Morris S. Engel Engel, Morris S



tải về 9.25 Mb.
trang3/15
Chuyển đổi dữ liệu13.05.2018
Kích9.25 Mb.
#38191
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   15

4. Loại B Sự Dông Dài
Tranh luận theo diễn đt phổ biến thưng bị ng víu bởi những lần lặp lại, dông dài, và không minh bạch. Để nhìn thấy rõ hơn những tranh luận như thế là gì cần thiết phải làm sạch những thứ mục ruỗng khỏi nó. Thnh thoảng điều này cũng dính tới việc lờ đi những lời giới thiệu khá dài dòng ging như ví dụ dưi đây ch dẫn cổ điển về việc bán hàng của Og Mandino Ngưi Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới
a) Ngày hôm nay, tôi sẽ làm chủ cảm xúc của mình. Thuỷ triều lên, thuỷ triều xuống. Mùa đông đi mùa đến. Cái nóng giảm đi lạnh tăng dần. Mặt trời mọc, và mặt trời lại lặn. Trăng tròn rồi lại khuyết. Con chim bay lên rồi lại hạ xuống. Hoa nở rồi hoa tàn. Hạt giống được reo rắc và rồi mùa màng được thu hoạch. Tât c tự nhiên một vòng tuần hoàn các trạng thái tôi cũng một phần của tự nhiên. do thế, giống như thuỷ triều, tâm trạng của tôi sẽ hưng phấn tâm trạng s ảm đạm. Ngày hôm nay, tôi sẽ làm chủ cảm xúc của mình.

Những gì tranh luận này thừa nhận đưc chứa trong từ câu thứ hai đến câu cuối cùng của nó. “Tất cả tự nhiên là một vòng tuần hoàn các trng thái và tôi cũng là một phần của tự nhiên. Và do thế tâm trạng của tôi sẽ hưng phấn và tâm trạng của tôi sẽ ảm đm” Với mục đích để đánh giá có lo-gic, tất cả những gì đưc đưa ra trước không ăn nhập, tuy nhiên li rt hay và có thể suy tưng ra từ nó.
Những gì lời gii thiệu đề cập đến mà kết luận cũng đề cập như thế thì có thể

không cần thiết phi nhắc li những gì đã đưc công bố đầy đủ. Ví dụ trên là một điển hình của những nhắc li không cần thiết. phải ba câu cuối của đoạn văn nói lên đưc điều gì mà chúng chưa đưc nhắc đến ở phía trưc không?


b) Điều quan trọng bn phải nghiên cứu c quyển sách này với s cẩn thận . quan bảo hiểm liên bang nơi phụ trách các k thi v bảo hiểm luôn thực hiện trách nhiệm của họ một cách nghiêm túc để bảo v cộng đồng khỏi nhng người không đủ trình độ. Vì lý do đó, các k thi v bảo hiểm cuộc sống không thể dễ dàng đỗ qua. Nhng người phụ trách trong tương lai đã nghiên cu một cách hời

hợt thường ngạc nhiên khi biết rằng họ đã thi trượt. May mắn là, nhng người phụ



trách trong tương lai đó nhng người đã đủ trình độ đã tiến hành nghiên cứu với s quyết tâm cao hơn đã thi đỗ trong các dịp vớt. Khi cuộc thi không được coi là dễ dàng, chúng cũng không bị coi khó một cách lý. Mục đích của k thi kim tra kiến thc của bạn v một loại thông tin trong sách. Nếu mà bạn đã nghiên cứu thông suốt thì bn s cơ hội để đỗ. Tuy nhiên tờng thì một ví dụ dài dòng một cách giản đơn cần phải rút gọn triệt để trước khi cấu trúc của thể xem xét một cách ràng như dụ v hút thuốc lá đã được nêu ra trên. Trước khi nhng tranh luận kiểu này thể thể được đánh giá xác đáng, chúng cần phải được viết lại càng trong sáng càng tốt nhng tiền đề và kết luận được sắp xếp theo trật tự lo-gic.
Sửa lại hai tranh luận đưc nêu ra trong những câu dài lê thê, chúng ta phát hiện ra rằng chúng cơ bản đề cp đến những điều sau:
a) Tất c tự nhiên một vòng tuần hoàn các trạng thái; tôi một phần của tự nhiên; do vậy tôi cũng phải chấp nhận s thật tôi cũng ph thuộc vào sự dao động của tâm trạng.
b) Nhng k thi v bảo hiểm không d dàng vượt qua nếu không s chuẩn bị

k càng. Vì thế, để chính bản thân bn chuẩn bị chúng đúng mc, hãy mua đọc quyển sách này cẩn thận.
Trong việc loại bỏ những rưm khỏi các tranh luận, chúng ta sẽ phi loại bỏ một vài thứ thơ thẩn, bóng bẩy của nguyên bản. Đây là một sự hy sinh, tuy nhiên chúng ta cần phải làm để đạt đưc sự trong sáng của lo-gic.
Những tranh luận mà có tính lặp li với rt nhiều từ, hoặc chứa các mệnh đề không ăn nhập nói chung thưng thất bi trong việc đưa ra những ý nghĩa chủ đạo. Để đạt đưc một tranh luận thực sự, những sự rườm ra cần phải bị loại bỏ.

Nói chung, những cm từ hay mệnh đề không cn thiết thường đưc chứa trong phần giới thiệu hay kết luận. Thông thưng, những từ vô nghĩa cần phải loại bỏ hoàn toàn, và tranh lun sẽ đưc cu trúc lại để có một trật tự lo-gic.



5. Nhng B Phn Khuyết Thiếu
Như chúng ta thấy, cấu trúc cơ bản của một tranh luận thưng bị che dấu bởi sự rưm rà, chúng ta cần phải loi bỏ những thứ đó, vì thế những tiền đề và kết luận thể xuất hiện hơn trưc chúng ta. Nhưng cấu trúc của một tranh luận cũng có thể bị che khuất bởi chúng ta (như là hậu quả của việc đnh hưng sai và lầm lẫn) bởi vì nó quá rời rạc và có bộ phận bị bỏ quên. Những tranh luận như thế này có thể gây m ĩ hơn như

chúng vẫn thưng thế bởi vì chúng ta không nhận biết các giả thiết quan trọng đưc chúng thuyết lập và chúng dựa vào đó để tồn tại. Những giả thuyết này cần phải đưc đào lên nếu như bị ẩn đi, hoặc phải làm rõ ràng nếu như không đưc diễn đạt. Mỗi lần chúng đưc làm rõ ràng, sẽ dễ dàng hơn để làm sáng tỏ vai trò ca các bộ phn bị bỏ quên này (những giả thuyết) trong lập luận và để đo mức độ mà tranh luận phụ thuộc và nó. Sẽ dễ dàng hơn để tìm ra những bộ phận khuyết thiếu cuả một tranh luận nếu chúng ta theo dõi, trong nhiều cuộc tranh luận, những luận điểm hỗ trợ đưc đưa ra chứa đng mệnh đề của một nguyên lý cơ bản và đưc đưa ra như là bằng chứng cho kết luận viện dẫn của một tình huống. Sau đó, kết luận suy diễn ra rằng nhng gì đúng với nguyên lý cơ bản thì cũng đúng với tình huống của câu hỏi. Sau đây là một ví dụ cổ điển:


a) Tất c đàn ông đều phải chết. Socrates mt người đàn ông (tình huống). Socrates s phải chết (kết luận)
Trong tình huống trên, ví dụ là của Aristote (Số 27) và của Samuel Johnson (Số 28) rất phù hợp với kiểu mẫu này. Bằng cách rút gọn và đặt chúng đúng dạng lo-gic, những gì bạn thu được sẽ giống như dưi đây:
b) Hạnh phúc nhng bạn cn. Một trong nhng thứ bạn cần bn bè. Vì thế, để hạnh phúc, bạn cần bạn bè.
c) Thi ca là một nghệ thuật thể bắt chước.Thơ ca siêu hình học không thể bắt chước. vậy thơ ca siêu hình học không phải thi ca.
Vì thế, những cuộc tranh luận siêu hình học theo loại này có thể thiếu hoặc là mệnh

đề của nguyên lý chung (trong lo-gic, đưc gọi là tiền đ), hoặc là sự tham khảo đầy đủ cho tình hung của câu hoi (tiền đề phụ), hoặc là sự suy diễn (kết luận). Có một vài ví dụ như sau:


d) Đây nhng thc ăn tự nhiên thế tốt cho bạn.
Phần đưc loại bỏ ở đây là tiền đề chính: tất cả những thức ăn tự nhiên stốt cho bạn. (chỉ dẫn bộ phận bị bỏ quên):
Tất cả những thức ăn t nhiên tt cho bạn. Đây là những thức ăn tự nhiên. Những thức ăn này tốt cho bạn.

e) Bạn s một giáo tuyệt vi. N bạn biết, nhng người thích trẻ em luôn luôn làm được điều này.


Ở đây, phần đưc lưc bỏ là tiền đề phụ: bạn rt thích trẻ em.
Tất cả những ai thích tr em đều là những cô giáo tốt. Bạn thích trẻ con. Bạn sẽ là cô mẫu giáo tuyệt vi.
f) “Yon Cassius một cái nhìn đói khát thèm thuồng; nhng người đàn ông như vậy rất nguy hiểm”
Ở đây, phần bị lưc bỏ là kết luận: Cassius là nguy hiểm.
Tất cả những ai có cái nhìn đói khát và thèm thuồng là nguy him. Cassius có cái nhìn như vậy. Cassius là nguy hiểm.
Không phải tất cả những loại bỏ như vậy là tự nhiên, hoặc là đưc thực hin để đạt đưc sự bóng bẩy văn chương hoặc vắn tắt. Thông thưng những gì đưc loại bỏ đều có tính gây nghi vấn cao và thưng đưc loại bỏ rất có ý đồ:
g) Đây chắc chắn một quyển sách hay; được Câu Lạc Bộ Nhng Quyển

Sách Bán Chạy nhất hàng tháng chọn.


Những gì còn lại không đưc tuyên bố ở đây là tiền đề chính: tt cả những quyển sách đưc Câu Lạc Bộ chọn là những quyển sách hay. Vì lý do dễ hiểu đó, tuyên bố một cách rõ ràng là thu hút sự chú ý và nó sẽ trở thành những thách thức của các câu hi. Cũng tương tự đúng như thế cho hai ví dụ i đây:
h) Tất c chất cồn đều rút ngắn cuc sống, thế Jim s không sống lâu.
i) Kẻ hèn nhát luôn đáng khinh miệt, đây ràng một trường hợp của s hèn nhát.
Mặc dù trong những trưng hợp ngn như vậy, những bộ phận khuyết thiếu thưng dễ dàng làm tư duy chuyển đột ngột hoạt động, nó vẫn là một lợi đim, trong suy nghĩ của ngưi tranh luận, không xác đnh chúng rõ ràng, do đó làm thế một lần nữa là thu hút sự chú ý và thách thức những phản đối.
Càng khó để cắt nghĩa, và càng xa những thói thông thưng, những ví dụ càng dài và càng rắm rối. Thnh thoảng, chúng có những cơ hội lớn hơn để tạo ra ảnh hưng, dẫn dụ và vì lý do này một nỗ lực lớn hơn phải làm để ẩn đi những gi thuyết mà tranh luận đng trên đấy. Bi vì những tranh luận thưng phức tp hơn về mt động từ nên dễ dàng để mất dấu những bộ phận khuyết thiếu. Sau đây là một quảng cáo về băng với những dòng đơn

sơ:
j) Hầu hết mọi người đu cảm thấy cô đơn vào lúc nào đó do nhiều thứ đây một trạng thái song nh bất biến. T nhng đứa trẻ mới cảm thấy không có bạn cho đến nhng ngưòi già cảm thấy tha thãi trong tâm trạng trống vắng lạnh lẽo. Nhng đa trẻ mới lớn thường cảm thấy chúng chẳng ai nhng đa



mới trưởng thành cảm thấy không bạn cả. Đoạn ghi lại nổi bt này không chỉ nhng tin tc đáng quan tâm còn chứa đng cách tiếp cận chủ động để giải quyết s trống rỗng này.
Diễn đạt lại đoạn tranh luận này, chúng ta phát hiện ra rằng nó khẳng đnh những

điều sau:


Mọi người đều phải chịu đng s cô đơn.
Đoạn ghi này một phương thuốc cho sự đơn.
Đoạn ghi này s khuây khoả s đơn của bạn.
Điều mà chúng ta bây giờ có thể nhìn thấy là kết luận đã bị bỏ qua. Diễn đạt nó một cách trong sáng có thdấy lên câu hỏi trong tâm trí người khác. Thậm chí nếu sự tht là đoạn ghi này đã giúp những ngưi khác, liệu nó có thể giúp tôi không?
Tất nhiên là không phải tất cả những lưc bỏ loi này có thể gây ra ngờ vc. Thưng thì một ngưi sẽ loại bỏ một bộ phận bi vì nó quá là rõ ràng đ diễn đạt rõ ràng. Thnh thoảng ngưi ta cũng loại bỏ một bộ phận bởi vì các lý do xúc động, và thnh thoảng cũng bởi vì ngưi ta mong muốn đưc chăm sóc và quan tâm. Trong ví dụ về gia cm, chúng ta đưc thông tin là để kích thích tăng trưng và tăng ng đề kháng, bây gi gia cầm đưc nuôi ăn và chăm sóc với các liều lưng thuốc lớn chứa nhiều những hoá chất nguy him. Kết luận rút ra là, cần phải khôn ngoan hơn để phát hiện nguy hiểm tng đưc đề cập đơn giản do những cách chăn nuôi mới và kinh doanh mới đi với chúng ta. Nó đã không đưc tuyên bố minh bạch.
Nếu như đây là tt cả những gì, thì những do dự đó có thể đưc bảo vệ khỏi những quan điểm khoa học hoc những quy đnh của pháp luật. Tuy nhiên về lo-gic, chúng ta nên luôn luôn làm rõ quan điểm để biết đưc cái gì đang đưc khẳng đnh và chúng ta đang đưc yêu cu tán thành cái gì.
Một vài tranh luận rt khó để đánh giá bởi vì chúng thiếu một hay nhiều những nhân tố cần thiết để làm thành một tranh luận chc chắn.
Chúng ta phải phân tích những tranh luận đó cẩn thận để quyết đnh những giả thuyết nào chúng ẩn đi, những nhân tố nào khuyết thiếu: tiền đề chính, tiền đề phụ hoặc kết luận.
Thnh thoảng những bộ phận của mt tranh luận có thể đưc c bỏ bởi những nguyên nhân hợp lệ. Nhưng chúng ta phải làm rõ và đánh giá trong các tình huống để quyết đnh sức mạnh tổng thể của một tranh luận.
Tìm kiếm những bộ phận khuyết thiếu theo phương pháp tam đoạn luận.
Những bộ phận khuyết thiếu rt có thể đưc tìm thấy dễ dàng bằng cách nhận biết rằng rt nhiu tranh luận của chúng ta đều theo dng tam đoạn luận cổ điển của Aristotle, đây là một ví dụ về nó:

[phần giữa] [phần chính] Tất cả đàn ông đều phải chết

----------- [phần giữa] Socrates đàn ông.

[ý phụ] ---- [ý chính] Socrates phải chết.

Những tranh luận như thế chứa ba hoặc duy nhất ba bộ phận chính hoặc thuật ngữ. Trong ví dụ trên, đó là Socrates, cái chết tất yếu, và đàn ông. Chủ đề của kết luận của một tranh luận như thế đưc goi là thuật ngữ phụ, khẳng đnh lo-gic của kết luận đưc gọi là thuật ngữ chính, và thut ngữ còn lại, cái mà xuất hiện trong mỗi tiền đề ca tranh luận nhưng không trong kết luận đưc gọi là thuật ngữ chuyển tiếp. (Chú ý rng từ “xác nhận” trong văn cảnh này đưc dùng khác với khi chúng ta dùng để thảo luận về ngữ pháp). Tranh luận chỉ ra rằng làm thế nào mà từ chủ ngữ (Socrates) và từ xác nhn mang tính lo- gic (phi chết) lại liên kết với nhau thông qua cách thức mà mỗi từ liên kết với từ trung gian (đàn ông).
Dù chỉ biết chút ít về phương pháp tam đoạn luận cổ điển, chúng ta có thể tìm ra những phần khuyết thiếu của chúng khá đơn giản. Ví dụ, trong tranh luận Đây là những thức ăn t nhiên, vì thế chúng tốt cho bạn” có thể thiết lập theo phương pháp tam đoạn luận như sau:
……………………. [phần giữa] Những thức ăn này là thức ăn tự nhiên.

[ý phụ]…………..[ý chính] Những thức ăn này tốt cho bạn.

Sáng tỏ ngay lập tức phần khuyết thiếu phải là cái gì: một tin đề chứa đựng thuật ngữ chính và thuật ngữ trung gian. Phần khuyết thiếu là: tt cả những thức ăn tự nhiên (từ trung gian) là tốt cho bạn (phần chính).

6. Làm Ni Bật nhng Thành Phần Kh Nghi
Trong hoàn cảnh của tranh luận, một thành phần bị nghi ngờ nếu nó đưc nêu ra để chuyển ti nhiều điều n khả năng của nó. Những thành phn như thế thưng khơi gợi những nghi ngờ của chúng ta, nhưng lại có xu hưng để li cho chúng ta những mất mát để làm thế nào đáp trả. Chúng ta sẽ kim tra chúng một cách rt chi tiết trong phần 2. Tuy nhiên, bởi vì những thành phần đáng nghi li có mặt khắp nơi và thưng gây những ảnh hưng mạnh mẽ đến chúng ta, nên điều rất quan trọng là chúng ta biết rõ về chúng một

cách sớm ngay từ những điểm đầu tiên trong công việc của chúng ta về việc tranh lun.



Để quyết định một tranh luận có cha những thành phần đáng nghi hay không, chúng ta cần hỏi những câu hỏi như: từ ngữ của tranh luận này có sáng sủa để chúng ta biết chắc chắn những gì bản thân anh ta hay cô ta cam kết? Có phải những sự thật đưc trình bày để hỗ trợ hiệu quả của kết luận như là một hỗ tr? Chúng có thích đáng không? Chúng ta có chấp nhận chúng là đúng không? Cụ thể hơn, những minh hoạ có thích hợp không? Chúng có ý nghĩa không? Và ở mức độ nào? Những vấn đề đáng đưc xây dựng hơn là

đơn giản quẳng vào sọt rác của nhng thứ phát ngán?


Ví dụ hãy đề cập đến lá thư gửi cho biên tập cho buổi nhậm chức Tổng Thống:
“Để đáp lại nhng thư phản đối việc trình bày phô trương sử dụng tiền nong sai mục đích quá đáng để thc hiện lễ nhậm chc của Tổng Thống, tôi muốn nhắc nhở nhng người phản đối rằng từ nhng thời điểm không th ghi nhớ, quần chúng sùng bái đã chào mng nhng người nh đạo chính quyền hết sức trang trọng. Vậy thì tại sao Tng Thống ca liên bang lại nên tổ chc buổi lễ của ông văn phòng trong trang phục đáng vt đi bụi bặm? Vẻ tráng lệ nghi lễ sự thể hiện của quần áo lộng lẫy, trang sc, đồ lông thú nhng thứ rc r khác đã đi vào lịch sử như một phần không thể thiếu của nhng lễ đăng quang, không chỉ Quốc Gia Hoa K còn hầu hết nhng nơi của thế giới tự do.
Điều mà ngưi viết tht bại là khi sự thực là Tổng Thống và những ngưi lãnh đạo của “thế gii tự do” là lãnh đạo của chính quyền, có một điều khác bit thiết yếu giữa Tổng Thống của Hoa K và các lãnh đạo của các quc gia khác. Khi văn phòng của Tổng Thống đưc thành lập, cuộc cách mạng của ngưi Mỹ là nỗi đau đầu của nhà vua; họ đã không có dự đnh thành lập một thể chế quân chủ với chức vị Tổng Thống thay thế vua. Không

giống như các chế độ quân chủ, Tổng Thống đưc lựa chọn bằng bỏ phiếu của quần chúng và bị coi là ngưi đầy t của nhân dân. Vì thế sẽ không có chuyện dùng làm lễ nhm chức của Tổng Thống rênh rang và hậu hỹ như đưc tổ chức cho các lãnh đạo chính quyền khác. Bài báo sau cũng có tính nghi vấn tương tự, nhưng vì những lý do khác:


“Trước nhất ông Thompson, ông ng ông thằng quái o? Ai cho ông cái quyền tối cao trong cuộc sống cái trường đại học này? Phải chính ông, cũng giống như bất c ai, đã cho mình cái quyền làm theo ý mình, nhưng nhng lời bình phẩm giáo dục ngu ngốc của ông đáng được giới hạn Bởi Ban Điều Tra Quốc Gia. Sự tấn công nghĩa của ông vào hệ thống người Hy Lạp của

trường đại học một tiếng tăm hiếm có việc trẻ con nhất, lố bịch nhất, đấy còn là không đề cập đến phn ngu xuẩn thc s của văn phong nhng trang này đã được in rất lâu. Thái độ trẻ con của ông không ch xúc phạm đến mọi thành viên của Row còn toàn thể cái trường đại học này. Mặc cái đầu óc trẻ con của ông từ chối tha nhận nó, trường đại học này trong thc tế rất tự hào v cộng đồng của người Hy Lạp đây thậm c c với nhng nhược điểm của nó.”


Hơn là kể cho chúng ta quan điểm của ông Thompson là gì và chúng sai đâu, ngưi viết đã lao vào cuộc tấn công cá nhân, đơn giản bằng cách xổ ra n thnh nộ khinh miệt của anh ta. Bằng cách gọi những quan sát của đi thủ là “không có giáo dc", "ngu ngốc,” “vô nghĩa”, “lố bch,” vv…, chẳng kể cho chúng ta điều gì về lời bình phẩm kia cả, và cùng chẳng vì sao mà người viết cho là chúng không có giá tr.

Chúng ta chẳng cần phải là bậc thầy trong nghệ thuật lập luận cũng biết rng sự đúng đắn của chúng ta trong tranh luận . Vì thế, chúng ta không nên chần chừ trong việc yêu cầu bằng chứng khi một phần trình bày hay giải thích dưng như quá bừa bãi hoc đáng ngờ. Ví dụ, hãy xem xét phần tranh luận ca ngưi đưc uỷ quyền bảo vệ trong tình huống lạm dụng trẻ em ở trưng McMartin đưc báo cáo dưi đây:


Một nhân chứng mưi tuổi trong vụ quấy rối ở trưng trung học cơ sở McMartin đã bình nh nhlại ngày thứ ba đến ba lần kể từ khi cậu bị cho là thủ phạm giết một con ngựa một tuần trưc đó khi cu và những bạn trẻ khác b buộc phi chứng kiến.
Trong ngày thi, cả ngày thứ bốn của k thi chuyển, cậu nói, trong một cuộc dạo chơi cánh đồng gần một trang trại không xác định, người bảo v Raymond Buckey, 26 tuổi, đã x đôi một con nga con bng một con dao dài 2 foot, anh ta dùng như một cái rìu.
“Anh ta chặt ra” cậu k với người được uỷ quyền Bradley Brunnon, nời

đại diện cho người sáng lập Virginia McMartin, 77 tuổi. “Thậm chí ra từng mảnh, đúng không?” Brunon hỏi. “Phải” cậu bé trả lời.



Brunon cho in ra những chi tiết.
Khi được hi Buckey đã đâm bao nhiêu nhát vào con nga sau khi ngã, đa bẻ trả lời “Cháu không đếm”
Khi được hi Buckey vấy đầy máu sau khi giết con nga, trả lời “cháu không biết, cháu không nhìn Ray, cháu nhìn con nga”
Bên nguyên đã phản đối tác dụng nhng câu hỏi chi tiết của người được uỷ quyền bảo vệ, kêu gọi chất vấn s không ăn khớp, nhc đi nhắc lại đáng tranh luận
Tuy nhiên, người được uỷ quyền bo v đấu tranh cho rằng nhng câu hỏi như thế cần thiết để chỉ ra rằng đa trẻ hoặc đang k chuyện hoặc một c mơ hồ, họ chỉ rằng đa trẻ thường xuyên trả lời “cháu không nhớ” hoặc là “cháu không biết”.
“Nếu thc s đã nhìn thấy s kin hãi hùng đó, s phi nhớ chi tiết của nó”, Brunon nói với quan toà trong một trong nhng cuộc tranh luận của ngày thứ ba

v các câu hỏi.
Rõ ràng, trong quan đim của ngưi đưc uỷ quyền Brunon, lời khai của đứa trẻ sẽ bị nghi ngờ không tu thuộc vào việc nếu đứa trẻ có thể nhớ một cách chi tiết hay không (mà chắc chắn là nó sẽ nhớ hoặc không nhớ): nếu đứa trẻ nhớ các chi tiết, đặc bit là không có mm chước đó, thì Brunon sẽ phn đối là đứa trẻ đang ba (hoặc là đưc mm bởi bố

mẹ nó hay bên bên nguyên), còn nếu đứa trẻ không nhớ, Brunon sẽ phê bình là đữa trẻ đã có một ký c mơ hồ, điều này sẽ làm cho bản cung khai của đứa trẻ có chút gì nghi vấn. Đc biệt điều đáng nghi vấn là cách bảo vệ của Bruno rằng nếu “đứa trẻ đã nhìn thy sự

việc khủng khiếp đó, nó sẽ phải nhớ các chi tiết”. Đó là việc Bruno tin tưng rằng có cái gì khủng khiếp như việc xẻ đôi một con ngựa đã gây sốc đối vi đứa trẻ đến nỗi mà mọi chi tiết của vụ mổ tht, ăn sâu một cách mạnh mẽ vào tâm trí của đứa mãi mãi. Nhưng điều đó có thể không luôn luôn đúng. Có nhiều trưng hợp đối vi ngưi ta, đặc bit là trẻ con, kìm nén nhng ký ức về các sự kiện quá khủng khiếp với họ để có thể nghĩ li. Cũng có



thế là trong những khoảng thời gian nhất đnh, đứa trẻ sẽ nhớ các sự kin cơ bản nhưng không đưc chi tiết. Nó có thể không tham sự vào tất cả các chi tiết ca vụ xẻ thịt và không thể hồi tưng li chúng sau đó. Vì thế các kết luận của Brunon không đưc đảm bảo.

7. Đánh Giá các Tranh Lun: Đúng, Giá Trị và Hp Lý
Thnh thoảng, ngưi ta đưc nghe là, “nó có thể lo-gic đấy nhưng không đúng,” hoặc là “tất cả những gì đúng không phải luôn luôn lo-gic.” Cả hai cách nhìn này đu đúng, tất nhiên chúng không có nghĩa là lo-gic là không liên quan đến sự thật. Thực tế, lo- gic đnh nghĩa sự tht một cách nghiêm ngặt và nó tách biệt với hai khái niệm khác là hợp

lý và giá tr, thnh thoảng nó cũng lẫn lộn với chúng trong bản gốc. Ba khái niệm này cùng

nhau tạo ra một cơ sở để đánh giá bất k tranh luận nào.
Aristotle, ngưi đã thiết lập khoa học của lo-gic trong thế kỷ thứ tư trưc công nguyên, là ngưi đầu tiên phát hiện ra sự khác biệt giữa sự thật và tính hp lý. Có lđây là cống hiến quan trọng ca ông đối vi lĩnh vực này.
Tính chất giá tr đề cập đến tính đúng đắn mà kết luận rút ra từ những tin đề của nó -- liệu những kết luận có phụ thuc vào chúng hay không. Mặt khác, sự thật li đề cập liệu những tiền đề và kết luận đó có phù hợp với thực tế không. Vì thế, có thể trong lý luận, bắt đầu với những tiền đề đúng đắn nhưng lại đạt đưc những kết luận sai (bởi vì chúng ta đã lập luận tồi với những tiền đề đó) hoặc là lập lun đúng, có giá tr nhưng lại không đạt đưc kết luận thực tế nào (bởi vì những tiền đề của chúng ta là sai). Tính hp lý đạt đưc khi những tiền đề của một tranh luận đúng và những kết luận của nó đưc tạo ra có giá tr từ chúng. Còn nếu không, tranh luận là không hợp lý. Đúng đắn và sai lm, hợp lý và không hợp lý, có thể kết hợp xuất hiện rất nhiều trong những tranh luận, to ra bốn khả năng sau đây:
1. Chúng ta có thể có thực tế đúng (những tiền đề của chúng ta là đúng), chúng

ta có thể sử dụng chúng đúng cách (những suy diễn của chúng ta có giá tr). Trong một tình huống như thế, không chỉ có tranh luận của chúng ta là hợp lý mà kết luận cũng đúng.

Toàn bộ tranh luận sẽ có cơ sở và hợp lý. a) Tất c đàn ông đều s chết. Socraté một người đàn ông.

Vì thế, Socrates s chết.

2. Chúng ta có thể có thực tế đúng đắn (những tiền đề của chúng ta là đúng đắn), nhưng chúng ta có thsử dụng chúng không thích đáng (lý l thiếu giá trị). Trong trưng hợp này, kết luận của chúng ta sẽ không hữu hiệu và toàn bộ tranh luận là không đúng.
b) Tất c mèo đều đng vật. Tất c lợn đều động vật.

Vì thế tất c lợn đều mèo.


Trong một số trưng hp, kết luận của những tranh luận có thể ngẫu nhiên đúng, như trong trưng hợp sau:
c) Tất c mèo đều động vật. Tất c hổ đu đều động vật. Vì thế tất c hổ đều mèo.

Trong những trưng hp như thế này, chúng ta không thxác đnh sự thật của kết luận từ tranh luận. Kết luận có thể đúng nhưng không phải là đúng trên cơ sở bảo vệ của tranh luận này.


3. Chúng ta có thể có thực tế sai (một hay nhiều tiền đề của chúng ta là sai), nhưng chúng ta có thể sử dụng chúng thích đáng (lập luận có giá trị). Trong trường hợp này, lý luân có giá tr nhưng kết luận không hợp lý.
d)Tất c nhng siêu sao điện ảnh đều sống Hollywood. Robert Redford một siêu sao điện ảnh.

Vì thế Robert Redford sống Hollywood.


Ở đây, tuyên bố thứ nhất sai rõ ràng, mặc dù lập luận có giá trị và kết lun có theo những tiền đề. Như trưng hợp 2 ở trên, kết luận thể đúng nhưng chúng ta không thể xác đnh tính đúng đắn của nó trong hoàn cảnh của tranh lun đó. Nó có thể đúng mc dù tiền đề thứ nhất là sai, nói cách khác, nó có th sai mặc dù lập luận đúng. Để đạt đưc kết luận mà chúng ta có thể cho là đúng, sẽ không đủ nếu chỉ lập luận đúng, chúng ta phải làm điều đó tnhững tiền đề đúng đắn.
4. Cuối cùng, có tình huống mà một hoặc nhiều tiền đề của chúng ta là sai và chúng ta cũng sử dụng chúng không đúng cách (lập lun thiếu giá tr). Trong trưng hợp như thế, tranh luận vừa không hợp lý và kết luận không đúng.
e) Tôi thích khoá học này
Tất c các k thi chung kết đều dễ.
Vì thế, tôi sẽ nhận được thứ hạng cao trong khoá học.

Bốn dạng của tranh luận:


Tiền Đề + Lý Luận = Kết Luận


Đúng

Giá Trị

Hợp Lý

Đúng

Thiếu Giá Trị

Không hợp lý


Sai

Giá Trị

Không hợp lý


Sai

Thiếu Giá Trị

Không hợp lý



Каталог: files
files -> Sạt-đe rằng: Nầy là lời phán của Đấng có bảy vì thần Đức Chúa Trời và bảy ngôi sao
files -> HƯỚng dẫn càI ĐẶt và SỬ DỤng phần mềm tạo bài giảng e-learning
files -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
files -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
files -> PHỤ LỤC 2 TỔng hợp danh mục tài liệu tham khảO
files -> BÁo cáo quy hoạch vùng sản xuất vải an toàn tỉnh bắc giang đẾn năM 2020 (Thuộc dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học ) Cơ quan chủ trì
files -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
files -> 1. Mục tiêu đào tạo: Mục tiêu chung

tải về 9.25 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   15




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương