được tỉnh tặng bằng khen. Xã hoàn thành phổ cập cấp trung học cơ sở.

Từ năm 1999, nhân dân trong xã có phong trào xây dựng quỹ khuyến học, trao phần thưởng cho 32 em thi đậu vào đại học, cao đẳng, học nghề và học sinh giỏi cấp tỉnh.

Thường xuyên làm tốt việc quan tâm sức khoẻ ban đầu cho nhân dân, bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, thực hiện phương châm phòng bệnh là chính. Trạm Y tế xã đã thường xuyên xuống cơ sở thôn khám bệnh cho toàn dân, tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc tốt sức khoẻ ban đầu cho nhân dân, nhất là chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em. Trạm xá xã được nâng cấp, trang thiết bị khám chữa bệnh tại trạm được tăng cường, có đội ngũ y bác sỹ khám chữa bệnh cho dân kịp thời.

Công tác dân số và gia đình tiếp tục được cấp uỷ Đảng quan tâm, do vậy hoạt động có hiệu quả, ý thức tự giác của các tầng lớp nhân dân được nâng lên, tỷ lệ tăng dân số từ 1,4% năm 1996 xuống 0,9% năm 2000.

Phong trào văn hoá thể dục thể thao được phát triển, các thôn có sân bóng chuyền, xã có sân vận động. Các ngày lễ lớn trong năm được tổ chức tốt, các buổi trình diễn giao lưu văn nghệ, thi đấu bóng chuyền và các trò chơi bổ ích khác phục vụ người xem, đem lại những kết quả thiết thực.

Cả xã có 4/4 thôn đã đăng ký phấn đấu xây dựng làng văn hoá. Các làng đã hoàn thành quy ước làng văn hoá. Trong 4 thôn đã có 3 thôn được công nhân Làng văn hoá: Mộ Trạch, Tuyển Cử và My Cầu. Có trên 60% số gia đình được công nhận "Gia đình văn hoá". Đài truyền thanh xã đã đi vào hoạt động có hiệu quả, tiếp sóng đài huyện, Trung ương; kịp thời đưa tin hàng ngày, tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương xuống cơ sở kịp thời.

Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được duy trì, hoạt động của các tổ hoà giải có hiệu quả thiết thực, có hàng chục vụ được giải quyết từ cơ sở. Các tệ nạn xã hội được ngăn chặn, hạn chế ít xảy ra.

Công tác quân sự địa phương đã tổ chức các đợt huấn luyện dân quân thường trực, dự bị động viên. Triển khai thực hiện dự án nhiệm vụ quốc phòng toàn dân, chống âm mưu diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Tổ chức tốt huấn luyện theo cơ chế phối hợp lực lượng chiến đấu theo phương án A2. Hàng năm thực hiện tốt kế hoạch khám tuyển gọi thanh niên nhập ngũ, bảo đảm chỉ tiêu số lượng và chất lượng huyện giao.(có 61 thanh niên nhập ngũ)

Hiện nay Đảng bộ xã Tân Hồng có số đảng viên tương đối đông và ngày càng trẻ về tuổi đời, sức chiến đấu được tăng cường. Đảng bộ mạnh dạn tiếp thu ý kiến phê bình của quần chúng, quyết tâm sửa chữa những sai lầm khuyết điểm trong việc chỉ đạo các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Đảng bộ và nhân dân trong xã sẽ quyết tâm xây dựng xã Tân Hồng thành một xã mạnh về kinh tế, tốt về an ninh chính trị và an toàn trong các thời kỳ cách mạng tiếp theo.
CHƯƠNG VII

§¶NG Bé L·NH §¹O NH¢N D¢N §ÈY M¹NH VIÖC

THùC HIÖN Sù NGHIÖP C¤NG NGHIÖP HO¸, HIÖN §¹I HO¸ N¤NG NGHIÖP N¤NG TH¤N NH÷NG N¡M §ÇU

THÕ Kû XXI (2000 - 2010)


I. ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ XVIII NHIỆM KỲ(2000 - 2005).

Sau 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân dân Tân Hồng đã đoàn kết một lòng theo Đảng, nỗ lực phấn đấu đổi mới toàn diện và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực phát triển kinh tế-xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm bộ mặt nông thôn thay đổi. Kinh tế phát triển nhanh giá trị tổng sản phẩm và thu nhập bình quân đầu người tăng, trung bình 6-7%/năm. Cơ cấu kinh tế thay đổi chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá thị trường xã hội chủ nghĩa, đã và đang hình thành các khu dân cư mới. Nhiều khu ruộng trũng đã được cải tạo chuyển thành khu ao, vườn cây mang lại hiệu quả kinh tế cao (xã đã chuyển đổi 103 ha đất lúa sang vườn cây). Thu nhập từ kinh tế vườn năm 1999 tăng lên 8,4 lần so với năm 1991. Công tác xây dựng đảng, chính quyền, đoàn thể được tăng cường, hệ thống chính trị địa phương được vững mạnh, một số mặt tiêu cực của địa phương bước đầu được đẩy lùi. Sự đồng thuận của nhân dân trong xã với Đảng được nâng lên. Những biến đổi sâu sắc đang diễn ra khẳng định công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng là đúng đắn, hợp với ý nguyện của nhân dân.

Tuy nhiên, sau 25 năm (1975-2000) đất nước thống nhất, trong quá trình xây dựng và trưởng thành, đảng bộ và nhân dân Tân Hồng vẫn còn nhiều khó khăn thử thách. Mà điểm nổi bật là việc lãnh đạo và chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn còn chậm so với yêu cầu; sản xuất tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ chậm phát triển; xây dựng cơ sở hạ tầng-hệ thống giao thông thuỷ lợi còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất. Năng lực quản lý điều hành sản xuất của đội ngũ cán bộ còn hạn chế, thị trường giá cả nông sản biến động cũng ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân.

Trong bối cảnh tiếp tục sự nghiệp đổi mới của Đảng, thực hiện Chỉ thị số 54 của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng và kế hoạch hướng dẫn số 15 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương về tién hành đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Được sự chỉ đạo của huyện uỷ Bình Giang, Đảng bộ xã đã lãnh đạo các chi bộ nông thôn, chi bộ nhà trường, chi bộ y tế dân quân thường trực tiến hành đại hội nhằm đánh giá, tổng kết thành tích đã đạt được và vạch ra những hạn chế yếu kém nhiệm kỳ trước. Đồng thời quyết định phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu trong nhiệm kỳ mới. Đại hội các chi bộ còn tiến hành thảo luận tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII trình đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; tham gia ý kiến đóng góp vào các dự thảo văn kiện trình đại hội Đảng bộ tỉnh và đảng bộ huyện.

Sau khi hoàn thành đại hội các chi bộ, ban chấp hành Đảng bộ khoá XVII đã quyết định triệu tập đại hội Đảng bộ xã lần thứ XVIII vào tháng 8 năm 2000. Đại hội Đảng bộ họp tại hội trường Uỷ ban nhân dân xã. Dự Đại hội có 142 đại biểu chính thức thay mặt cho 256 đảng viên trong Đảng bộ.

Đại hội bầu ban chấp hành Đảng bộ khoá XVIII gồm 11 đồng chí: Đồng chí Vũ Xuân Đoàn được bầu làm Bí thư đảng uỷ, đ/c Phạm Văn Tin phó Bí thư, đ/c Vũ Xuân Côi thường vụ đảng uỷ.

Đại hội dành nhiều thời gian đóng góp ý kiến vào các văn kiện trình đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, và đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII. Trên cơ sở tập trung đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết đại hội đảng bộ lần thứ XXII, Đại hội đã dành nhiều thời gian thảo luận quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu trong nhiệm kỳ XVIII (2001- 2005). Phương hướng tổng quát là: Tiếp tục khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, chuyển đổi nhanh từ sản xuất nông nghiệp độc canh cây lúa sang đa canh cây trồng và vật nuôi. Tiếp tục coi trọng phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn liền với thực hiện quy chế dân chủ và sự công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Đặc biệt, quan tâm thực hiện đúng chính sách của Đảng và Nhà nước với các đối tượng chính sách, phát triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục, y tế, nâng cao dân trí và sức khỏe cho toàn dân. Giữ vững an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng cao chất lượng hoạt động của cả hệ thống chính trị.

Những mục tiêu chủ yếu: kinh tế tăng trưởng 6,5 - 7%/năm trong đó giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 4-4,5%/năm; TTCN tăng 6-6,5%/năm, trong đó nông nghiệp tăng từ 4,5 - 5%/năm, giá trị dịch vụ tăng 7 - 8%/năm, tiểu thủ công nghiệp-xây dựng tăng từ 13 - 15%/năm. Cơ cấu kinh tế đến năm 2005 là: nông nghiệp 75%, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản là 15%, thương mại dịch vụ 10%. Bình quân thu nhập đầu người đến năm 2005 đạt 3 triệu đến 3,5 triệu đồng; bình quân lương thực đầu người trên 500kg thóc/năm. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp: Lương thực 65%; cây màu vụ đông 15%; chăn nuôi 20%/năm; bình quân thực phẩm đầu người là 40 kg (thịt 30kg, cá 10kg).

Nhằm thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu đại hội đề ra, đại hội đã đề ra một số giải pháp chủ yếu:

1- Phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá, cụ thể.

Phát triển nông nghiệp toàn diện, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, nâng cao chất lượng và tỷ suất hàng hoá; phấn đấu giữ vững diện tích 2 vụ lúa đạt 470 ha, năng suất lúa từ 10tấn/ha đến 11 tấn/ha, tổng sản lượng trên 5.100 tấn thóc. Khuyến khích nông dân đẩy mạnh chăn nuôi theo hướng công nghiệp hoá để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Diện tích cây vụ đông phấn đấu đạt từ 30 - 35% tổng diện tích canh tác. Tổng sản lượng quy thóc đạt 5.546 tấn/năm

Về chăn nuôi phấn đấu đến năm 2005: đàn trâu có 260 con; đàn bò 60 con; đàn lợn 2.200 con, trong đó lợn nái 300 con, đàn gia cầm 40.000 con; nuôi thả cá 40 ha mặt ao, hồ.

Tiếp tục ứng dụng các tiến bộ khoa học- công nghệ vào đồng ruộng, nhất là giống cây trồng, vật nuôi. Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nâng diện tích cấy lúa hàng hoá hàng năm lên 50%/năm; tăng tỷ lệ trà xuân muộn 70 - 80% diện tích, tăng trà mùa sớm 30 - 40% diện tích.

Củng cố và nâng cao năng lực hoạt động của các hợp tác xã dịch vụ, nhất là HTX dịch vụ nông nghiệp. Tổ chức cho nông dân tự sản xuất một phần giống. Tiếp tục tuyên truyền thực hiện chuyển đổi ruộng cho nhau từ ô thửa nhỏ lên ô thửa lớn hướng công nghiệp hoá nông nghiệp.

Tiếp tục phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp, trong đó chú trọng khuyến khích mọi người, mọi nhà phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp như: mộc, nề, sản xuất cơ khí nhỏ, sản xuất vật liệu xây dựng, dụng cụ gia đình, mở mang ngành nghề mới... thu hút 7% dân số vào lĩnh vực sản xuất TTCN và DV.

- Phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ, khuyến khích mọi gia đình làm dịch vụ chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, mở rộng mặt hàng cho nông sản và ưu đãi cho thuê đất mở mang dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi để hàng hoá lưu thông trên thị trường...

2- Huy động các nguồn lực để đầu tư phát triển. Đại hội chủ trương: Động viên sự nỗ lực của nhân dân; tiết kiệm ngân sách để đầu tư cho xây dựng cơ bản. Cụ thể trong nhiệm kỳ 2000-2005 xã đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đường liên thôn, xóm bằng vật liệu cứng trong đó mỗi thôn xây dựng từ 500 đến 1.000m đường bê tông trục chính. Quy hoạch lộ giới tạo điều kiện cho việc mở đường sau này. Xây dựng hệ thống truyền thanh từ trung tâm xã tới cơ sở, đưa điện thoại về khu trung tâm và 3 cơ sở khu Tân Phong. Quy hoạch khu trung tâm xã, nâng cấp hội trường.

- Tranh thủ ngồn vốn hỗ trợ của trên, vốn vay và huy động sự đóng góp của nhân dân để kiên cố hoá kênh mương, phấn đấu 50% số kênh mương được kiên cố hoá.

Về thuỷ lợi: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống tưới tiêu, công trình trạm bơm, kiên cố hoá kênh mương. Xoá nhà tranh tre và hộ nghèo.

Trạm y tế xã có bác sĩ và 100% số thôn có cán bộ y tá, tỷ lệ phát triển dân số xuống dưới 1%. 100% các thôn xây dựng xong quy ước làng văn hóa và xây dựng nhà văn hoá. Xây dựng làng đạt tiêu chuẩn làng văn hóa. Giảm hộ nghèo xuống 4 - 5%, tăng hộ giàu lên 15 - 20%, có 99% số hộ có nhà xây kiên cố, 80% số hộ dùng nước hợp vệ sinh. Số hộ có ti vi từ 60- 70%; 100% thôn có nhà văn hoá.

Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện sinh đẻ có kế hoạch. Tạo việc làm cho lao động dư thừa trong xã.

- Quan tâm, chăm lo đến đời sống của các đối tượng chính sách chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục, nâng cao chất lượng toàn diện của các nhà trường.

- Chủ động chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân, ngăn chặn và hạn chế dịch bệnh phát sinh.

Củng cố nâng cao lực lượng dân quân thường trực, rèn luyện tốt phương án A2, hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân; Nâng cao cảnh giác, xây dựng thế trận phòng thủ toàn dân, an ninh nhân dân, đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh quốc phòng, bảo vệ Đảng, chính quyền...

- Trong công tác xây dựng Đảng phải coi trọng và làm tốt công tác chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức Đảng; duy trì tốt chế độ kiểm tra. Phấn đấu đến năm 2005, xây dựng Đảng bộ, Chính quyền đạt trong sạch vững mạnh, với trên 50% số chi bộ đạt trong sạch vững mạnh. Mỗi năm kết nạp từ 8 đến 10 đảng viên và trong nhiệm kỳ kết nạp từ 40 - 50 đảng viên mới. Thi hành kỷ luật trong Đảng, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

- Xây dựng và nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền. Xây dựng và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của địa phương.

Triển khai thực hiện nghị quyết đại hội Đảng bộ, mặc dù gặp không ít khó khăn, trở ngại như: (thời tiết diễn biến thất thường, úng lụt, có vụ rét đậm và khô hạn kéo dài), dịch cúm gia cầm xuất hiện. Giá cả thị trường có nhiều biến động; giá vật tư, phân bón, kết cấu hạ tầng phục vụ cho sản xuất, phúc lợi xã hội còn nghèo nàn, xuống cấp và quy hoạch không đồng bộ. Ngoài ra yếu tố thị trường nông sản bấp bênh đã ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất, phát triển kinh tế. Nhưng với tinh thần đoàn kết Đảng bộ Tân Hồng đã lãnh đạo nhân dân tập trung khắc phục mọi khó khăn, trở ngại, thực hiện tốt nhiệm vụ phát tiển kinh tế - xã hội ở địa phương từ năm 2001- 2005.

Tốc độ tăng truởng kinh tế bình quân từ năm 2000 - 2005 là 10%/năm. Tổng giá trị sản xuất bình quân từ năm 2000 đến năm 2004 đạt 22 tỷ 562 triệu đồng/năm. Năm 2004 đạt 25 tỷ 926 triệu đồng, năm 2005 đạt 26 tỷ 280 triệu đồng, so với năm 2004 đạt 116%, so với mục tiêu đại hội đạt 128%. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp thuỷ sản, TCN - XDCB, dịch vụ và thương mại đã được chuyển đổi theo hướng tích cực phù hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, nếu như năm 2000 là 75 - 15 - 10% thì đến năm 2004 là 65,4 - 19,9 - 14,7%. Thu nhập bình quân năm 2000 là 3 triệu đồng đến năm 2005 là 4,5 triệu đồng/ người/năm.

Cả xã cơ bản xoá song nhà tranh tre, đến năm 2005 có 100% hộ có nhà xây cơ bản; trên 85% số hộ có đủ ba công trình vệ sinh theo tiêu chẩn, 100% số hộ được dùng điện sinh hoạt. Toàn xã bình quân 100 dân có 4 máy điện thoại (năm 2000 mới có 0,8 máy/100 dân). Phương tiện giao thông tăng nhanh, năm 2000 bình quân 8 hộ có 1 xe thì năm 2005 bình quân 2,5 hộ có 1 xe. Một số hộ có điều kiện đã mua xe vận tải nhỏ và xe chở khách.

Với 3 chương trình chỉ đạo cụ thể là: vận động nhân dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng đổi mới giống lúa nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao, phát triển chăn nuôi toàn diện, chuyển đất trũng cấy lúa bấp bênh sang lập vườn cây và đào ao nuôi trồng thuỷ sản. Trong nhiệm kỳ 2000-2005 đã đạt kết quả thiết thực, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng.

Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2004 đạt 16 tỷ 218 triệu đồng, năm 2005 đạt 17 tỷ 188 triệu đồng, so với năm 2000 đạt 136,5%, trong đó trồng trọt chiếm tỉ trọng 70%, chăn nuôi thả cá 30%. Tổng diện tích gieo trồng bình quân hàng năm 470ha/năm, năng suất lúa bình quân từ năm 2001-2004 là 9,5 tấn/ha, năm 2005 đạt 10,83 tấn/ha. Tổng sản lượng lương thực đạt trên 4300 tấn/năm, bình quân lương thực đầu người 550kg/người/năm. Sản xuất cây vụ đông tiếp tục được giữ vững, với 70 ha bằng 15% diện tích canh tác, giá trị thu trên 1ha đạt 35 - 40 triệu đồng/ha, chủ yếu trồng khoai tây, khoai lang, ngô, hành và một số cây rau màu khác, hàng năm cho thu nhập trên tỷ đồng.

Về lãnh đạo ngành chăn nuôi, trong những năm 2000-2005 có bước phát triển khá, nhiều hộ gia đình đầu tư phát triển chăn nuôi theo phương pháp công nghiệp, quy mô từ vài chục đến trăm con, tỷ lệ lợn lai hướng lạc được nâng lên. Tổng đàn lợn năm 2005 có 3.160 con đạt 128,4% kế hoạch. Đàn lợn nái phát triển nhanh với 360 con bằng 138% so với năm 2000 và đạt 120% KH. Đàn trâu có 48 con giảm 80% so với năm 2000, đàn bò 203 con tăng 133 con so với năm 2000. Đàn gia cầm tuy có dịch cúm đe doạ nhưng năm 2005 vẫn đạt 35 nghìn con, tăng 8% so với KH, diện tích thả cá năm 2005 có 25ha, sản lượng đạt 55,5 tấn/năm bằng 115% so với năm 2000. Tổng giá trị thu từ chăn nuôi năm 2004 đạt trên 2.299 triệu đồng, đến năm 2005 tăng lên 3.383 triệu đồng.

Thực hiện tốt việc chuyển mục đích sử dụng đất theo đúng quy hoạch. Cơ bản hoàn thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thổ cư. Thục hiện dự án quy hoạch khu công nghiệp vào địa bàn My Cầu.

Hoàn thành đo vẽ lại bản đồ khu dân cư trong toàn xã, phục vụ cho việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đảng uỷ xã chỉ đạo các thôn thực hiện chuyển ruộng từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn. Quy hoạch dành cho giao thông nội đồng và dành đất cho công tác thuỷ lợi cùng với việc sử dụng cho các công trình phúc lợi khác. Sau dồn ô đổi thửa, số thửa đã giảm xuống còn 5 - 6 thửa. Đến năm 2005 hầu hết số hộ nông dân trong xã được giao quyền sử dụng đất canh tác theo đúng luật.

Sản xuất TTCN trên địa bàn còn nhỏ bé, vẫn chưa tạo ra được ngành nghề truyền thống và mang lại hiệu quả kinh tế cao, có phát triển mới một số nghề mới... nhưng quy mô nhỏ bé. Tổng giá trị thu từ sản xuất tiểu thủ công nghiệp năm 2001 đạt trên 1 tỷ đồng, đến năm 2004 đạt trên 4 tỷ 869 triệu đồng, năm 2005 đạt 5 tỷ 700 triệu đồng, so với năm 2000 đạt 142%, so với chỉ tiêu đạt 115%.

Tuy có khó khăn, nhưng các ngành nghề dịch vụ phát triển khá đa dạng. Năm 2005 có 36 hộ làm cơ khí điện, hàn, gò, mộc v.v... Lực lượng lao động dôi dư đã chuyển đi làm thợ và làm thuê, thu hút trên 400 lao động, giá trị thu trên 2 tỷ 400 triệu đồng. Ngoài ra còn trăm hộ kinh doanh nhỏ tại nhà. Số đông các hộ nông dân kết hợp sản xuất với kinh doanh mang tính thời vụ.

Thực hiện chương trình phát triển kết cấu hạ tầng, với sự nỗ lực phấn đấu cùng với sự huy động đóng góp của nhân dân và tận dụng mọi nguồn thu, tiết kiệm ngân sách để đầu tư xây dựng cơ bản đã triển khai hoàn thành một số công trình trọng điểm. Đến năm 2005 tổng số vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng là: 4 tỷ 973 triệu đồng bằng 142% so với năm 2000 và 140% so với chỉ tiêu đại hội, trong đó vốn nhà nước 1tỷ 870 triệu đồng, vốn địa phương 742 triệu đồng, vốn nhân dân đóng góp 2 tỷ 297 triệu đồng. Đã xây dựng trụ sở xã, nâng cấp hội trường và nối mạng truyền thanh xã.v.v... Thực hiện chương trình xây dựng 2,3km đường WB2, 5,2 km đường bê tông, 3,7 km kênh mương bê tông và đang tiến hành xây dựng 6 phòng học kiên cố cao tầng.

Điểm nổi bật trong các năm 2003 - 2004-2005 là các cấp uỷ cùng các đoàn thể nhân dân đã làm tốt công tác vận động sự đóng góp của nhân dân cộng với sự hỗ trợ của cấp trên, xã đã xây dựng được những ngôi nhà đại đoàn kết, hoàn thành việc xoá nhà tranh tre đảm bảo 100% số hộ trong xã có nhà xây cơ bản. Điểm nổi bật trong việc xây dựng đường bê tông ngõ xóm của thôn My Cầu, các gia đình đã đồng thuận góp 600.000đồng/khẩu/năm. Thôn Tuyển Cử có hộ ít khẩu đã góp 3 triệu đồng làm đường ngõ. Có thể khẳng định: Kết quả xây dựng cơ bản trong những năm 2000-2005 đã làm thay đổi hẳn bộ mặt nông thôn Tân Hồng.

Củng cố quan hệ sản xuất, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển. Toàn xã có các HTX dịch vụ nông nghiệp hoạt động theo Luật HTX đã đáp ứng được yêu cầu phục vụ sản xuất hiện nay là: Phục vụ phát triển kinh tế hộ gia đình trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, từ đó các hộ có lao động trong độ tuổi có điều kiện ra ngoài xã làm ăn từ trong nước đến nước ngoài.

Được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành từ tỉnh, huyện, xã, chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên. Cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học đã được tăng cường, hoàn thành tách trường Tiểu học với trường THCS. Trường Mầm Non đổi tên là trường Mầm non bán công, huy động các cháu đến nhà trẻ năm 2000 đạt tỷ lệ là 85% thì năm 2005 đạt trên 90%. Các cháu 5 tuổi đến lớp đạt 100%, các cháu 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%.

Trường Tiểu học, THCS duy trì sĩ số, tuyển học sinh đầu cấp đạt 100%, số học sinh khá giỏi ngày một tăng. Tỷ lệ học sinh lớp 9 đỗ tốt nghiệp 99,8%, số học sinh tốt nghiệp THCS vào lớp 10 hàng năm đạt 73% (trong đó đa số em đỗ vào hệ công lập, số còn lại đỗ vào hệ bán công và bổ túc); tỷ lệ đỗ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hàng năm đạt khá. Qua thống kê, từ năm 2004 có 25 em đỗ đại học, cao đẳng; 100% số giáo viên Tiểu học, THCS đạt chuẩn và trên chuẩn. Trên 50% số giáo viên trường Mầm non đạt chuẩn. Hai trường THCS và tiểu học hàng năm đều đạt và giữ vững danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc. Các năm 2001-2002, 2002-2003, trường THCS được UBND huyện Bình Giang tặng cờ đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua trong toàn huyện và từ năm 2000 đến năm 2003-2004 trường THCS được UBND tỉnh tặng bằng khen, nhà trường đạt danh hiệu tập thể lao động tiên tiến.

Phong trào xã hội hoá giáo dục và phong trào xây dựng quỹ khuyến học được quan tâm hơn, một số dòng họ có quỹ khuyến học. Từ năm 2002 đến năm 2005, hội khuyến học xã xét thưởng số cháu đạt học sinh giỏi, đỗ vào các trường Đại học, Cao đẳng và học sinh nghèo vượt khó đã góp phần động viên phong trào giáo dục trên địa bàn xã.

Về công tác y tế:

Thường xuyên làm tốt công tác chăm sóc bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Tăng cường công tác khám và điều trị tại trạm y tế, trong 5 năm 2001- 2005, đã khám bệnh và điều trị cho hàng ngàn lượt người. Không có tai biến ảnh hưởng đến sức khoẻ nhân dân tại trạm y tế. Làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ cho đối tượng chính sách xã hội, người nghèo có thẻ bảo hiểm y tế.

Có đủ cơ sở vật chất và bác sĩ khám chữa bệnh, phục vụ tại trạm. 100% số cháu trong độ tuổi được tiêm phòng bệnh theo chương trình tiêm chủng mở rộng, 100% phụ nữ có thai được tiêm phòng uốn ván đủ 2 mũi trước khi sinh. Thường xuyên làm tốt công tác vệ sinh môi trường, bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Phối hợp làm tốt công tác dân số kế hoạch hoá gia đình, tổ chức nhiều buổi truyền thông lồng ngép tuyên truyền làm cho mọi người có ý thức tự giác thực hiện kế hoạch hoá gia đình, góp phần giảm tỷ lệ tăng dân số nhiều năm còn 1%. Năm 2012 Trạm y tế xã được công nhận chuẩn quốc gia.

Phong trào xây dựng Gia đình văn hoá, Làng văn hoá luôn được cấp uỷ Đảng quan tâm, chỉ đạo, đảng viên và nhân dân đồng tình hưởng ứng theo tinh thần Nghị quyết TW5 khoá VIII và kết luận hội nghị lần thứ 10 TW khoá IX. Đã có 1 làng được UBND tỉnh công nhận là Làng Văn hoá. Các thôn xây dựng quy ước làng Văn hóa và duy trì thực hiện. Số hộ đăng ký xây dựng gia đình văn hoá hàng năm đạt trên 80%, đã có 939 hộ gia đình đạt danh hiệu văn hoá bằng 67% số hộ.

Phong trào văn nghệ thu hút đông đảo hội viên các đoàn thể và nhân dân tham gia, các thôn đều có đội văn nghệ và câu lạc bộ văn nghệ, TDTT, 4/4 làng có phong trào tập luyện bóng chuyền, xã có sân vận động. Hàng năm đều tham gia các giải thể thao, xã tổ chức tốt đại hội thể dục thể thao cơ sở lần thứ II. Mặt khác xã tổ chức hội diễn văn nghệ, đội văn nghệ xã tham gia hội diễn cấp huyện.

Hoạt động lễ hội đã trở thành ngày hội văn hoá truyền thống của xã. Việc cưới, việc tang được tổ chức theo hướng tiết kiệm lành mạnh. Đài phát thanh xã làm tốt công tác tuyên truyền vào các dịp kỷ niệm lớn của đất nước, tiếp âm đài TW, tỉnh, huyện, có chương trình đài xã. Thường xuyên chăm lo củng cố cơ sở vật chất của đài truyền thanh, nâng cao chất lượng tuyên truyền, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phương.

Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống vật chất và tinh thân của nhân dân đã được nâng nên, không còn hộ đói, hộ nghèo giảm. Số hộ khá và giàu ngày một tăng: đã có hộ đầu tư mua sắm ô tô, 100% số hộ dùng điện thắp sáng, toàn xã đến năm 2005 có 1276 phương tiện nghe nhìn bằng 91% số hộ. Xã chăm lo tốt chính sách người có công, người hoạt động kháng chiến, chế độ bảo hiểm xã hội. Lập hồ sơ trợ cấp một lần cho các đối tượng là thanh niên xung phong, người tàn tật hưởng trợ cấp hàng tháng 65.000đ/ tháng.

Công tác an ninh quốc phòng: nhằm không ngừng nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân - Đảng bộ luôn chú trọng tuyên truyền, giáo dục về nhiệm vụ an ninh quốc phòng, phổ biến giáo dục pháp luật, đồng thời phát động phong trào quần chúng bảo vệ anh ninh Tổ quốc. 4/4 làng đăng ký làng an toàn và an ninh trật tự. Ban chấp hành Đảng bộ khoá XVIII đã xây dựng nghị quyết chuyên đề về công tác an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội.

Công tác tuyển quân hàng năm đều hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu kế hoạch cả về số lượng và chất lượng. Từ năm 2001 - 2005 xã đã động viên 68 thanh niên lên đường nhập ngũ. Tổ chức huấn luyện chính trị, quân sự và binh chủng cho 288 đồng chí đảm bảo chất lượng. Hoàn thành diễn tập theo phương án A2, được huyện đánh giá xã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chính sách hậu phương quân đội được quan tâm, thực hiện tốt. Trong cả nhiệm kỳ 2000 - 2005, công tác quân sự xã được UBND huyện tặng giấy khen các năm 2003, 2004 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quân sự địa phương.

Trong công tác xây dựng Đảng, các cấp uỷ Đảng đã quan tâm và có nhiều hình thức tăng cường nhận thức về chính trị, tư tưởng cho cán bộ đảng viên. Quán triệt kịp thời các nghị quyết của Trung ương, của tỉnh và của huyện đến toàn thể cán bộ, đảng viên. Đồng thời tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để nhân dân nắm được. Việc triển khai quán triệt các nghị quyết của Đảng luôn gắn liền với xây dựng chương trình hành động của Đảng bộ.

Công tác tuyên truyền, đưa thông tin tới đảng viên và nhân dân được coi trọng cả về nội dung và đa dạng về hình thức. Đảng bộ đã có những biện pháp tích cực đảm bảo 100% các chi bộ nông thôn đều có báo Nhân dân, báo Hải Dương và bản tin nội bộ Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ. Đặc biệt cán bộ và nhân dân trong xã còn tích cực hưởng ứng cuộc thi tìm hiểu 75 năm lịch sử vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam với trên một ngàn bài, chiếm 28% dân số toàn xã vượt chỉ tiêu giao. Trong đó có 94% cán bộ đảng viên có bài dự thi. Nhờ vậy, nhận thức của cán bộ đảng viên được nâng lên, lòng tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố.

Trong nhiệm kỳ (2000 - 2005) công tác tổ chức và công tác cán bộ ở địa phương có biến động. Ban thường vụ đảng uỷ xã đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chặc chẽ việc kiện toàn bộ máy, sắp xếp và bố trí cán bộ đảm bảo duy trì hoạt động của chính quyền, các ban ngành đoàn thể. Việc đánh giá xây dựng và quy hoạch đội ngũ cán bộ được kháo sát thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII, Đảng uỷ thực hiện tốt việc quy hoạch phương án A1, A2, A3 đảm bảo sự thống nhất cao. Đảng bộ đã lãnh đạo và tổ chức thành công cuộc bầu cử hội đồng nhân dân, kiện toàn bộ máy Uỷ ban nhân dân nhiệm kỳ 2004- 2009. Bên cạnh đó, việc giáo dục, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ và đảng viên cũng được quan tâm. Tính đến tháng 7 năm 2005 Đảng bộ đã cử 15 đồng chí đi học đại học, trung cấp lý luận chính trị và chuyên ngành, 30 đồng chí bồi dưỡng công tác chi uỷ, 25 đồng chí học sơ cấp LL chính trị và các lớp bồi dưỡng khác. Hàng chục lượt cán bộ đi bồi dưỡng nghiệp vụ ở tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội, nghiệp vụ hội đoàn thể và lý luận chính trị.

Công tác quản lý đảng viên được chỉ đạo thống nhất, các chi bộ đều có sổ theo dõi đảng viên sinh hoạt. Việc phân công giao nhiệm vụ cho đảng viên, miễn sinh hoạt, miễn công tác đảng viên đi làm kinh tế xa được thông qua chi bộ xét, đảm bảo đúng quy định. Hàng năm, các chi bộ đều chỉ đạo chặt chẽ việc phân tích chất lượng đảng viên bằng bỏ phiếu tín nhiệm. Hầu hết đảng viên đều giữ được tư cách và phẩm chất cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, cơ bản làm tròn nhiệm vụ của người đảng viên. Hàng năm, qua phân tích chất lượng đảng viên, toàn Đảng bộ có 100% đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ, không có đảng viên vi phạm kỷ luật. Năm 2004 tổ chức tốt việc đổi thẻ đảng viên với 242 đ/c bằng 100%. Hàng năm 100% chi bộ hoàn thành nhiệm vụ, có 7 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh, riêng năm 2004 có 9/11 chi bộ đạt TSVM, Đảng bộ hàng năm đều đạt TSVM.

Công tác kiểm tra đảng trong những năm qua cơ bản được thực hiện tốt theo đúng sự chỉ đạo hướng dẫn của Uỷ ban Kiểm tra Huyện ủy. Hoạt động của Uỷ ban kiểm tra đã hướng vào kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của Đảng, kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm, giải quyết đơn thư tố cáo và khiếu nại của đảng viên. Qua kiểm tra Đảng bộ không có đảng viên vi phạm, uy tín của Đảng bộ không ngừng được nâng cao.

Thực hiện kết luận của Hội nghị Trung ương 4 (khóa IX) về việc tiếp tục thực hiện vuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), ban chấp hành đảng bộ xã đã quán triệt sâu rộng trong cán bộ, đảng viên. Hàng năm, việc thực hiện đều được gắn với các hoạt động sơ, tổng kết, đánh giá được những ưu, nhược điểm để tìm giải pháp cụ thể, đẩy mạnh phong trào xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh. Đưa nội dung tự phê bình và phê bình thành hoạt động thường xuyên, nền nếp trong Đảng.

Công tác xây dựng chính quyền được Đảng bộ coi trọng. Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo nhân dân hoàn thành cuộc bầu cử hội đồng nhân dân 3 cấp. Đồng thời chỉ đạo kiện toàn tổ chức bộ máy Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, đội ngũ trưởng phó thôn. Thông qua công tác cán bộ theo tinh thần Nghị quyết TW3 khoá VII và khoá VIII, từ công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng và bố trí cán bộ hợp lý theo nguyên tắc vì việc chọn người, nên đã phát huy được đội ngũ cán bộ và các tổ chức trong hệ thống chính trị.

Hoạt động của hội đồng nhân dân đã bám sát chức năng, quyền hạn theo luật định, HĐND xã tổ chức các cuộc tiếp xúc cử tri. Chương trình nội dung kiểm tra và giám sát các hoạt động của nhà nước ở địa phương được chủ động xây dựng. Qua kiểm tra, giám sát đã phát hiện được những thiếu sót, khuyết điểm trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước, trong quản lý đất đai và an ninh trật tự xã hội. Nhờ vậy đã kịp thời uốn nắn và kiến nghị với Uỷ ban nhân dân xã giải quyết các kiến nghị của cử tri được tiếp thu, nghiên cứu và chuyển đến ủy ban nhân dân xã, đôn đốc giải quyết và trả lời kịp thời, góp phần ổn định tình hình nhân dân, Uỷ ban nhân dân đã đổi mới phương thức làm việc nên có hiệu lực và hiệu quả, HĐND - UBND đều hoàn thành nhiệm vụ, chính quyền đạt loại khá.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong những năm 2000 - 2005 đã có nhiều hoạt động tích cực, rõ nét, thể hiện rõ chức năng và nhiệm vụ vận động quần chúng. Các hoạt động đều được các đoàn thể xây dựng thành chương trình cụ thể trên cơ sở gắn nghị quyết của cấp ủy với nội dung của đoàn thể mình. Đồng thời, thường xuyên chăm lo quyền lợi của đoàn viên và hội viên. Từ đó thu hút, tập hợp lực lượng, xây dựng và củng cố tổ chức hội. Tích cực tham gia các phong trào do cấp trên phát động ở địa phương cũng như tham gia vào nhiệm vụ xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh.

Mặt trận Tổ quốc đã đẩy mạnh cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư"; hưởng ứng có hiệu quả cuộc vận động ngày vì người nghèo, hoàn thành tốt việc xóa nhà tranh tre cho các hộ nghèo có nhu cầu. Đồng thời hướng dẫn hội người cao tuổi đẩy mạnh phong trào thi đua "Tuổi cao chí khí càng cao, nêu gương sáng vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", đưa hoạt động của hội vào nền nếp và từng bước phát triển. MTTQ xã vận động ủng hộ quỹ người nghèo xoá nhà tranh tre vách đất cho các hộ nghèo.

Mặt trận Tổ quốc còn chỉ đạo ban thanh tra nhân dân hoạt động đúng chức năng, có hiệu quả kiến nghị kịp thời những vụ việc phát sinh để chính quyền xem xét và giải quyết.

Hoạt động của hội phụ nữ tiếp tục được duy trì. Hội đã thực hiện tốt phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và 6 chương trình trọng tâm của hội. Nổi bật là hoạt động giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Hội đã tín chấp với các ngân hàng hàng trăm triệu đồng cho hội viên vay. Đồng thời vận động hội viên khá, giàu các tổ phụ nữ góp vốn cho vay luân chuyển cho hội viên khó khăn vay giống, vốn, vật tư để sản xuất, nâng cao đời sống. Bên cạnh đó, hội phụ nữ còn tích cực tham gia các phong trào ở địa phương, được Đảng ủy đánh giá khá.

Hội Cựu chiến binh luôn coi trọng công tác xây dựng tổ chức hội vững mạnh. Hàng năm, hội phối hợp với huyện hội tổ chức nhiều buổi nói chuyện thời sự nhằm nâng cao nhận thức cho hội viên. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Xây dựng gia đình hội viên tiến bộ, hội viên gương mẫu”. Tích cực tham gia vào công tác phòng chống tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn.

Tháng 9 năm 2001, Đại hội Cựu chiến binh lần thứ III bầu 7 đồng chí vào Ban chấp hành, đồng chí Vũ Đình Tiệp làm Chủ tịch. Năm 2004, hội đã tổ chức thành lập và ra mắt câu lạc bộ cựu quân nhân xã. Hội luôn được huyện hội đánh giá là đơn vị vững mạnh và vận động hội viên ủng hộ quỹ chất độc hoá học. Hội đã xây dựng nhiều mô hình hoạt động kinh tế và làm chủ dự án vay vốn của ngân hàng chính sách xã hội, giúp nhau làm kinh tế xoá đói giảm nghèo.

Với phong trào “Thi đua lao động sản xuất kinh doanh giỏi” Hội nông dân luôn tuyên truyền, vận động hội viên tích cực chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao đời sống. Về phía Hội, một mặt đứng ra tín chấp với ngân hàng với tổng dư nợ hàng trăm triệu đồng cho hội viên vay. Mặt khác chủ động phối hợp với các ngành chức năng tổ chức các lớp chuyển giao khoa học kỹ thuật về thâm canh lúa, trồng cây đặc sản, lập vườn, nuôi trồng thuỷ sản... Trong sản xuất đã xuất hiện những tấm gương điển hình làm kinh tế giỏi, đã có hàng chục hộ đạt làm kinh tế giỏi cấp tỉnh, hàng trăm hộ làm kinh tế giỏi cấp huyện, hộ làm kinh tế giỏi cấp xã.

Đoàn thanh niên luôn là lực lượng xung kích trong mọi phong trào ở địa phương, đặc biệt là phong trào “tuổi trẻ tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", động viên thanh niên hăng hái lên đường bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời làm tốt công tác đoàn đội, tổ chức nhiều hoạt động hè bổ ích, lành mạnh cho thanh thiếu niên. Nhằm hạn chế tỷ lệ thanh thiếu niên vi phạm pháp luật trong dịp hè. Bên cạnh đó, đoàn xã còn đảm nhận việc tu sửa nghĩa trang liệt sĩ, giữ vệ sinh trên các đoạn đường thanh niên tự quản. Qua đó nhằm giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, phát huy vai trò trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng quê hương giàu mạnh. Trong công tác đoàn tham gia xây dựng Đảng, Ban chấp hành đoàn xã đã giới thiệu đoàn viên học lớp đối tượng Đảng. Đoàn được huyện đoàn công nhận nhiều năm liền hoàn thành tốt nhiệm vụ, được tặng bằng khen.




tải về 2.06 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương