ĐẢng cộng sản việt nam lịch sử §¶ng bé Vµ nh¢n d¢n x· T¢n hång 1930 2010



tải về 2.06 Mb.
trang10/16
Chuyển đổi dữ liệu11.08.2016
Kích2.06 Mb.
#17403
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   16

CHƯƠNG VI


§¶NG Bé L·NH §¹O NH¢N D¢N TRONG X· THùC HIÖN C¤NG CUéC §æI MíI CñA §¶NG (1986 - 2000)
I. NHỮNG NĂM ĐẦU THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1986-1995)

Đến năm 1980, hầu như toàn bộ các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm (1976 - 1980) của Nhà nước ta đều không thực hiện được. Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm khuyết điểm trong lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện của các cấp bộ Đảng từ Trung ương xuống cơ sở. Đại hội lần thứ V của Đảng đã vạch ra kế hoạch 1982-1985 và ban hành một loạt các chính sách kinh tế, từng bước khơi dậy những tiềm năng trong sản xuất nông nghiệp. Chỉ thị 100 của Ban bí thư Trung ương Đảng và chính sách khoán quản là một minh chứng thực tế. Kết quả thực hiện kế hoạch 1981 - 1985 là căn cứ thực tiễn rất quan trọng để Đảng ta định ra đường lối đổi mới trong nhiệm kỳ 1986 - 1990, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế, đặc biệt về cơ cấu kinh tế.

Đại hội lần thứ VI của Đảng họp vào tháng 12 năm 1986 đã nhấn mạnh: nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường.

Nhằm cụ thể hoá chủ trương chung, Đảng ta tiếp tục ban hành Nghị quyết hội nghị BCH Trung ương lần 6, 7, 8, khoá (V), nhằm hoàn chỉnh cơ chế mới về quản lý kinh tế - xã hội. Thực hiện chủ trương của Đảng, tháng 3 năm 1986 Ban chấp hành huyện Cẩm Bình ra nghị quyết đề ra phương hướng chung là: Tiếp tục đấu tranh phá bỏ nếp nghĩ, cách làm của hậu quả cơ chế hành chính quan liêu bao cấp; phát động phong trào thi đua lao động sáng tạo của các đoàn thể, ngành giới, ở các xã trong huyện... Kiên quyết chuyển đổi và triển khai thực hiện toàn diện cơ chế quản lý mới, nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng mọi mặt của địa phương.

Xuất phát từ tình hình thực tế, căn cứ vào chủ trương chung của huyện và nhằm cụ thể hoá chủ trương của Đảng, Ban chấp hành Đảng bộ xã họp vạch ra chương trình kinh tế của xã đó là: Đẩy mạnh thực hiện Chương trình sản xuất hàng tiêu dùng; Chương trình sản xuất lương thực, thực phẩm và Chương trình sản xuất hàng xuất khẩu.

Trong đó chương trình sản xuất lương thực, thực phẩm được Đảng bộ xác định là nhiệm vụ trọng tâm của địa phương. Nhằm triển khai 3 chương trình kinh tế có hiệu quả, tháng 7 năm 1986, Đảng bộ xã Tân Hồng tiến hành đại hội lần thứ XIII. Dự Đại hội đảng bộ có 120 đại biểu chính thức thay mặt cho 152 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội tập trung thảo luận dự thảo các văn kiện trình Đại hội lần thứ VI của Đảng, báo cáo sửa đổi Điều lệ Đảng, báo cáo của Tỉnh uỷ, báo cáo của Huyện uỷ, và báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ trình đại hội. Sau khi phân tích tình hình đặc điểm địa phương, căn cứ vào 3 chương trình kinh tế - xã hội của huyện, Đại hội đề ra những nhiệm vụ cụ thể sau:

- Tích cực triển khai 3 chương trình kinh tế: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hang xuất khẩu.

- Từng bước xây dựng và củng cố hệ thống giao thông nông thôn xã,

- Đẩy mạnh công tác khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, chia lại ruộng đất, điều chỉnh sản lượng và đẩy mạnh việc thu hồi sản phẩm.

- Thực hiện tốt việc phân cấp: hợp tác xã đảm nhận 5 khâu, hộ xã viên đảm nhận 3 khâu.

- Đẩy mạnh sự nghiệp văn hoá- giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đáp ứng từng bước nhu cầu tinh thần, tình cảm của nhân dân. Tích cực công tác tuyên truyền kế hoạch hoá gia đình, hạ thấp tỷ lệ sinh đẻ “mỗi cặp vợ chồng chỉ có 2 con”; giữ vững trật tự an ninh, lành mạnh hóa mối quan hệ xã hội.

Về mặt tổ chức, số lượng đảng viên ngày một đông, chủ yếu là đảng viên hưu trí từ các cơ quan nhà nước, quân đội trở về. Với sự đóng góp của đội ngũ đảng viên đông đảo trên, chất lượng lãnh đạo của Đảng bộ được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên số lượng đảng viên trẻ, trực tiếp sản xuất chiếm tỷ lệ thấp.

Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XIII bầu 11 đồng chí vào ban chấp hành đảng bộ. Đồng chí Vũ Huy Thênh được bầu làm Bí thư, đồng chí Vũ Nhật Thế làm Phó Bí thư Chủ tịch UBND xã.

Quá trình chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường là một quá trình khó khăn. Tuy nhiên trong mấy năm thực hiện đường lối đổi mới, đời sống của nhân dân trong xã có sự chuyển biến rõ rệt. Ngành tiểu thủ công nghiệp trong xã đã từng bước chuyển đổi theo hướng tập trung sản xuất hàng tiêu dùng, nhịp độ tăng trưởng kinh tế trong xã tăng hàng năm khá.

Trước hết Đảng bộ Tân Hồng lãnh đạo nhân dân thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng về đường lối phát triển nông nghiệp trong giai đoạn mới. Đảng bộ và nhân dân đã làm hết sức mình để tổ chức thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị của địa phương:

Quá trình chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường là một quá trình khó khăn. Tuy nhiên trong mấy năm thực hiện đường lối đổi mới, đời sống của nhân dân trong xã có sự chuyển biến rõ rệt. Ngành tiểu thủ công nghiệp trong xã đã từng bước chuyển đổi theo hướng tập trung sản xuất hàng tiêu dùng, nhịp độ tăng trưởng kinh tế trong xã tăng hàng năm. Về sản xuất lương thực, thực phẩm phát triển tốt. Các chỉ tiêu lớn về lương thực, thực phẩm đều hoàn thành, cả 3 mặt: Năng suất, sản lượng và diện tích đều tăng, diện tích gieo trồng năm 1986 - 1987 tăng hơn năm 1984 - 1985 hàng chục mẫu, năng suất lúa hàng năm đều tăng, từ năm 1987 xã không còn diện tích hoang hoá. Toàn xã tổng diện tích gieo trồng năm 1987 đạt trên 990ha, trong đó diện tích cấy lúa vụ chiêm 500 ha, vụ mùa 490ha. Năng suất lúa cả năm 3,5 tạ /ha. Tổng sản lượng 1.3445 tấn.

Về chăn nuôi cũng có nhiều tiến bộ, tổng đàn lợn năm 1987 toàn xã có 1325 con đàn trâu có 175 con. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản được mở rộng, xã đã thả trên 3 triệu con cá giống, cá thịt có trên chục vạn con. Từ đó đời sống của nhân dân được nâng dần, số hộ khê đọng sản phẩm giảm, nghĩa vụ lương thực huy động đều hoàn thành trước thời gian. Ngành nghề phụ cũng có bước phát triển.

Hợp tác xã đã thanh toán sòng phẳng mọi quyền lợi cho xã viên, cho nên đã động viên kịp thời người trực tiếp lao động, góp phần đưa năng suất lao động ngày một nâng lên.

Đi đôi với sản xuất, việc cải tạo đồng ruộng cũng được Đảng bộ quan tâm. Hàng năm số vốn đầu tư cho công tác làm thuỷ lợi, làm giao thông năm sau cao hơn năm trước. Đảng uỷ chỉ đạo hợp tác xã đổi vật tư, phân bón hoặc ứng trước vật tư phân bón, tạo điều kiện cho sản xuất kịp thời vụ.

Đặc biệt năm 1989 đó xây dựng hoàn chỉnh 2 đường điện hạ thế Tân Phong và Mộ Trạch dài 5km với tổng giá trị 90 triệu 600 ngàn đồng. Đây là một công trình lớn của Đảng bộ và nhân dân trong xã.

Nhằm củng cố quan hệ sản xuất, dưới sự chỉ đạo của Ban thường vụ Huyện uỷ tháng 8 năm 1988 Đại hội lần thứ XIV đảng bộ xã Tân Hồng được tiến hành họp tai hội trường xã. Vinh dự cho Đại hội được đón đồng chí Bí thư huyện uỷ cùng các đồng chí đại diện cho các ban, ngành trong huyện tới dự và chỉ đạo.

Đại hội lần này tập trung vào việc quán triệt nghị quyết hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng 2, 3, 4, 5 khoá VI và nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ Hải Hưng lần thứ V, nhấn mạnh đến công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, đưa chủ trương của Đảng vào phong trào quần chúng. Đại hội vạch ra các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, trước hết là chỉ tiêu sản xuất lương thực, chăn nuôi và hàng tiêu dùng. Đưa các hoạt động kinh tế dịch vụ vào kinh doanh.

Đặc biệt đại hội đi sâu bàn và quán triệt nghị quyết 10 của Bộ chính trị và quán triệt nghị quyết 14 của Ban thường vụ tỉnh uỷ về việc giao đất lâu dài cho người nông dân.

Đại hội lần thứ XIV bầu 13 đồng chí vào Ban chấp hành Đảng bộ. BCH đảng bộ bầu 5 đồng chí vào ban thường vụ đảng uỷ,đồng chí Vũ Ngọc Giao được bầu làm Bí thư, đồng chí Vũ Nhật Thế Phó bí thư - Chủ tịch UBND xã

Sau Đại hội, cả xã Tân Hồng bước vào thời kỳ chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế trong đó việc giao đất cho hộ xã viên được xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong kế hoạch 1988- 1989.

Tuy nhiên trước khi vào thực hiện nghị quyết 10 của Bộ chính trị và Nghị quyết 14 của Ban thường vụ Tỉnh uỷ, Tân Hồng còn khó khăn, đó là: Sản xuất vụ đông chưa được coi trọng, các ngành nghề phụ còn ít,... Việc tồn đọng sản phẩm cũ chưa được giải quyết dứt điểm thì lại chuyển sang việc thực hiện Nghị quyết 10, do vậy việc giải quyết sự tồn đọng cũng tạo ra sự khó khăn cho Đảng uỷ, chính quyền địa phương trong điều hành công việc chung.

Triển khai thực hiện khoán 10 (Nghị quyết 10 của Ban Bí thư) từ 5/1988. Đảng uỷ đã quyết định tách hợp tác nông nghiệp toàn xã thành 2 HTX: HTX Tân Phong và HTX Mộ Trạch cho phù hợp với khả năng lãnh đạo quản lý. Đảng bộ lãnh đạo các HTX tiến hành điều tra và rà soát tất cả các loại ruộng đất, phân bổ lại diện tích cho các đội sản xuất, lao động và ăn theo. Dựa trên tình hình lao động, đất đai thực tế, căn cứ vào nghị quyết 10 của Trung ương. Nghị quyết 28 của Tỉnh uỷ và phương hướng của cấp trên. Ban quản lý HTX đã phân chia giữa đất để đảm bảo đời sống cơ bản cho một xã viên có đất để sản xuất ra hàng hoá. Căn cứ vào diện tích canh tác được phân chia ra các loại như sau:

- Diện tích canh tác: 918.579m2 đã giải quyết chia vòng 01 theo nhu cầu cơ bản: 304.129m2. Đất cho sản xuất hàng hoá vòng 2 là 128.792m2. Đất 10% kinh tế gia đình 485.658m2.

Ngoài ra còn thực hiện chính sách ưu tiên đối với các gia đình có công với cách mạng, gia đình liệt sĩ, gia đình thương binh 4 mẫu 2 sào.

Về tổ chức thực hiện đã lên đơn giá khoán, tiến hành khoán gọn cho các gia đình xã viên, thông qua cơ sở sản xuất để hộ xã viên tự kinh doanh, chuyển dần quyền tự chủ ruộng đất, chủ động trong kế hoạch cho các đội điều hành. Ban quản lý HTX chỉ là khâu trung gian, hướng dẫn kế hoạch, kỹ thuật và dịch vụ.

Cùng với việc định sản, khoán ruộng đất đến người lao động, đàn trâu, bò, hồ ao, HTX đã hoá giá bán cho nhóm và hộ xã viên gồm 212 con trâu, 212 cái cầy, 180 cái bừa, gần 10 mẫu ao hồ thả cá. Các đội sản xuất tự quản khoán đất thầu cho từng nhóm từ 3 – 6 năm.

Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ra đời đã dựa trên tinh thần Chỉ thị 100 và đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm thực tế suốt quá trình thực hiện trong các năm 1982 – 1987. Nghị quyết 10 thực sự đi vào lòng dân, tạo ra cho toàn dân trong xã phát huy sức mạnh tổng hợp, các tiềm năng phục vụ sản xuất được tăng cường. Xã viên bước đầu đã quan tâm đến sản xuất hàng hoá, xã viên thực sự làm chủ trên mảnh ruộng khoán của mình. Trong những năm qua mặc dù thời tiết diễn biến phức tạp, kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn. Song với lòng quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân trong xã, với tinh thần tự lực tự cường, nên sản xuất vẫn giữ vững, có phát triển.

Trong những năm qua diện tích vẫn giữ vững (vụ chiêm xuân 500 ha, mùa 490 ha). Năng suất ổn định (từ 38,5 đến 40 ta/ha). Tổng sản lượng hàng năm bình quân 3.3808 tấn. Tổng sản lượng năm nay so với 1981 (chưa có Chỉ thị 100) tăng 1.000 tấn. So với năm 1987 (năm trước khi có NQ 10) tăng 1.300 tấn. Nông dân trong xã rất hồ hởi, phấn khởi ra sức thi đua đẩy mạnh sản xuất, việc thu nộp sản phẩm tương đối đầy đủ, sòng phẳng. Song còn một số gia đình, số đội còn tồn đọng. Đến năm 1989 toàn xã, xã viên còn tồn đọng tới 200 tấn của HTX.

Trong những năm qua sản xuất nông nghiệp ở Tân Hồng đã vượt qua nhiều khó khăn phức tạp, đưa sản xuất từng bước vươn lên. Đặc biệt là Chỉ thị 100 và Nghị quyết 10 đã tạo ra cho sản xuất nông nghiệp trong xã có những chuyển biến lớn. Đây vừa là nguyên nhân vừa là kết quả làm cho sản xuất không ngừng phát triển, đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt.

Đi đôi với việc phát triển cây lúa, HTX đã chú trọng công tác, trồng màu. Đảng bộ coi trọng cây vụ đông là một nhiệm vụ thường xuyên không thể thiếu được, nhằm tăng sản lượng lương thực (quy thóc) để giảm bớt những khó khăn trong các kỳ giáp hạt và giải quyết vốn để cơ bản cho chăn nuôi gia súc.

Trong những năm (1986 - 1990) hầu hết các đội sản xuất đều dành riêng cánh đồng trồng màu. Cây vụ đông trong xã chủ yếu là cây khoai lang, khoai tây, rau màu các loại. Bình quân mỗi năm trồng từ 90 – 100 ha. Đến năm 1988 là năm đầu tiên HTX mạnh dạn đưa cây ngô vào vụ đông với cơ cấu trên diện tích là 70 ha. Tổng sản lượng đạt 150 tấn. Từ đây mở ra một phong trào phát triển cây vụ đông trên địa bàn toàn xã một cách mạnh mẽ. Năm 1989 tổng diện tích trồng 1.245 ha trong đó khoai lang 72 mẫu, ngô 52 ha.

Để cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi. Nghị quyết của các kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ đều xác định: Xuất phát từ tình hình đặc điểm của một xã nông nghiệp, chúng ta xác định phải từng bước đưa chăn nuôi từng bước tiến lên, nhằm đáp ứng phân bón cho cây trồng và có nguồn thực phẩm đối với Nhà nước, giải quyết nhu cầu cần thiết cho nhân dân. Công tác chăn nuôi chú ý quan tâm cả 2 khu vực: gia đình và tập thể. Hình thức nuôi tập thể là ở trại và tiếp tay gia công.

Khi thực hiện mục tiêu chăn nuôi trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn về con giống, cơ sở vật chất kỹ thuật, Đảng bộ biết dựa vào chủ trương, chính sách phát triển chăn nuôi của Nhà nước, tranh thủ sự giúp đỡ của cấp trên. Nhờ có nhiều biện pháp tích cực, đàn lợn bình quân hàng năm của toàn xã có từ 950 - 1.305 con.

Công tác chăn nuôi nói chung đều giữ vững và phát triển. Nếu tính cả số lợn làm nghĩa vụ bán giá cao, xã viên giết thịt, thì số lợn chuyển hàng năm bình quân từ 1.200 – 1.300 con. Trong đó lợn lai kinh tế chiếm từ 40 – 50%, trọng lượng xuất chuồng bình quân từ 60 – 75 kg/con. Trong chăn nuôi, khu vực gia đình vẫn giữ vững, nhưng khu vực chăn nuôi tập thể ngày càng bị thua lỗ. Đến năm 1986 các trại chăn nuôi tập thể không duy trì được.


Năm

Hộ chăn nuôi

Tổng đàn

Tập thể

Xã viên

Lợn nái tập thể

Lợn nái xã viên

Lợn lai kinh tế

1986

1987


1988

1989


1990

1050

1120


950

1235


1400

1320

1325


981

1305


1500

50


1320

1325


981

1305


1500




40

40

40



50

30


610

620


420

710


820

Đàn trâu bò trong HTX ngày càng phát triển và giữ vững trên dưới 200 con. Năm 1985 là năm số trâu bắt đầu thấp dần, vì năm này đàn trâu bị thải loại. Từ năm 1988 thực hiện cơ chế khoán mới, HTX đã thanh lý đàn trâu tập thể cho các hộ xã viên, nhằm bảo vệ sức kéo, tăng nhanh đàn trâu, đáp ứng nhu cầu sản xuất. Do vậy tổng đàn trâu bò tăng rất nhanh. Năm 1988 có 175 con, năm 1990 lên tới 220con.

Tổng đàn trâu:

Năm

1986

1987

1988

1989

1990

Tổng

175

175

175

221

220

Phong trào thả cá của Tân Hồng vẫn được duy trì: Diện tích ao hồ thả cá hàng năm đều đạt từ 15 – 20 mẫu. Hàng năm đã nuôi thả từ 1 triệu đến 10 triệu 100 vạn con cá bột; sản lượng thu hoạch từ 10 – 12 tấn cá. Từ năm 1988, các HTX đã đưa 20 mẫu ao hồ thả cá giao cho các đội sản xuất kinh doanh tập thể và giao khoán ước tính mỗi năm thu được từ 14 – 15 tấn cá các loại. Đó là chưa kể nguồn cá thiên nhiên và nhân dân nuôi thả.

Phong trào trồng cây lấy gỗ và cây ăn quả vẫn được duy trì, đội trồng cây được củng cố, chỉ tính năm 1986 xã trồng được trên 10.000 cây. Thực hiện Nghị quyết của cấp trên, Đảng bộ và nhân dân xã Tân Hồng đã xây dựng “ vườn quả Bác Hồ” gồm 5 mẫu với 1.35 cây các loại. Hàng năm HTX đã thu hoạch ở vườn quả Bác Hồ hàng chục triệu đồng. Đến năm 1988 các vườn ươm tập thể đã giải thể, giao về cho thôn đấu thầu.

Về ngành nghề của HTX được duy trì và từng bước phát triển. Về sản xuất vật liệu xây dựng, HTX vẫn duy trì 2 lò gạch với công suất 12 – 15 vạn viên/năm. Số gạch trên đã cung cấp cho xã xây dựng các công trình tập thể và bán cho các gia đình xã viên, xây dựng, tu sửa nhà cửa. Từ năm 1989 – 1990 HTX đã tổ chức khoán đấu thầu. Nhưng do điều kiện sản xuất khó khăn, giá cả bấp bênh, người nhận đấu thầu thua lỗ và xin thanh lý hợp đồng trước thời hạn.

HTX mua bán thường xuyên được Đảng bộ quan tâm củng cố. Trong khi hàng hàng hoá của Nhà nước cung cấp xuống có hạn, Cửa hàng đã chuyển mạnh sang kinh doanh ngoài kế hoạch, bước đầu đã đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân trong xã. Tuy nhiên, do cơ chế bao cấp khá lâu, cho nên khi hàng hoá mang về xã bán chậm, ứ đọng. Số tiền vay nợ Ngân hàng, lãi mỗi năm một tăng. HTX mua bán thua lỗ tới hàng triệu đồng. Từ đầu năm 1990 Thường vụ Đảng uỷ và UBND đã xem xét cụ thể tình hình kinh doanh đã chỉ đạo HTX mua bán tiến hành khoán gọn cho cá nhân, mỗi tháng nộp ngân sách 900.000đồng.

HTX tín dụng hoạt động đều và làm tốt chức năng của ngành, đảm bảo yêu cầu phục vụ sản xuất. Trong 5 năm qua (1986 – 1990) HTX tín dụng đã tổ chức và tuyên truyền các đợt vận động gửi tiền tiết kiệm hướng vào các ngày kỷ niệm, ngày lễ lớn của đất nước. Nhiều gia đình đã tự nguyện gửi tiền tiết kiệm thường xuyên. Ban tín dụng đã thực hiện tốt nguyên tắc thanh toán sòng phẳng với người gửi. Số gửi tiền tiết kiệm mỗi năm một tăng. Bình quân đầu người gần 60 đồng: Năm 1985 là 586.000 đồng đến 30/8/1988 là 6.815.815 đồng. Đặc biệt xã phát động phong trào xây dựng quỹ bảo thọ và có bước phát triển mạnh. Quỹ bảo thọ đến năm 1989 có 354.764 đồng.

Về cuộc vận động mua bán công trái xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Các năm 1983, 1984 đã được cán bộ, đảng viên, nhân dân trong xã hưởng ứng tích cực, tổng số tiền công trái là 83.500 đồng.

Chỉ sau 2 năm thực hiện Nghị quyết 10, tỷ lệ đọng sản phẩm trong nhân dân giảm mạnh so với năm trước. Mức đóng góp cho Nhà nước hoàn thành 100% kế hoạch.

Có thắng lợi trên là do Đảng bộ, chính quyền xã thực hiện nghiêm túc đường lối đổi mới của Đảng mà nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 14 của Ban thường vụ Tỉnh uỷ, Nghị quyết 28 của Tỉnh uỷ là minh chứng rõ nhất. Điều quan trọng trong cơ chế mới là hộ gia đình nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, sáng tạo trên phần ruộng khoán của mình, và bước đầu sản xuất theo cơ chế thị trường (sản xuất hàng hoá).

Thực hiện công cuộc đổi mới trên lĩnh vực kinh tế, Tân Hồng đã từng bước đổi mới cơ chế quản lý, bước đầu xóa bỏ cung cách làm việc hành chính quan liêu, khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần, khuyến khích phát triển vườn cây, ao cá, sắp xếp những người buôn bán nhỏ, mở chợ theo sự chỉ đạo thống nhất của Đảng uỷ, chính quyền địa phương góp phần ổn định trật tự trong sản xuất và lưu thông.

Sau hơn 4 năm (1986 - 1990) thực hiện 3 chương trình kinh tế của Đảng, đã khẳng định chủ trương, biện pháp đổi mới là hoàn toàn đứng đắn, phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương. Nhìn chung sản xuất đang chuyển đổi, hướng sản xuất hàng hoá với nhiều thành phần kinh tế tham gia, bước đầu huy động tiềm năng về vốn, kỹ thuật và lao động của mọi thành phần kinh tế.

Tuy nhiên trong lãnh đạo và chỉ đạo, đội ngũ cán bộ lãnh đạo thôn còn bộc lộ một số mặt hạn chế, một số cơ sở ngành nghề phụ hoạt động kém hiệu quả, hoặc đứng trước nguy cơ thua lỗ. Ngược lại kinh tế tư nhân phát triển mạnh, các hàng quán trong xã bung ra nhưng sự quản lý của Nhà nước địa phương còn buông lỏng.

Công tác xây dựng Đảng được coi trọng. Đảng bộ đã nắm vững quan điểm nội dung công tác tư tưởng vận dụng vào hoàn cảnh thực tế địa phương định hướng đúng đắn cho đảng viên, và nhân dân, cho nên trong những năm 1989 - 1990, tình hình của xã có lúc gặp khó khăn... Nhưng đó chỉ là số ít, còn đại đa số đảng viên và tâm tư nguyện vọng của nhân dân mong muốn sớm có ổn định chính trị, đoàn kết xây dựng toàn xã là một HTX phù hợp với thực tế.

Nhằm tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, được sự chỉ đạo của Ban thường vụ Tỉnh uỷ, mùa thu năm 1991, Đại hội đại biểu huyện đã vạch ra phương hướng và nhiệm vụ trong 5 năm 1991 - 1995 là “Đảng bộ và nhân dân trong huyện quyết vượt qua khó khăn thử thách, từng bước ổn định đời sống nhân dân trên cơ sở phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị và an toàn xã hội, tạo tiền đề phát triển mọi mặt với nhịp độ cao hơn những năm qua”.

Xuất phát từ tình hình thực tế địa phương, căn cứ vào chủ trương chung do Đại hội đảng bộ huyện đề ra, dưới sự chỉ đạo của Ban thường vụ huyện uỷ Cẩm Bình, Đại hội đảng bộ xã lần thứ XV xã Tân Hồng (nhiệm kỳ 1991-1993) đã được tiến hành, Đại hội họp vào ngày 26 và 27 tháng 12 năm 1991, tại hội trường UBND xã. Tổng số đại biểu chính thức có 133 đồng chí thay mặt cho 222 đảng viên toàn đảng bộ Dự và chỉ đạo đại hội ở huyện có các đồng chí: trong Ban thường vụ huyện uỷ, các đồng chí lãnh đạo các ban ngành trong huyện.

Đại hội tập trung vào việc quán triệt đường lối đổi mới của Đảng thể hiện trong các nghị quyết Trung ương, thảo luận nghị quyết đại hội đảng bộ huyện. Đại hội đề cập sâu sắc đến công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội và đưa chủ trương của Đảng vào cuộc sống. Đại hội Đảng bộ xã vạch ra phương hướng và các mục tiêu kinh tế- xã hội, trong đó mục tiêu sản xuất nông nghiêp lương thực, thực phẩm; mục tiêu phát triển ngành chăn nuôi được coi trọng. Đại hội nhấn mạnh đưa các hoạt động kinh tế, dịch vụ đi vào kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Quán triệt và vận dụng các mục tiêu tổng quát của Đại hội Đảng các cấp, Đại hội Đảng bộ xã xác định mục tiêu cụ thể là: Tập trung cao nhất của Đảng bộ và nhân dân để thực hiện 4 chương trình kinh tế - xã hội. Chính vì vậy Đại hội xác định mục tiêu cụ thể: Tập trung sự cố gắng cao nhất của đảng bộ và nhân dân để thực hiện 4 chương trình kinh tế - xã hội: lương thực, thực phẩm, xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu trên cơ sở mở rộng diện tích canh tác, xoay vòng tăng vụ, để thu hút nhiều lao động, phấn đấu đến năm 1992 - 1993 tổng sản lượng lương thực toàn xã đạt trên 3.500 tấn, bình quân đầu người 400kg/năm. Giảm tỷ lệ phát triển dân số dưới mức 1,5%/năm.

Đại hội đề ra những nhiệm vụ chủ yếu nhằm tiếp tục đổi mới, ổn định phát triển kinh tế xã hội. Đại hội đi sâu phân tích và đề ra các giải pháp cho việc tiếp tục thực hiện nghị quyết 10 của Bộ chính trị, nghị quyết 14 của Ban thường vụ tỉnh uỷ và nghị quyết 28 của tỉnh uỷ về đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp; chuyển dần sang sản xuất hàng hoá nhằm giải quyết tốt nhu cầu về lương thực, phấn đấu không để hộ đói, thu hẹp hộ nghèo, đẩy mạnh kinh tế gia đình theo mô hình VAC; khuyến khích chăn nuôi, thực hiện chương trình tiêm chủng cho trẻ em; làm tốt cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, xây dựng gia đình văn hoá, nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể quần chúng; nâng cao chất lượng hoạt động chi bộ; tăng cường kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.

Đại hội lần thứ XV bầu 11 đồng chí vào ban chấp hành Đảng bộ, đồng chí Vũ Ngọc Giao được bầu làm bí thư, đồng chí Phạm Văn Tin Phó Bí thư - Chủ tịch UBND xã.:

Sau đại hội, công cuộc đổi mới của Đảng càng đi vào đời sống và từng bước làm cho tình hình địa phương phát triển, mối quan hệ xã hội ngày càng lành mạnh. Dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân hoạt động, bộ mặt nông thôn có sự thay đổi rõ rệt.

Tháng 4/1992 Tỉnh uỷ ra nghị quyết 03 giao quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân. Theo Nghị quyết 03, người nông dân có quyền tự chủ phần ruộng đất được HTX giao khoán, có trách nhiệm nộp thuế cho Nhà nước trả công quản lý cho hợp tác xã và thanh toán các khoản dịch vụ khác. Đảng bộ đã lãnh đạo việc tiếp tục thực hiện nghị quyết 10 của Bộ chính trị phổ biến nghị quyết Trung ương 5 và nghị quyết 03 của Tỉnh uỷ đến từng người dân.

Quá trình triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết 03 của Tỉnh uỷ cũng là quá trình sản xuất nông nghiệp của xã mỗi ngày một phát triển. Đặc biệt cơ chế khoán 10 được phát huy tác dụng tốt, hộ gia đình được tự chủ trong sản xuất và kinh doanh, lại có định hướng lãnh đạo của đảng uỷ, sự chỉ đạo của uỷ ban và ban quản lý HTX nông nghiệp, nên tình hình sản xuất nông nghiệp trong xã phát triển toàn diện, hệ thống thuỷ nông ngày một hoàn thiện. Hàng năm xã tập trung hàng ngàn lao động cho công tác thuỷ lợi nội đồng, tiến hành nạo vét kênh mương, ấp trúc bờ vùng bờ thửa. Những nơi khó khăn về nước tưới đã được khai thác kịp thời bằng những con mương nhỏ. Mùa mưa xã chỉ tập trung vào những nơi xung yếu, khoanh vùng chống úng giữ an toàn cho hàng trăm mẫu lúa và rau mầu.

Cho nên, tổng diện tích gieo trồng toàn xã hai vụ lúa các năm 1991 đến 1993 đạt 100% kế hoach năm, bằng trên 900ha; bình quân lương thực đầu người đạt 500kg/người/năm. Hàng năm có từ 400 đến 500 tấn lương thực hàng hoá.

Về chăn nuôi tiếp tục có sự phát triển: năm 1992 có 230 con trâu bò, 40.000 con gia cầm với sản lượng trên 200 tấn thịt, bình quân đầu người là 30kg/năm. Phong trào nuôi thả cá phát triển mạnh, hầu hết diện tích hồ ao, sông lạch được tận dụng nuôi thả cá. Điểm nổi bật trong giai đoạn này là các hộ gia đình cải tạo vườn tạp, kinh tế VAC thực sự là một bộ phận quan trọng và kinh tế vườn đã mang lại hiệu quả cao, nhiều hộ gia đình đã trở nên giàu có nhờ kinh tế vườn, hàng năm thu từ kinh tế vườn 300 triệu đến trên 400 triệu đồng. Do vậy phong trào cải tạo vườn tạp phát triển mạnh.

Thực hiện chương trình hành động nghị quyết Trung ương 5 (khoá V) của Đảng về nông nghiệp nông thôn và nông dân, Đảng bộ lãnh đạo chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đã quy hoạch được hàng chục mẫu đất canh tác bấp bênh sang làm vườn, lập ao thả cá.

Mặt khác, công tác quản lý vật tư, cơ sở sản xuất, lao động đã giao khoán cho cơ sở quản lý và điều hành dưới sự chỉ đạo và giám sát của ban quản lý hợp tác xã, do đó nâng cao được trách nhiệm, giảm bớt chi phí đóng góp của người lao động. Khâu làm đất được đảng uỷ chỉ đạo chặt chẽ nên giá cả phù hợp, chất lượng tốt, thời gian đảm bảo. Chính vì vậy, cơ sở hạ tầng trong xã phát triển mạnh: Hệ thống điện lưới ngày một hoàn chỉnh, hầu hết các hộ gia đình được dùng điện thắp sáng. Hệ thống đường giao thông nông thôn đã được cải tạo nâng cấp, trong 2 năm 1992-1993 đã trải đá được hàng km đường liên thôn, liên xã, xây dựng cống tiêu nước và toàn bộ hệ thống cống dẫn nước trên các cánh đồng với giá trị hàng chục triệu đồng

Trong những năm 1992-1993 mặc dù điều kiện còn khó khăn, song Đảng uỷ, HĐND, UBND xã đã tập trung lãnh đạo xây dựng hệ thống truyền thanh xã phủ khắp tới các thôn xóm. Qua đó đời sống tinh thần cũng như vật chất của nhân dân trong xã đã được cải thiện rõ rệt, số hộ có nhà xây mái bằng phát trển mạnh, số hộ nghèo giảm.

Nhằm từng bước củng cố và hoàn thiện cơ chế khoán mới, dưới sự chỉ đạo của Ban thường vụ huyện uỷ, ngày15 và 16 tháng 12 năm 1993 Đảng bộ xã Tân Hồng tiến hành Đại hội lần thứ XVI, có 140 đại biểu chính thức đại diện cho trên 262 đảng viên về dự đại hội.

Sau khi phân tích tình hình thực hiện nghị quyết đại hội lần thứ XV, Đại hội lần này xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong 2 năm 1994-1995 là: Tập trung thực hiện cho được chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cơ cấu kinh tế nông thôn, quan trọng hàng đầu là thực hiện 4 chương trình kinh tế - xã hội (lương thực, thực phẩm, sản xuất nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn mới); Khai thác tốt nhất năng lực sản suất, khả năng tiềm lực của mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình; mở mang ngành nghề dịch vụ nông thôn thu hút lao động tại chỗ; cải thiện một bước điều kiện nhà ở, đi lại, chữa bệnh, đẩy lùi, hạn chế những mặt tiêu cực, bảo đảm an ninh chính trị, an toàn xã hội; khuyến khích các ngành nghề phát triển theo định hướng chung của Nhà nước.

Trên cơ sở mục tiêu chung, Đại hội đề ra một số biện pháp chỉ đạo, xác định sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Đầu tư đúng mức để đưa năng suất lúa lên 70-90 tạ/ha/năm; Bình quân lương thực đầu người từ 450 - 500kg/năm. Tiếp tục nâng cấp và hoàn thiện hệ thống điện lưới và đường giao thông ...

Đảng bộ tiếp tục lãnh đạo thực hiện nghị quyết 03 của Ban thường vụ Tỉnh uỷ (giao quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân); tiếp tục thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi và thực hiện nghị định 364 CP về hoạch định địa giới đất hành chính. Đại hội nhất trí việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng thực hiện mục tiêu đến năm 2000.

Về tổ chức: Đại hội xác định phải kiện toàn bộ máy quản lý gọn, đội ngũ cán bộ phải có năng lực, có tinh thần trách nhiệm để đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ của công tác đổi mới.

Sắp xếp lại tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ dịch vụ trong HTX. Thay đổi thường xuyên các loại giống, chú trọng đến công tác bảo vệ thực vật. Trong sản xuất kinh doanh phải phục vụ tốt cho nhu cầu tăng trưởng kinh tế, mở rộng kinh doanh, liên kết để tiêu thụ sản phẩm trong nông dân.

Đại hội bầu 11 đồng chí vào ban chấp hành Đảng bộ, bầu 3 đồng chí vào thường vụ đảng uỷ, đồng chí Vũ Xuân Đoàn được bầu làm bí thư, đồng chí Phạm Văn Tin Phó Bí thư Đảng uỷ - Chủ tịch UBND xã.

Sau đại hội Đảng bộ, khí thế đổi mới mọi mặt trong xã tiếp tục được đẩy mạnh. Nghị quyết Trung ương Đảng 3, 4, 5 (khoá VII) và nghị quyết 03 của Thường vụ tỉnh uỷ thực sự đi vào cuộc sống. Từ trong Đảng ra ngoài quần chúng đều tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng.

Với truyền thống chủ động khắc phục khó khăn phấn đấu giành nhiều thành tích trên các mặt kinh tế - xã hội. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế - xã hội trong những năm 1994-1995 do đại hội Đảng bộ lần thứ XVI đề ra đều đạt và vượt, tinh thần lao động sản xuất trong nhân dân được nâng cao.

Tổng sản sản lượng lương thực bình quân trong hai năm 1994-1995 là 3.500 tấn, năng suất bình quân đạt trên 70 kg/ha/năm tăng so với năm 1992-1993. Giá trị sản phẩm xã hội bình quân đầu người là trên 1.500.000 đ, tăng 13% so với năm 1993.

Lương thực bình quân đầu người năm 1995 là trên 510 kg/người, tăng so với năm 1994.

Tỷ lệ phát triển dân số: 1,6%/năm.

Về sản xuất nông nghiệp là lĩnh vực có ưu thế truyền thống của xã. Nông dân có trình độ canh tác, tiếp thu khoa học - kỹ thuật, biết tổ chức vụ mùa hợp lý, xen canh gối vụ liên tục, tạo ra giá trị lớn trên một đơn vị diện tích canh tác. Tổng giá trị nông nghiệp năm 1994 chiếm tỷ trọng 80% tổng sản phẩm xã hội. Qua thực tế cho thấy: canh tác 2 vụ lúa/ năm chỉ đạt 12 triệu đồng đến 14 triệu đồng/năm. Nếu cấy 2 vụ lúa một vụ đông; một vụ lúa 3 vụ màu thì đạt trên 20 triệu đồng/ ha/năm.

Tổng diện tích canh tác toàn xã hai vụ lúa là trên 980 ha, trong đó diện tích trồng lúa chiếm trên 89%. Hệ số sử dụng đất trong năm là 2,5 vòng .

Về chăn nuôi: tổng đàn lợn đến năm 1995 có gần 2.000 con, trên 200 con trâu bò, trên 25,000 con gia cầm, mỗi năm cho sản lượng thịt trên 150 tấn, bình quân đầu người trên 30kg/năm. Toàn xã có hàng chục mẫu mặt ao hồ nuôi thả cá, bình quân mỗi sào ao ước thu 50 kg cá. Tổng sản lượng hàng năm đạt hàng chục tấn cá. Có thể khẳng định, trong những năm 1994- 1995 dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, sự chỉ đạo của chính quyền xã ngành chăn nuôi trong xã có bước phát trển mới nhiều hộ gia đình đã tích cự đầu tư chiều sâu nâng cao chất lượng đàn lợn, lựa chọn giống lợn có tỷ lệ nạc cao. Mặt khác xã mở rộng dịch vụ thú y, tuyên truyền và thực hiện tốt pháp lệnh thú y đảm bảo an toàn cho đàn gia súc gia cầm

Năm 1994 - 1995 là hai năm kinh tế vườn trong xã có bước chuyển mạnh mẽ. Nhiều hộ nông dân đã tổ chức cải tạo vườn, loại bỏ cây tạp để trồng những cây có giá trị kinh tế cao: như cây chuối, cây chanh, cây cam, cây vải, nhãn…

Sản xuất nông nghiệp có bước chuyển dịch cơ cấu tích cực; giảm tỷ trọng lương thực đẩy nhanh rau quả và chăn nuôi gắn với thị trường cho hiệu quả kinh tế cao và tổng giá trị lớn. Các hộ nhận thầu đã đầu tư hàng chục triệu đồng cho việc đào đắp lập ao thả cá và trồng các giống cây con, trong hai năm 1994-1995 toàn xã đã chuyển đổi được hàng chục ha đất cấy lúa bấp bênh sang làm kinh tế vườn, ..

Nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ từ năm 1993 có tốc độ chuyển biến nhanh, từ con số rất thấp đến năm 1995 nó đã đạt trên gần 1 tỷ đồng. Toàn xã có hàng trăm lao động ngành nghề và làm dịch vụ buôn bán nhỏ mỗi năm cũng thu về hàng trăm triệu đồng cho giá trị tới trên 12% tổng sản phẩm xã hội. Toàn xã có hàng chục hộ làm nghề mộc, rèn, trên 50 hộ làm các ngành nghề khác, một số hộ có xe công nông, có máy suốt lúa, có máy xay xát, có máy đóng gạch, có máy bơm nước, máy cày.

Nhờ có công cuộc đổi mới, người dân lao động Tân Hồng đã chủ động, sáng tạo làm ra nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế, giải quyết việc làm tại chỗ và phân công lại lao động ngay từ hộ nông dân, ngay trên địa bàn xã và bước đầu đi vào chuyên môn hoá từng việc trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn. Cũng chính từ đó mà cơ cấu kinh tế nông thôn của xã đã hình thành rõ nét.



Xây dựng kết cấu hạ tầng: trong hai năm 1994 - 1995, xã đã biết tận dụng các nguồn thu, tiết kiệm chi những việc chưa cần thiết, đã tập trung đầu tư vốn vào xây dựng cơ sở hạ tầng, gồm nhà ở, đường giao thông, điện, trường học, nhà trẻ, trạm y tế cầu cống... Tổng vốn đầu tư là hàng trăm triệu đồng, trong đó nhân dân đóng góp trên 50%, còn lại là ngân sách xã và HTX. Cho đến năm 1995 toàn xã đã có trên 60% đường liên thôn, liên xã được bê tông hoá, có trên 80% số hộ có nhà xây cơ bản, bình quân mỗi gia đình có 1 xe đạp, 93% số gia đình có đài (kể cả cacsete), nhiều hộ gia đình có ti vi. Hầu hết các gia đình có tiện nghi trong nhà như bàn, ghế, giường tủ, chăn màn. Xã đã quy hoạch khu trung tâm văn hoá thương mại xã, bước đầu cải tạo trụ sở làm việc của đảng uỷ, UBND và HTX nông nghiệp, từng bước nâng cấp trạm xá, trường học.

Có kết quả trên là do Đảng uỷ, chính quyền xã biết vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, với những phương châm “thu lấy mà chi, nhà nước, địa phương, nhân dân cùng đóng góp vốn để xây dựng”. Đảng bộ luôn lấy mục tiêu: phục vụ con người, phục vụ phát triển kinh tế ở địa phương là chính. Từ quan điểm trên, Đảng bộ đã lãnh đạo, động viên phát động quần chúng, tập trung vốn tự có, vốn dân góp, tranh thủ nguồn vốn của trên và vốn bên B đầu tư vào công trình.

Xuất phát từ thực tế địa phương Đảng bộ có hướng lãnh đạo việc tổ chức lại các loại hình hợp tác xã dịch vụ kiểu mới theo tinh thần nghị quyết 21 của Tỉnh uỷ. bằng việc thành lập tổ dịch vụ quản lý điện dân dụng liên thôn, tổ liên hệ dịch vụ xay xát vật tư nông nghiệp, liên gia đình làm dịch vụ khâu làm đất, tuốt lúa, đóng gạch, vận tải tiêu thụ nông sản.

Công tác xoá đói giảm nghèo được Đảng bộ, chính quyền hết sức quan tâm, cho đến năm 1995 toàn xã chỉ còn 12% hộ nghèo. Hộ giầu ngày một nhiều, hộ khá chiếm đa số trong dân cư, đã chấm dứt tình trạng thiếu đói lúc giáp hạt. Một bộ phận nhân dân có thu nhập cao nhờ năng động trong sản xuất và kinh doanh. Các gia đình chính sách được quan tâm chăm lo, trong những năm 1994 -1995 xã đã vận động quyên góp và tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa với số tiền hàng triệu đồng. Hàng năm xã trợ cấp đối tượng 202 bằng lương thực.

Hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao, thông tin tuyên truyền được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo, do vậy đã khơi dậy các phong trào hoạt động của quần chúng, trong đó môn bóng chuyền có nhiều người tham gia.

Đảng bộ cũng đã trích ngân sách đặt mua báo, tạp chí bản tin để kịp thời đưa thông tin xuống cơ sở. Các hoạt động văn hoá địa phương đã đi vào nề nếp, những tập quán hủ tục cũ được ngăn chặn, cái mới nảy sinh do vậy dân trí được nâng lên hàng ngày.

Cùng với nhiệm vụ xây dựng kinh tế, phát triển sản xuất, Đảng bộ còn coi trọng việc phát động phong trào xây dựng nền văn hoá mới, con người mới XHCN, phong trào nếp sống văn minh, gia đình văn hoá mới được duy trì. Từ năm 1987, do tác động của trào lưu xã hội, phim ảnh... lối sống xa hoa, lãng phí đã tác động trực tiếp đến nhân dân trong xã. Đám cưới, đám tang đã có phần rườm rà tốn kém. Học sinh có một số em bỏ học: đạo đức, tư tưởng xã hội chủ nghĩa phần nào bị xói mòn trước những khó khăn của địa phương.

Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự nghiệp giáo dục xã trong những năm 1994 - 1995 có bước phát triển mạnh mẽ. Số lượng học sinh năm sau cao hơn năm trước, số lượng học sinh bỏ học giảm, chất lượng dậy và học của Nhà trường tốt đồng đều

Do có sự quan tâm chỉ đạo của Đảng bộ và chính quyền địa phương, cơ sở vật chất cho dạy và học của trường được xã đầu tư đúng mức, từng bước đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục địa phương

Nhà trẻ, mẫu giáo duy trì ở các thôn, xã và HTX đầu tư hàng triệu đồng cho xây dựng cơ bản và thường xuyên trang bị dụng cụ đồ dùng cho các nhà trẻ mẫu giáo, bình quân có từ 85% đến 90% số cháu tới lớp mẫu giáo. Số giáo viên có trên chục cô, được đào tạo bồi dưỡng hàng năm. Nhà trẻ số cháu tới lớp đạt trên 35%, được huyện xếp vào loại khá trong huyện.

Về giáo dục phổ thông được duy trì và phát triển, số học sinh, số lớp mỗi năm một tăng. Đội ngũ giáo viên có từ 33 - 35 thầy cô giáo, nhà trường ngoài Ban giám hiệu, Ban chấp hành chi đoàn thanh niên cộng sản, còn thành lập một chi bộ Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, trực tiếp là chi bộ nhà trường, đội ngũ giáo viên đã có nhiều cố gắng, tận tuỵ với nghề nghiệp và học sinh của mình. Do vậy số học sinh lên lớp bình quân hàng năm đều đạt từ 90 – 93%. Thi tốt nghiệp đạt từ 95 - 97%. Trong 5 năm (1986-1990) Đảng bộ thường xuyên chăm lo đến việc xây dựng cơ sở vật chất cho các nhà trên tinh thần: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Vì vậy cơ sở vật chất cuả nhà trường hàng năm đều được tăng cường, phòng học được tu bổ và sửa chữa kịp thời. Năm 1989 làm mới và tu bổ 15 gian nhà lợp ngói, đóng trên 30 bộ bàn ghế.

Niên khoá 1990 - 1991 theo sự chỉ đạo của cấp trên, trường PTCS lại tách ra làm 2 cấp: trường Tiểu hoc và trường THCS. Sau khi tách, đảng uỷ cùng chính quyền đã kết hợp và ngành chuyên môn huyện, xã ổn định tổ chức, địa điểm cùng các phương tiện dạy và học, bảo đảm hoạt động bình thường, mối quan hệ nhà trường, đoàn thể và gia đình đã làm được ngày càng tốt hơn. Sau khi ổn định về mặt tổ chức nhà trường: tiểu học và trung học cơ sở, các trường phát động phong trào "Giáo viên giỏi việc trường, đảm việc nhà". Với sự cố gắng của thầy giáo và học sinh, từ năm học 1990 – 1991, trường tiểu học và trường THCS đạt danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc của huyện.

Song song với công tác giáo dục phổ thông, phong trào học BTVH, mẫu giáo, nhóm trẻ được Đảng bộ quan tâm đúng mức. Đảng bộ đã lãnh đạo chính quyền, HTX đầu tư hàng trăm triệu đồng để xây dựng tu bổ cơ sở vật chất, xây dựng mới 30 gian nhà ngói, cùng một số nhà cũ được sửa sang lại ở 4 thôn. Mặt khác hàng năm cử các cô mẫu giáo, nhóm trẻ đi dự các lớp huấn luyện nghiệp vụ chuyên môn. Số cháu hàng ngày đến lớp mẫu giáo nhóm trẻ có từ 300 – 350 cháu.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, xã đã đầu tư xây dựng đài truyền thanh với công suất thiết kế 25w, đủ máy thu thanh, phương tiện phục vụ cùng hệ thống thông tin đại chúng hiện đại để tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cùng tình hình hoạt động ở địa phương.

Trạm y tế xã hàng năm khám và chữa bệnh cho hàng trăm lượt người, xã không để xảy ra dịch lớn, các bệnh xã hội được ngăn chặn, bệnh phong đã được thanh toán, 75% số hộ có 3 công trình vệ sinh. Đội ngũ thầy thuốc đã phát huy được trách nhiệm, mạng lưới y tế xuống đến tận thôn xóm. Đã hoàn thành xuất sắc công tác tiêm chủng mở rộng. Thực hiện nghị quyết đại hội đảng bộ, Hội đồng nhân dân và UBND xã đã có nghị quyết đề ra chương trình hành động giảm tỷ lệ phát triển dân số xuống dưới 1,8%/năm. Chính vì vậy công tác kế hoạch hoá gia đình được các cấp các ngành thực hiện nghiêm túc, nhiều chị đặt vòng tránh thai, đình sản, kết quả trong số đó đặt vòng cho 721 chị em (kể cả từ trước), 201 ca nạo hút thai. Hầu hét chị em trong xã hưởng ứng phong trào mỗi cặp vợ chồng chỉ đẻ 2 con, đến nam 1995 tỷ lệ phát triển dân số xuống 1,7%/ năm, tỷ lệ người sinh con thứ 3 giảm nhanh.

Nhận thức được vị trí chiến lược của hai nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng hiện nay là: Xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đảng bộ và nhân dân thường xuyên quan tâm xây dựng lực lượng dân quân, công an thôn, xã, đồng thời tuyên truyền vận động nhân dân nêu cao tinh thần cách mạng, sẵn sàng chiến đấu, giữ vững an ninh trật tự trong thôn xã. Đồng thời làm tốt chính sách hậu phương quân đội và hoàn thành nhiệm vụ tuyển quân. Lực lượng dân quân tự vệ thường xuyên được củng cố. Hầu hết anh em thanh niên trong độ tuổi nghĩa vụ đều đi khám tuyển. Hàng trăm thanh niên đã lên đường nhập ngũ. Năm nào cũng vượt chỉ tiêu trên giao. Do làm tốt công tác các mặt công tác trên, đơn vị dân quân tự vệ xã đã giữ vững đơn vị dân quân quyết thắng.

Ngày 19-5-1990 Hội cựu chiến binh xã được thành lập do đồng chí Vũ Đăng Nụ làm Chủ tịch Lâm thời, ngày 16-12-1990 Đại hội lần thứ Nhất, đồng chí Nụ được bầu làm Chủ tịch, sau khi ra đời, Hội đã có nhiều hoạt động sôi nổi, góp phần thúc đẩy mọi mặt công tác địa phương đạt kết quả tốt.

Cùng với củng cố lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng công an cũng thường xuyên củng cố. Qua từng khoá HĐND xã, UBND xã thường xuyên sắp xếp tổ chức lực lượng công an từng thôn, mỗi thôn có từ 1 – 2 anh em. Lực lượng công an phối hợp với lực lượng dân quân bảo vệ trật tự trị an, nhất là các dịp tết, ngày lễ, ngày bầu cử. Do có sự quan tâm của Đảng bộ, hai lực lượng tự vệ và công an đã làm tốt nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính trị, an toàn xã hội ở địa phương. Từ những kết quả trên, xã Tân Hồng từ những năm 1984 - 1985 được cấp trên công nhận trao cờ quyết thắng: Về xây dựng lực lượng và phong trào an ninh nhân dân, và cho đến các năm 1989 - 1990, 1991-1995 vẫn được công nhận là đơn vị “quyết thắng”.

Đảng bộ và nhân dân Tân Hồng luôn nhận thức đầy đủ. Toàn xã có 714 anh em bộ đội, phục viên xuất ngũ, 15 anh em bộ đội tái ngũ, 42 anh chị em là thương binh, liệt sĩ cả 3 thời kỳ: 119 đ/c (chống Pháp, chống Mỹ, chống quân bành trướng).

Đảng bộ và chính quyền đã thực hiện chính sách xã hội, ưu tiên, ưu đãi đối với gia đình thương binh, liệt sĩ, thực hiện “ăn quả nhớ người trồng cây” và “đền ơn đáp nghĩa”. Trong công tác khoán 10, HTX đã giành gần 10 mẫu ruộng để ưu tiên các gia đình liệt sĩ. Hầu hết anh em bộ đội phực viên, xuất ngũ đều ổn định về kinh tế và gia đình. Nhiều anh chị em đã được đi bồi dưỡng ở các trường lý luận của tỉnh và huyện, giữ các chức vụ trọng trách của địa phương. Năm 1985 Đảng bộ và nhân dân Tân Hồng đã tổ chức rước hài cốt của các liệt sĩ từ nghĩa trang liệt sĩ xã Thái Học về nghĩa trang liệt sĩ của xã tại khu trung tâm. Năm 1987 Đảng uỷ xã đề nghị với cấp trên cấp huân chương chống Mỹ cứu nước cho gia đình liệt sĩ.

Đảng bộ xã Tân Hồng thường xuyên lấy nhiệm vụ chính trị của địa phương để giáo dục tư tưởng và tổ chức hành động cách mạng từ trong Đảng đến chính quyền và các đoàn thể quần chúng, nhằm củng cố phong trào ngày một vững mạnh. Đảng bộ đã tăng cường công tác Nhà nước XHCN bằng các cuộc vận động bầu cử Quốc hội Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Công tác xây dựng Đảng trong nhiều năm qua đã được các chi bộ, tổ đảng trong đảng bộ thực hiện nghiêm túc. Đảng bộ tổ chức quán triệt nghị quyết Trung ương 3 và nghị quyết 08 của Tỉnh uỷ về đổi mới và chỉnh đốn đảng. Đảng bộ đã lấy mục tiêu cơ sở đảng trong sạch vững mạnh để phấn đấu. Hàng năm chất lượng đội ngũ đảng viên được giữ vững. Công tác kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng được tiến hành thường xuyên. Chỉ tính trong 2 năm 1993-1994 đảng bộ đã xử lý kỷ luật: khai trừ, xoá tên, cảnh cáo... Công tác phát triển đảng viên mới tiếp tục được coi trọng.

Tuy nhiên trong những năm 1981-1995, qua các kỳ đại hội Đảng bộ và triển khai thực hiện nghị quyết đại hội, bên cạnh những thành tích đạt được thì vẫn còn tồn tại yếu kém, đó là: Sản xuất vẫn phát triển chậm, việc tiếp thu tiến bộ khoa học-kỹ thuật còn hạn chế, năng suất lúa còn ở dưới mức trung bình trong huyện. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi chưa tương xứng với tiềm năng trong xã, công tác quản lý đất đai còn nhiều thiếu sót...

Nhằm đánh giá những thành tích giành đuợc trong nhiệm kỳ XVI (1993-1995), dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Huyện uỷ, Đại hội Đảng bộ Tân Hồng lần thứ XVII được tiến hành vào ngày 28 tháng 12 năm 1995. Về dự đại hội có 138 đại biểu đại diện cho 268 đảng viên toàn đảng bộ.

Phát huy những thành tích đã đạt được, khắc phục những mặt còn tồn tại, Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XVII quyết định phương hướng, mục tiêu trong nhiệm kỳ 1996 - 2000:

Đại hội xác định: Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Tân Hồng có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn. Căn cứ vào tình hình thực tế địa phương Đại hội nhấn mạnh: Phải tích cực chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá; khai thác mọi khả năng đất đai, sông ngòi, ao hồ, sức lao động và nguồn vốn; phát triển kinh tế đa dạng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường thành vùng có nhiều cây có giá trị kinh tế cao. Đảm bảo chắc thắng 2 vụ lúa, một vụ màu, chuyển một phần diện tích cấy lúa bấp bênh sang lập ao thả cá lập vườn trồng cây. Phấn đấu đến năm 1997 và năm 2000:

Một số chỉ tiêu cụ thể:

- Năm 1996- 1997: Dành 15% diện tích chuyển từ cấy lúa sang trồng cây màu luân canh và cây xuất khẩu, phấn đấu bình quân đạt 35 triệu đồng/ha. Đến năm 2000, đưa 25% tổng diện tích canh tác sang luân canh trồng màu, phấn đấu đạt bình quân 45 triệu đồng/ha.

Năm 1997, phấn đấu năng suất lúa đạt trên 8 tấn/ha, tổng sản lượng đạt trên 4.000 tấn đến 4.300 tấn/vụ/năm.

Năm 1998- 2000, diện tích hai vụ lúa đạt 470 ha, năng suất đạt 90 tạ/ha. Tổng sản lượng đạt trên 4.000 tấn lương thực. Mở rộng diện tích trồng màu vụ đông với giá trị từ 7 đến 8 triệu đồng/ha.

Sản xuất đi đôi với xây dựng thị trường tại chỗ, đồng thời tìm thị trường, tạo điều kiện tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Tổng đàn lợn, phấn đấu bình quân mỗi năm nuôi từ 1700 - 1800 con, tổng đàn lợn nái có trên 250 con/năm.

Phấn đấu đến năm 2000, mỗi gia đình có một lao động ngành nghề.

Về xây dựng kết cấu hạ tầng: Mục tiêu đến năm 2000 giữ vững phương châm "tập thể và nhân dân cùng làm", tranh thủ thu hút nguồn vốn đầu tư của Nhà nước... Xây dựng các công trình phục vụ dân sinh. Cơ bản hoàn chỉnh hệ thống giao thông nông thôn, làm đường liên thôn bằng vật liệu cứng; nâng cấp trạm xá; quy hoạch và xây dựng lại chợ; tiếp tục xây dựng và quy hoạch lại nơi làm việc tại trụ sở UBND xã; xây dựng nghĩa trang liệt sỹ; cải tạo và tu bổ nhà trẻ mẫu giáo; tiếp tục tu sửa hệ thống thông tin truyền thanh, nâng cấp máy phát; phấn đấu đến năm 2000 xây cao tầng trường học cấp I, II; chuyển đổi một phần diện tích đất, dãn dân cư; ấp trúc và tôn cao tuyến đê vùng.

Đại hội bầu 11 đồng chí vào BCH đảng bộ khoá mới. Đồng chí Vũ Xuân Đoàn được bầu làm Bí thư đảng uỷ, đồng chí Phạm Văn Tin phó Bí thư - Chủ tịch UBND xã, đồng chí Vũ Xuân Côi thường vụ đảng uỷ trưởng ban tổ chức.

Để triển khai thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế xã hội trong những năm 1996 - 2000, Đảng bộ coi trọng công tác xây dựng Đảng, do vậy đã tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhiệm vụ lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội do các kỳ đại hội Đảng bộ xã đề ra. Các cấp uỷ Đảng đã quan tâm đến nhiệm vụ giáo dục chính trị, tư tưởng, nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ đảng viên về công cuộc đổi mới của Đảng trong bối cảnh các đảng anh em ở các nước Đông Âu bị tan rã.

Các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII các Nghị quyết kỳ họp của Ban chấp hành Trung ương và các nghị quyết, chỉ thị của Tỉnh uỷ, Huyện uỷ đã bồi dưỡng nhận thức và củng cố thêm lòng tin cho đảng viên và nhân dân. Trên cơ sở đó Đảng uỷ, chính quyền địa phương đã chỉ đạo giải quyết một cách chủ động hiệu quả, làm cho tình hình chính trị, kinh tế trong xã ngày một bắt nhịp với công cuộc đổi mới chung của đất nước. Đảng bộ đã hoàn thiện hệ thống sổ sách theo dõi đảng viên, sổ ghi nghị quyết của từng chi bộ. Chế độ giao ban hàng tháng của bí thư chi bộ được tiến hành đều đặn.

Đảng bộ thực hiện tốt công tác đưa thông tin xuống cơ sở. Công tác kiểm tra đảng viên được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc. Đảng bộ kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm.

Cùng với việc ra đời và thực hiện quy chế làm việc của các cấp uỷ đảng, các chi bộ, chi uỷ ngày được củng cố thêm, bổ sung đảng viên có đủ đức đủ tài vào cấp uỷ. Chế độ sinh hoạt đấu tranh phê bình được duy trì thường xuyên.

Đảng bộ luôn tập trung xây dựng cơ sở chi bộ, giải quyết chi bộ yếu kém. Đến năm 2000 hầu hết các chi bộ đều hoàn thành được nhiệm vụ lãnh đạo đối với các đơn vị thôn, được BCH Đảng bộ đề nghị huyện uỷ xét công nhận chi bộ khá. Đảng bộ đã tổ chức quán triệt và triển khai cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn đảng theo tinh thần Nghị quyết TW 6 lần 2.

Thực hiện sự chỉ đạo của các cấp, đặc biệt là Huyện uỷ về việc triển khai quán triệt Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Đảng bộ đã tổ chức học tập tới cán bộ, đảng viên trong toàn đảng bộ. Nhờ chuẩn bị chu đáo, thực hiện đầy đủ quy trình theo hướng dẫn của Huyện uỷ nên đã đạt những kết quả khá. 100% đảng viên ở các chi bộ đều có bản tự kiểm điểm đọc trước chi bộ. Ngoài ra còn có ý kiến đóng góp xây dựng chi bộ và giúp đảng viên tiến bộ. Kết quả phân tích chất lượng: trong tổng số đảng viên dự phân loại: 215/226 đồng chí dự phân loại, vắng 11 đồng chí có lý do. Kết quả có 214/215 đồng chí đủ tư cách bằng 93,5%, trong đó đủ tư cách loại I là 128 đ/c= 59,8%; 86 đ/c đủ tư cách loại II = 40%, có 01 đ/c vi phạm tư cách = 0,5% đã xử lý bằng hình thức khiển trách.

Sau phân loại, với tinh thần cởi mở, giúp nhau cùng tiến bộ, các chi bộ đã phân tích làm rõ những vi phạm của những đảng viên loại 3 đưa ra hình thức kỷ luật mang tính giáo dục.

Kết quả bước đầu thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) đã giải quyết những dư luận, vướng mắc thời gian qua trong đảng bộ và nhân dân. Góp phần tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong Đảng.

Công tác tuyên truyền được coi trọng cả về nội dung, đa dạng về hình thức như: quán triệt trực tiếp tại các hội nghị, buổi sinh hoạt, thông tin trên hệ thống truyền thanh. Mặt khác công tác giáo dục truyền thống cách mạng thường được gắn với các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn. Trên cơ sở đó phát động các phong trào thi đua và vận động nhân dân tích cực lao động sản xuất, xây dựng quê hương. Tư năm 1996 đền năm 1999, Đảng bộ đã 100% lượt cán bộ đảng viên giữ các chức vụ chi uỷ viên, uỷ viên uỷ ban kiểm tra được đi bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ tại trường tỉnh và trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện. Đảng bộ đã cử .... đồng chí đi học đại học, .. đồng chí đi học lớp trung cấp lý luận.

Về quản lý đảng viên: Các chi bộ duy trì thường xuyên việc sinh hoạt hàng tháng, thu hút từ 80 - 85% đảng viên tham gia. Chế độ miễn hoãn sinh hoạt, phân công giao nhiệm vụ cho đảng viên được thực hiện đúng theo điều lệ. Đại đa số đảng viên trong đảng bộ đều phát huy được tính đảng, gương mẫu trong công tác và lao động sản xuất trong lối sống và việc chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

Công tác kiểm tra nhằm giữ gìn kỷ luật trong Đảng luôn được đảng bộ quan tâm chỉ đạo và tiến hành thường xuyên. Nội dung kiểm tra tập trung vào việc kế hoạch ra nghị quyết của chi bộ, đảng viên thực hiện nghị quyết, thu nộp đảng phí, thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước, quy định của địa phương và kiểm tra những đảng viên có dấu hiệu vi phạm, kiểm tra theo đơn thư khiếu nại tố cáo. Qua đó góp phần nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng.

Phong trào xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh được các chi bộ đăng ký nhưng kết quả thực hiện không cao. Không có chi bộ yếu kém, có 5 chi bộ đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh (6, 7, 8, 9, 10) và 6 chi bộ đạt loại khá (1, 2, 3, 4, 5, 11). Chính quyền đạt loại khá, Đảng bộ đạt loại khá.

Về công tác tổ chức, Đảng bộ đã tăng cường bồi dưỡng, giúp đỡ cán bộ đảng viên, hàng năm có quy hoạch cán bộ để bổ sung cấp uỷ, thay thế các đồng chí tuổi cao, năng lực hạn chế. Thực hiện nghị quyết 27 của Tỉnh uỷ về “Một số vấn đề cấp bách về công tác xây dựng Đảng”, Đảng bộ đã liên hệ kiểm điểm phân loại đảng viên. Năm 1981 Đảng bộ triển khai thực hiện Chỉ thị 83 của Ban Bí thư TW Đảng về phát thẻ đảng viên, dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, Đảng bộ tiến hành đánh giá, phân loại đảng viên đủ tư cách đề nghị phát thẻ đảng. Với trên 120 đảng viên, đợt một đã có gần 80% số đảng viên được phát thẻ đảng. Tổng số đảng viên năm 1982 có 129 đảng viên, năm 1989 có 223 đảng viên. Tổng số có 11 chi bộ trong đó 10 chi bộ sản xuất, 1 chi bộ nhà trường. Đến tháng 8/1988 do điều kiện thực tế ở địa phương. Huyện uỷ quyết định tách Đảng bộ để thành lập thành 2 đảng bộ bộ phận để tiện cho việc chỉ đạo.

Công tác phát triển đảng viờn mới được quan tâm. Đảng bộ đã giáo dục, bồi dưỡng và cho đi học cảm tình Đảng hàng chục đoàn viên, cán bộ. Tính từ năm 1981 - 1990 kết nạp được 43 đảng viên mới, từ năm 1996 đến năm 2000 kết nạp được 19 đảng viên mới.

Nhằm đẩy mạnh công tác quần chúng, Đảng bộ luôn luôn bám sát yêu cầu nghị quyết của Trung ương và chỉ đạo của tỉnh, của huyện để xây dựng mối đoàn kết giữa các đoàn thể chính trị xã hội tại địa phương. Qua đó tạo điều kiện cho các đoàn thể tự khẳng định vai trò, tổ chức của mình đối với công cuộc đổi mới của đất nước, biết gắn mọi hoạt động vào nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế xã hội tại địa phương với tổ chức mình và lợi ích của hội viên. Do vậy các đoàn thể đi vào hoạt động thực chất hơn, tìm ra được mũi nhọn hoạt động phù hợp với tổ chức và đoàn thể.

Mặt trận Tổ quốc đã tập hợp các tầng lớp nhân dân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân để xây dựng và bảo vệ quê hương. Động viên nhân dân tích cực lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, góp phần xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Mặt trận Tổ quốc đã xây dựng quy chế hoạt động phối kết hợp với Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã học tập quy chế dân chủ, luật bầu cử Hội đồng nhân dân và triển khai 5 nội dung cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, đồng thời phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã xây dựng quy ước về lành mạnh hóa việc cưới, việc tang, lễ hội, bài trừ các hủ tục mê tín dị đoan. Sau xây dựng đã tổ chức hướng dẫn nhân dân thực hiện có hiệu quả. Mặt trân TQ xã làm nòng cốt trong phong trào "xoá nhà tranh tre vách đất", phong trào đền ơn đáp nghĩa. Mặt trận đóng vai trò chủ yếu trong việc thành lập và hoạt động của Hội người cao tuổi. Đồng thời phối hợp với ban công an xã giáo dục những người lầm lỗi trở thành lương thiện; xây dựng củng cố được tổ hòa giải, hàng năm hóa giải từ 15 đến 20 vụ việc.

Các ban ngành đoàn thể phối hợp với Mặt trận xã vận động quyên góp quỹ đền ơn đáp nghĩa được hàng triệu đồng, giúp cho các đối tượng chính sách xã hội có điều kiện xoá nhà tranh tre vách đất. Tặng sổ tình nghĩa, thăm hỏi trợ cấp cho các đối tượng bị nhiễm chất độc màu da cam, các cháu tật nguyền cô đơn. hưởng ứng tốt cuộc vận động quyên góp ủng hộ đồng bào miền Trung bị lũ lụt trên hàng triệu đồng, được quan tâm thực hiện kịp thời, thể hiện truyền thống tốt đẹp thắm đượm tình người.

Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh xã có phong trào “Thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước”, phong trào "Thanh niên tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng", phong trào sản xuất kinh doanh giỏi, nên hàng năm đã thu hút được hầu hết số thanh niên vào sinh hoạt Đoàn. Nhiều thanh niên sáng tạo, chủ động đầu tư, vay vốn để sản xuất làm dịch vụ xay xát, mua máy cày làm đất, đấu thầu vườn ao, xây dựng vườn cây đặc sản, làm dịch vụ chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, sản xuất vật liệu xây dựng...

Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh xã đã thực sự phát huy vai trò xung kích tuổi trẻ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương.

Hội phụ nữ xã đã thu nạp được trên một ngàn hội viên từ 16 đến 50 tuổi vào sinh hoạt hội, xây dựng quỹ hội và tiếp tục thu nạp hội viên mới. Mặt khác chị em phụ nữ trong xã cũng tích cực hưởng ứng 2 cuộc vận động "Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình, nuôi dạy con tốt, hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học"; từ năm 1995 là phong trào thi đua: Phụ nữ tích cực học tập lao động, sáng tạo và xây dựng gia đình hạnh phúc và 6 chương trình trọng tâm của hội, đã thu hút đông đảo hội viên tham gia vào tổ chức hội. Toàn xã có trên 95% số cán bộ hội viên tham gia và có 98% số gia đình đăng ký xây dựng gia đình 4 chuẩn mực. Mặt khác, Hội còn làm tốt công tác tình nghĩa: nhận đỡ đầu các mẹ liệt sĩ và may áo tặng các mẹ trị giá hàng trăm ngàn đồng, duy trì tốt việc thăm động viên các gia đình chính sách nhân dịp lễ, tết. Đặc biệt, hội đã làm tốt công tác vận động hội viên thực hiện việc sinh đẻ có kế hoạch, góp phần quan trọng giảm tỷ lệ phát triển dân số toàn xã xuống còn 1%/năm 2000.

Đảng uỷ, chính quyền ngày càng quan tâm chăm sóc các gia đình liệt sĩ, anh em thương binh, bệnh binh, cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ về hưu mất sức.

Hội cựu chiến binh xã được thành lập vào năm 1990, đồng chí Vũ Đăng Nụ làm hội trưởng lâm thời. Từ năm 1990 đến năm 2000, hội Cựu chiến binh xã đã tiến hành đại hội 2 khoá: (tháng 5 năm 1990 đến tháng 01 năm 1994 khoá I. Từ 01 năm 1994 đến tháng 9 năm 2001 khoá II), do đồng chí Vũ Đăng Nụ làm Chủ tịch hội. Tổ chức tuy mới mẻ, nhưng ngay sau ngày ra đời đã thu hút nhiều hội viên tham gia. Hoạt động của hội có chất lượng, có hiệu quả trong các phong trào: “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”. Hội tích cực tham gia vào công tác trật tự trị an, tuyển quân, giáo dục thế hệ trẻ trong xã. Số đảng viên trong hội chiếm tới trên 70%, trong đó có đồng chí 40 tuổi Đảng. Hội cựu chiến binh xã thực sự được nhân dân tin yêu. Ban chấp hành hội gồm các chiến sĩ chống Pháp, chống Mỹ năm xưa có đầy nhiệt tình cách mạng.

Hội nông dân là tổ chức có số hội viên đông đảo nhất trong xã, hoạt động với hình thức tuyên truyền và vận động nhân dân chấp hành chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nội quy của hội gắn liền với việc thực hiện nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, nghị quyết 03 của Ban thường vụ Tỉnh uỷ và nghị quyết 5 của Hội nghị BCH Trung ương Đảng (khoá VII).

Xác định vai trò chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của chính quyền cơ sở là nơi tổ chức, thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị của cấp trên đến mọi người dân, do vậy trong những năm qua việc thực hiện quy chế làm việc giữa Mặt trận Tổ quốc xã với Uỷ ban nhân dân xã được duy trì nghiêm túc.

Cùng với công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ xã còn coi trọng công tác xây dựng chính quyền. Trong suốt nhiệm kỳ, bộ máy nhà nước HĐND, UBND xã luôn ổn định. Hoạt động của Hội đồng nhân dân đảm bảo chức năng, quyền hạn theo luật định. Uỷ ban nhân dân xã phát huy được hiệu quả hoạt động trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng.

Thực hiện quyết định của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Đảng bộ xã đã lãnh đạo nhân dân trong xã tiến hành cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân ba cấp. Từ năm 1975 đến năm 1989 mỗi khoá HĐND là 2 năm rưỡi và từ năm 1989 đến năm 1999 khoá HĐND là 5 năm khoá 12: (8/1981 đến 4/1984); Khoá 13 từ 4/1984 - 11/1989; khoá 14 từ 11/1989 đến 1994); Khoá 15 từ 1994-1999; Khoá 16 từ 1999 - 2004 bầu cử HĐND xã vào ngày 18 tháng 11 năm 1989, có 21 đại biểu được bầu, ông Vũ Xuân Đoàn, Bí thư Đảng uỷ được bầu Chủ tịch HĐND xã.

Uỷ ban nhân dân xã hàng năm có sơ kết công tác chỉ đạo từng quý, 6 tháng và tổng kết năm. Uỷ ban xây dựng quy chế, công khai kế hoạch, công tác và lịch trực tiếp dân, để mọi người biết thực hiện.

Tuy nhiên trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, bên cạnh những thành tích, Đảng bộ Tân Hồng vẫn còn những tồn tại nhất định mà trong văn kiện Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XVII đã chỉ rõ.

Sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, vai trò của cán bộ, quản lý và điều hành của chính quyền, cũng như đoàn thể chính trị đối với sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội, chưa ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra. Phương thức lãnh đạo của cấp uỷ chưa thực sự đổi mới, một số chỉ tiêu Đảng bộ đề ra thực hện kết quả chưa cao.

Công tác kiểm tra, thanh tra chưa làm được nhiều, đấu tranh ngăn chặn chống mọi biểu hiện hữu huynh, né tránh, xử lý chưa nghiêm.

Hiệu lực quản lý của chính quyền xã, thôn còn yếu nhất là quản lý Nhà nước theo pháp luật. Quản lý chuyên môn còn rơi vào sự vụ, sự việc chưa theo kịp với phương hướng cải cách hành chính.




tải về 2.06 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương