4. Lập Lại Vấn Đề18
Sai lầm do lặp lại vấn đề xảy ra khi thay vì đưa ra lời chứng minh hay giải thích
cho một kết luận thì người nói lại nhắc lại vấn đề đó theo một cách khác. Những luận điểm như vậy làm cho chúng ta tin rằng một điều đã được thừa nhận nhưng thực tế thì nó chỉ
mới được diễn đạt lại. Nếu là một luận điểm đơn giản thì có rất ít điều để nói.
a. Niềm tin vào Chúa là phổ biến vì mọi người tin vào Chúa.
Trong ví dụ này từ "phổ biến" và từ "mọi người" có tính tương đương với nhau, luận điểm này chỉ nhắc lại vấn đề mà không chứng minh nó. Lập luận như vậy thiếu những cơ sở do đó thay vì chứng minh nó chúng ta lại lập luận bằng cách nhắc lại những điều đã được nói ra dưới một cách khác. Nhắc lại kết luận dưới một dạng khác không nên được sử dụng để chứng minh cho kết luận đó.
Thiếu tá Richard Daley đã áp dụng cách lập luận này một cách hỏm hỉnh để lảng tránh sự thật khi ông được hỏi tại sao Thượng Nghị Sĩ Hubert Humphrey lại thất bại trong cuộc bầu cử ở Bang Illinois. Daley đã trả lời rằng "Vì ông ta không có đủ số phiếu" trong khi câu hỏi kia thực sự là: “Tại sao ông ta không có đủ số phiếu?” Một ví dụ khác Tổng Thống Calvin Coolidge đã có lần nói rằng "Khi một số lượng lớn người không có việc làm, nạn thất nghiệp sẽ xẩy ra". Lập luận trên đây chỉ thuần tuý diễn giải lại điều được nói trước đó chứ không đưa ra được sự chứng minh hoặc cái giải thích hợp lý. Trong vở kịch nổi tiếng của Mô-Li-E, một nhà tâm lý học đã giải thích về tác dụng gây buồn ngủ của thuốc phiện bằng cách nêu ra thuộc tính gây buồn ngủ của loại thuốc này. Đây chính là việc giải thích một vấn đề bằng một vấn đề tương tự cần giải thích. Có thể nói là một sự giải thích luẩn quẩn và chúng ta có thể xem đó không phải là sự giải thích thực sự. Ví dụ: Tom đã tự tử vì anh ta muốn chết, hoặc anh ta ngã vì anh ta đã rơi từ trên cao xuống. Những kiểu giải thích như vậy chẳng nói gì hơn ngoài việc Tom tự tử hoặc người đàn ông kia bị ngã.
17 Evading the Facts
18 Fallacy of Begging the Question
Trong nhiều trường hợp chúng ta rất khó khăn để phát hiện ra sự giải thích lặp lại này. Hãy xem xét ví dụ sau:
b. Tự do thương mại sẽ tốt cho quốc gia này. Lý do hoàn toàn rõ ràng. Những hoạt động thương mại không bị hạn chế sẽ mang lại lợi ích cho nước này khi việc buôn bán giữa các nước không bị trở ngại.
Cụm từ "quan hệ thương mại không bị hạn chế" là một cách nói khác của tự do thương mại và cách lập luận dài dòng cũng chỉ để nói rằng "điều này tốt cho quốc gia đó".
Kiểu lập luận như vậy là cách nói lòng vòng, luẩn quẩn. Cách lập luận này đã sử dụng khả năng của ngôn ngữ có thể diễn đạt vấn đề theo một cách khác. Cũng giống như câu chuyện ba người đàn ông buộc ngựa: mỗi người buộc con ngựa của mình vào con ngựa của người kia và nghĩ rằng như thế sẽ giữ được lũ ngựa. Sau đó lũ ngựa đã chạy đi mất bởi vì chúng được buộc vào nhau theo hình mỏ neo chứ không phải buộc vào một vật cố định nào đó.
Sau đây là một ví dụ về sự giải thích luẩn quẩn đó. Chuyện xảy ra tại một công ty cho vay vốn:
c. QUẢN LÝ: làm sao công ty chúng tôi biết được ông là người trung thực và
đáng tin, thưa ông Smith?
SMITH: Ồ, tôi nghĩ là ông Jones sẽ bảo đảm cho tôi.
QUẢN LÝ: Tốt. Chúng tôi có thể tin vào lời của ông Jones không?
SMITH: Tất nhiên là có rồi thưa ông? Tôi chắc chắn về những gì ông Jones làm.
Nếu ông Jones bảo đảm cho ông Smith và ngược lại, thì chúng ta lại trở lại điểm khởi đầu.
Kiểu lý luận lòng vòng này có thể tóm tắt như sau: A có những đặc điểm nào đó là do có B. Nhưng B chỉ đúng khi A đúng. Vấn đề là A có đúng hay không lại chưa được làm rõ. Vấn đề lại được lặp lại. Sau đây là một ví dụ nữa:
d. Chúa tồn tại! (A) Làm sao anh biết?
Vì Kinh thánh nói như vậy. (B)
Làm sao anh biết Kinh thánh nói đúng?
Bởi vì Kinh thánh là lời nói của Chúa! (A=B)
Kiểu lập luận như vậy đôi lúc còn được gọi là "lập luận vòng tròn"19 để chỉ ra rằng dù chúng ta có cố gắng thế nào thì chúng ta cũng bị quay trở lại vấn đề. (TQ hiệu đính, ai có thể chứng minh kinh thánh là lời nói của Chúa?).
Một ví dụ khác
e. Con người ta không thể không hành động trong trường hợp đó. Tại sao?
Bởi vì họ luôn làm theo những động cơ mạnh mẽ nhất. Vậy cái động cơ mạnh mẽ nhất đó là gì?
Đó là cái khiến họ phải làm theo.
Một lập luận thuyết phục phải đưa ra những căn cứ, lý do xác đáng để chứng minh cho một kết luận. Nhưng nếu những lý lẽ chỉ nhắc lại lời kết luận đó theo một cách khác thì lập luận đó không có căn cứ và chỉ là sự sai lầm.
Một dạng phổ biến của sai lầm do lặp lại vấn đề là việc sử dụng những cái được tổng quát không có căn cứ để chứng minh cho một kết luận mà kết luận đó sẽ nằm trong cái được tổng quát đó nếu đó là một kết luận đúng.
Ví dụ:
f. Sở hữu nhà nước đối với các dịch vụ công cộng là một học thuyết nguy hiểm, bởi vì đó là xã hội chủ nghĩa.
Nếu một luận điểm rộng hơn (chủ nghĩa xã hội là nguy hiểm) được thừa nhận thì vấn đề chủ yếu được thảo luận ở đây -- nhà nước sở hữu các dịch vụ công cộng -- là phù hợp. Những người có quan điểm đối lập có thể xem giả định này là tương đương.
Hãy xem xét ví dụ sau:
g. Sự tàn nhẫn của anh ta là do tính nhút nhát trong chính bản thân anh ta, vì mọi người nhút nhát đều tàn nhẫn.
Ở đây, một cái có tính khái quát rộng hơn đã được sử dụng để chứng minh cho vấn đề đặt ra. Trong khi tính đúng đắn của cái có tính khái quát rộng hơn vẫn chưa được chứng minh thì cái được khái quát rộng hơn lại được sử dụng để chứng minh cho vấn đề đặt ra, và như vậy chúng ra lại lặp lại vấn đề. Nếu một vấn đề cần chứng minh (là một ví dụ của cái được khái quát rộng hơn), thì chắc chắn rằng cái được khái quát rộng hơn đó cũng cần phải chứng minh.
Sai lầm do lặp lại vấn đề có thể xảy ra dưới hình thức ngược lại. Tức là nếu một cái
đã được khái quát nhưng chưa được chứng minh được dùng để chứng minh cho một vấn đề
19 vicious circle
cụ thể thì cũng có thể xảy ra trường hợp ngược lại một vấn đề cụ thể nào đó chưa được chứng minh lại được sử dụng để chứng minh cho một cái được tổng quát.
Xem ví dụ sau:
h. Tôi không cần nghe thêm bằng chứng cho vấn đề này, vì tôi đã hiểu rõ nó. Đó có phải là một trường hợp nữa về một người trẻ tuổi đã giết chết một người già? Tôi biết rằng những việc như vậy đều là do môi trường sống lúc còn trẻ. Vụ việc này chắc chắn phải là như vậy vì nó càng khẳng định thêm niềm tin của tôi là mọi vụ người trẻ giết người già có nguyên nhân là những trải nghiệm ở thời thơ ấu của kẻ giết người.
Đây là một vụ án mà tội phạm được cho rằng đã được thực hiện do ảnh hưởng của môi trường xấu lúc còn nhỏ. Luận điểm này lại được sử dụng để chứng minh cho một điều rộng hơn là: những tội phạm như thế (trẻ con giết người lớn) đều có nguyên nhân từ ảnh hưởng của môi trường sống lúc còn nhỏ. Nhưng điều được khái quát rộng hơn này vẫn đang còn không rõ ràng, nó cần được chứng minh rõ hơn. Trường hợp cụ thể này (vụ án đang đề cập) không thể được sử dụng để chứng minh cho điều đã khái quát do bản thân trường hợp này cũng cần được chứng minh. Có hai khía cạnh cần làm rõ để phân biệt một lập luận thuyết phục và cách lập luận mà chúng ta đang bàn đến.
Thứ nhất, những luận điểm thuyết phục chứa đựng các luận cứ nhằm xác nhận lại các thông tin trong kết luận mà không phải là lặp lại nó. Thứ hai, một lập luận thuyết phục chứa đựng các cơ sở chính xác và rõ ràng chứ không phải là những luận điểm chưa được chứng minh. Những luận điểm chính xác và rõ ràng, ví dụ như: một người không thể ở hai địa điểm khác nhau trong cùng một lúc; đây là luận điểm mà khi sử dụng không cần phải chứng minh gì thêm. Nhưng lập luận theo kiểu vòng vo lại thuyết phục người nghe bằng cách đưa ra những chứng cứ không rõ ràng, chưa được chứng minh.
Sai lầm do lặp lại vấn đề sẽ dễ dàng nhận biết nếu chúng ta xem xét các lập luận trên quan điểm chúng ta chỉ chấp nhận những điều thuộc phạm vi của vấn đề được đặt ra. Nếu có ai đó nói rằng, tự sát là tội phạm vì đó là tội phạm giết chính mình. Chúng ta không bị bắt buộc phải chấp nhận ý kiến cho rằng một người tự lấy đi mạng sống của mình là phạm tội giết người (chính mạng mình).
• Lặp lại vấn đề hoặc không tập trung vào vấn đề là việc sử dụng các yếu tố giống như yếu tố chúng ta đã đặt ra trước đó để chứng minh, điều này gây nên sự lảng tránh hoặc bỏ qua vấn đề cần chứng minh.
• Những cố gắng tạo chứng minh cho một quan điểm bằng cách sử dụng những lời giải thích giống như quan điểm đã đặt ra cũng là sai lầm.
• Sai lầm có thể xảy ra dưới dạng:
¾ A như vậy là bởi vì B; trong khi B cũng giống như A hoặc B phụ thuộc vào
A hoặc B thậm chí không đáng tin bằng A.
¾ A đúng vì B đúng; nhưng B chỉ đúng nếu A đúng. Vấn đề vấn chưa được
giải quyết là liệu A có đúng hay không? Đó là việc lặp lại vấn đề.
5. Ngôn Ngữ Cường Điệu hay Thành Kiến20
Trong kiểu sai lầm này, lỗi xảy ra khi việc sử dụng ngôn ngữ mang tính thành kiến để khẳng định lại cái chúng ta muốn chứng minh nhưng vẫn chưa chứng minh. Ngôn ngữ cường điệu là một công cụ được thường xuyên sử dụng trong thơ văn, nhưng nó lại không thích hợp với lý luận hay lo-gic. Chúng ta đã biết rằng lặp lại vấn đề, hoặc lảng tránh vấn đề là việc sử dụng những luận điểm đang còn tranh cãi để chứng minh cho một vấn đề
khác. Chúng ta sẽ thấy khả năng của ngôn ngữ, trong đó một từ hoặc một cụm từ tạo cho ta cảm giác rằng một vấn đề nào đó đã được giải quyết hoặc chứng minh nhưng thực tế thì
không phải như vậy. Bởi vì nhiều từ chứa đựng khả năng mô tả và đánh giá, nên việc lảng tránh vấn đề theo kiểu dùng ngôn ngữ cường điệu xảy ra rất nhiều.
Hãy xem xét ví dụ sau:
a. Con người này đã bị kết vào tội xấu xa nhất đối với loài người.
Một người có thể nói "người này đã bị buộc tội giết người" để đảm bảo công bằng cho sự thật còn hơn là gán vào những ý kiến gây tổn hại khi đề cập đến cùng một vấn đề.
Khái niệm ăn cắp, không chỉ thuần tuý là diễn tả một hành vi mà nó còn mang ý nghĩa phán quyết đối với hành vi đó, rằng hành vi đó là không đúng. Khi nói người đàn
ông này đã ăn cắp thức ăn để cứu đứa con trai khỏi bị chết đói, việc dùng từ "ăn cắp" ở đây sẽ là lảng tránh vấn đề, bởi vì trong tình huống này hành vi của người đàn ông có thể được xem xét một cách phù hợp hơn.
Việc lảng tránh vấn đề ở đây là điều không đúng, bởi vì nó đánh thức những cảm xúc, định kiến thông qua việc sử dụng những ngôn từ mang tính áp đặt. Bằng cách nói quá vấn đề, nhạo báng, nịnh bợ, lạm dụng... Người nói, người viết đã tạo cho người đọc, người nghe tin rằng những từ ngữ đó đã được sử dụng một cách chính xác để diễn tả người, hoặc sự việc nhưng có thể là không phải như vậy.
Sau đây là một số ví dụ:
b. Khi một người phản ánh chương trình bảo hiểm thất nghiệp đã khuyến khích sự lười biếng của những kẻ ăn bám trong các khu nhà ổ chuột đã dẫn đến một chế độ phúc lợi giả dối như thế nào thì đã đến lúc chúng ta phải nhận thức rằng những sự trục lợi được hợp pháp hoá đó cần được xoá bỏ.
c. Những lời đề xuất gây căm phẫn của các thành viên hội đồng được cho là sẽ
phá vỡ những mong muốn chính đáng của những công dân lao động vất vả.
d. Không một người Mỹ biết suy nghĩ nào có thể ủng hộ biện pháp này, một âm mưu xảo quyệt đã được ngấm ngầm đặt ra trong một căn phòng đầy khói thuốc của những kẻ làm ra luật.
Việc sử dụng sự lảng tránh vấn đề theo kiểu ngôn ngữ cường điệu trong các luận điểm trên đây là không thể chấp nhận được bởi vì nó đã thể hiện thái độ đồng ý hoặc không đồng ý về một vấn đề mà không đưa ra được các bằng chứng để chứng minh rằng những thái độ như thế là công bằng. Bằng cách gọi ai đó "kẻ lừa bịp để nhận trợ cấp xã hội" hoặc "những công nhân lao động vất vả" không thực sự đề cập một cách đúng mức những con người đó; hoặc gọi những biện pháp nào đó là "âm mưu xảo quyệt" hoặc "gây căm phẫn" không thể làm cho vấn đề trở nên có tính chất như vậy.
Chúng ta có thể thấy, một người không đề cập thẳng vào vấn đề có thể có ý đồ bài xích, chê bai một người khác hoặc cũng có thể với ý ca tụng, tán dương. Khi chúng ta nói đến một sự kiện lịch sử nhất định trong "thời kỳ cải cách", chúng ta có thể chịu ảnh hưởng của các nhà sử học cho rằng đó là những sự kiện còn phải bàn cãi về tính tích cực hoặc tiêu cực, do khái niệm "cải cách" không chỉ có nghĩa là thay đổi mà còn mang nghĩa thay đối theo hướng tốt. Tương tự, "người Mỹ biết suy nghĩ" là một kiểu nói để tán dương "người Mỹ".
Một ví dụ nổi tiếng về sự bài xích là những lời nhận xét của cựu Phó Tổng Thống Spiro Agnew về những người biệt giáo, trong một bài phát biểu tại New Orleans, Agnew đã nói:
e. Linh hồn của những kẻ bạo dâm chiến thắng, được ủng hộ bởi một số kẻ bất lực, tinh vi và trơ tráo, những kẻ tự cho rằng mình là con người khôn ngoan.
Nhà vẽ tranh biếm hoạ Al Capp đã có những lời châm chọc ác ý khiến một nhóm sinh viên xuống đường biểu tình khi ông đang giảng bài ở Harford: "Này! Đừng đi. Tôi đang cần một hành vi súc vật."
Nhà ngôn ngữ học S. I. Hayakawa đã đưa ra một ví dụ hóm hỉnh về sự nhầm lẫn giữa sự thật và những suy nghĩ được ẩn chứa trong sai lầm do không tập trung vào vấn đề bằng cách dùng ngôn ngữ thành kiến. Ông đã phác hoạ một bức tranh về một cuộc đối chất trong phiên toà:
f. Nhân chứng: Kẻ hai mặt bẩn thỉu đó, Jacobs đã phản bội tôi. Luật sư biện hộ: thưa quý toà, tôi phản đối.
Quan toà: phản đối được chấp nhận. Nhân chứng hãy kể chính xác chuyện gì đã xảy ra.
Nhân chứng: hắn ta đã chơi trò hai mặt với tôi, kẻ bẩn thỉu, đồ phản bội dối trá. Luật sư biện hộ: thưa quý toà, tôi phản đối.
Quan toà: phản đối được chấp nhận. Nhân chứng hãy nói thẳng vào sự thật.
Nhân chứng: nhưng thưa quý toà, tôi đang nói với ngài về sự thật. Hắn ta đã chơi
trò hai mặt với tôi.
"Sự việc có thể tiếp diễn mà không thể kết thúc", Hayakawa chỉ ra "trừ khi người chất vấn bằng sự khéo léo của mình có thể tìm thấy được sự thật ẩn dấu đằng sau lời phán quyết đó. Đối với nhân chứng thì sự thật chính là anh ta bị chơi trò hai mặt. Việc xét hỏi liên tục phải kiên trì là điều cần thiết để tìm ra sự thật làm cơ sở cho phán quyết của toà" (Ngôn Ngữ Trong Suy Nghĩ và Hành Động, xuất bản lần thứ 4, New York: Harcourt Brace Jovanovich, 1978, trang 37-38).
Việc lảng tránh vấn đề bằng cách dùng ngôn ngữ cường điệu là việc không đề cập vào vấn đề một cách đúng mức mà dẫn dắt người đọc, người nghe đi theo những quan điểm thiên kiến đối với vấn đề. Một lập luận thuyết phục sẽ làm cho người nghe, người
đọc tin rằng sự đề cập như thế là hợp lý, tuy nhiên việc sử dụng ngôn ngữ mang tính thành kiến lại không thể được chấp nhận trong tranh luận.
• Chúng ta có thể không tập trung vào vấn đề bằng ngôn từ cường điệu.
• Ngôn ngữ cường điệu là một cách nói, mô tả một người, vật, ý kiến theo hướng cường điệu hoá vấn đề, thường mang ý nghĩa phê phán.
• Việc không tập trung vào vấn đề không chỉ có ý định chê bai mà còn có ý định tán dương, ca tụng.
• Cho dù là có ý định bài xích hay tán dương thì việc sử dụng ngôn ngữ cường điệu ở đây là không thể chấp nhận được. Thay vì mô tả vấn đề một cách chính xác thì người viết lại muốn người đọc chấp nhận những ngôn từ mà họ sử dụng.
6. Phức Tạp Hóa Vấn Đề21
Sai lầm do phức tạp hoá vấn đề (những câu hỏi phức hợp) là dạng nghi vấn sai lầm do không tập trung vào vấn đề. Cũng giống như không tập trung vào vấn đề, sai lầm do câu hỏi phức hợp làm cho người khác tin rằng một câu trả lời nhất định cho một câu trả lời trước đó đã được trả lời theo một cách nhất định, trong khi câu hỏi trước chưa được đặt ra. Sai lầm này có thể được gọi bằng nhiều tên khác nhau: câu hỏi đánh lừa, câu hỏi dẫn dắt, sai lầm do câu hỏi sai, sai lầm của nhiều câu hỏi. (TQ hiệu đính, nghành luật thường sử dụng loại ngụy biện này nhất. Ví dụ, vị luật sư hỏi: "anh ăn cắp nhiều không?" Trả lời
nhiều hay không, thì người bị hỏi đã tự thú là "có ăn cắp" rồi. Vấn đề cần phải được bàn
thảo trước là "anh có ăn cắp không?" Và nếu có, thì "ăn cắp nhiều không?" mới hợp tình hợp lý).
Vua Charles II của nước Anh đã có lần hỏi các thành viên của Hội Đồng Hoàng
Gia tại sao nếu bỏ một con cá đã chết vào cái bát thì làm cho nước tràn ra, trong khi nếu đó
21 Fallacy of Complex Question
là con cá còn sống thì nước lại không tràn. Các thành viên của Hội Đồng đã suy nghĩ rất lâu, một số người đã có lời giải thích nhưng không thực sự thuyết phục. Cuối cùng một thành viên của Hội Đồng đã quyết định làm thí nghiệm về vấn đề này. Ông này đã phát hiện ra rằng không có sự khác nhau nào đáng kể khi đặt một con cá sống hay một con cá chết vào bát nước.
Cho dù câu chuyện trên đây có thực sự đúng hay không thì nó cũng chứa đựng một bài học quan trọng. Trước khi cố tìm ra giải đáp cho một vấn đề chúng ta nên đặt ra những nghi vấn cho vấn đề đó. Mọi vấn đề đều chứa đựng những giả thiết phù hợp cho những câu trả lời được tìm ra, và đôi khi những giả thiết đó cũng dẫn đến những cách lập luận sai lầm. Ví dụ:
a. John đã từ bỏ thói quen xấu đó chưa?
b. Anh vẫn còn nghiện rượu à?
Trong hai câu hỏi trên đều ẩn chứa câu trả lời cho một câu hỏi trước đó. Liệu John có một thói xấu nào không? Đây là câu hỏi đã không nêu lên trong khi câu trả lời lại ẩn chứa trong câu hỏi (a). Chúng ta không nên đưa ra câu trả lời nào cho câu hỏi (a) cho đến khi câu hỏi trước đó được giải quyết (TQ hiệu đính, nếu trả lời câu hỏi (a) trước khi tìm ra câu trả lời cho câu hỏi "Liệu John có một thói xấu nào không?", chẳng khác nào ta đã thú nhận John có tật xấu, cho nên John đã từ bỏ hay chưa từ bỏ. Loại câu hỏi này là loại câu
hỏi phức hợp, vì nó ngụ ý một hay nhiều câu hỏi khác, mà những câu hỏi khác đó là tiền đề cho câu hỏi này cần phải có giải đáp trước). Trong nhiều trường hợp, những nỗ lực đáng kể là cần thiết để giải thoát cho chúng ta khỏi những ảnh hưởng sai lạc của câu hỏi phức hợp.
Hậu quả nghiêm trọng của sự phức tạp vấn đề có thể dự đoán được bằng cách xem xét những câu hỏi mang tính thủ thuật sau đây,
c. Anh đã dùng cái gì để lau dấu vân tay trên khẩu súng đó?
d. Anh đã suy nghĩ bao lâu trước khi thực hiện vụ cướp?
Cả hai câu hỏi trên đều chứa đựng câu trả lời cho câu hỏi trước đó mặc dù chưa được nêu ra cũng như trả lời. Những câu hỏi kiểu như vậy là không đúng bởi vì nó thừa nhận câu trả lời cho vấn đề khác chưa được đặt ra.
e. Jane không phải là một người cấp tiến thiếu suy nghĩ có phải không?
Đây là câu hỏi mà câu trả lời phải là có hoặc không. Nhưng nếu chúng ta tách câu hỏi ra thành hai phần thì chúng ta sẽ có câu trả lời sau: Đúng, cô ấy là một người cấp tiến, nhưng cô ấy không phải là người thiếu suy nghĩ.
Một câu hỏi phức hợp thường ở dưới dạng kết hợp với sai lầm do lảng tránh vấn đề
kiểu ngôn ngữ cường điệu.
f. Hãy cho tôi biết quan điểm của anh về những nỗ lực của chính phủ để giải quyết sự cố tràn dầu đó?
g. Có phải đó là điều hoàn toàn ngu xuẩn hoặc hoàn toàn không thân thiện một cách cố ý khi chính quyền đã phá vỡ mọi mối quan hệ với Iran?
Trước khi lý giải một cách hợp lý câu hỏi phức hợp, chúng ta cần tách câu hỏi đó ra thành hai câu hỏi (câu chưa được hỏi ra nhưng câu trả lời lại hàm chứa trong câu được đặt ra, và câu hỏi được đặt ra), chúng ta cũng phải tách câu hỏi đó ra thành các yếu tố đánh giá và yếu tố mô tả. Trong ví dụ (g), chúng ta cần làm rõ rằng: liệu chính quyền đã thực sự làm xấu đi mối quan hệ ngoại giao với Iran hay không? Và nếu có như vậy thì hành động đó có đúng với những sự đánh giá như ngu xuẩn, không thân thiện, vô vọng hay kho^ng?
Câu hỏi phức hợp thường dẫn dắt chúng ta lãng tránh sự thật bằng sự phức tạp của nó và chúng ta sẽ đánh mất cái nhìn trung thực về vấn đề. Bài báo sau đây, trên tờ Times (London) (ngày 22 tháng 2 năm 1971), đã viết như sau:
h. Quận công Boothby đã hỏi chính phủ rằng liệu Bộ Hàng Không có còn ý định tăng lệ phí sân bãi tại sân bay London từ ngày 1 tháng Tư, điều này sẽ làm cho sân bay này không những là tồi nhất mà còn là sân bay đắt đỏ nhất thế giới.
Câu hỏi trên đã đề cập đến các vấn đề liệu tăng lệ phí sân bãi có làm cho Sân bay London trở thành đắt đỏ nhất thế giới; và sân bay này đã là tồi tệ nhất thế giới hay chưa. Hai câu này có thể tác động lẫn nhau, nhưng chúng có thể được tách riêng ra.
Câu hỏi phức hợp có vẻ được ưa chuộng đối với các nhà quảng cáo và người bán hàng. Một người quảng cáo thuốc ngủ hỏi: "Loại thuốc ngủ mà bạn dùng bắt đầu có tác dụng sau 21 giây phải không? Một nhân viên an ninh có thể hỏi: "Ông có thể duy trì tình trạng rủi ro rằng văn phòng này kẻ trộm rất dễ xâm nhập hay sao?" Một nhân viên bán hàng có thể hỏi bạn sẽ thanh toán bằng tiền mặt, check hay thẻ tín dụng khi mà bạn chưa hề có quyết định mua một món hàng nào đó. Hoặc:
i. Những người bạn tốt không xứng đáng với loại Bourbon tốt nhất của anh chăng?
j. Anh sẽ mua chiếc Cadillac đầu tiên vào lúc nào?
Bằng cách đưa ra những tính năng hữu ích của sản phẩm những quảng cáo đã thu hẹp ý định của họ về câu hỏi: khi nào bạn sẽ sử dụng sản phẩm đó.
Những câu hỏi phức hợp có thể dưới dạng yêu cầu giải thích về một vấn đề không
đúng hoặc không hề có.
k. Tại sao một tấn chì lại nặng hơn một tấn lông vũ?
l. Hãy lý giải hiện tượng thần giao cách cảm?
Bằng cách hướng sự tập trung của chúng ta vào giải thích sự việc (vấn đề), những câu hỏi như vậy đã hướng sự chú ý của chúng ta ra khỏi những sai lầm trong chính bản thân câu hỏi đó.
Nghiên cứu về câu hỏi phức hợp sẽ cho chúng ta biết rằng: không nên trả lời những câu hỏi mà những vấn đề khác câu hỏi đó dựa trên chưa được giải quyết. Quy tắc này đã được thừa nhận trong luật và các hoạt động của quốc hội, quy tắc này cho phép chia tách các vấn đề ra, như vậy có thể tìm hiểu được rõ hơn những sự thật của một vấn đề.
• Câu hỏi phức hợp xảy ra khi một câu hỏi được đưa ra có ý thừa nhận một sự việc khác mà cần phải chứng minh sự việc đó trước rồi mới trả lời cho câu hỏi được đặt ra. Câu hỏi kiểu này sẽ thừa nhận một sự việc khác cho dù câu trả lời của nó thế nào.
• Sự đáp lại tốt nhất cho câu hỏi như thế này là hãy hỏi: ý anh là sao?
7. Biện Hộ Đặc Biệt 22
Sai lầm do sự biện hộ đặc biệt là áp dụng hai tiêu chuẩn khác nhau: một áp dụng cho bản thân người nói (bởi vì họ đặc biệt) và cái kia (tiêu chuẩn khắt khe hơn) cho những người khác. Bertrand Russell đã có lần diễn tả một nét tính cách của con người như sau:
a. Tôi là người kiên định; bạn là người bướng bỉnh; anh ta là người cứng đầu.
Khi chúng ta dùng sự biện hộ đặc biệt tức là chúng ta thiên vị chính mình và có thiên kiến đối với người khác. Như trong sự lảng tránh vấn đề bằng ngôn ngữ cường điệu, chúng ta có ý định và hy vọng rằng người khác sẽ tin rằng cách thể hiện như vậy của chúng ta là chính xác nhưng thực tế là nó chỉ phản ánh những thành kiến của chúng ta mà thôi.
Cũng giống như những sai lầm khác, loại sai lầm kiểu này có thể được sử dụng vì mục đích gây cười. Nữ diễn viên Shelley Winters (ở tuổi 46) khi được hỏi ý kiến của bà về việc khoả thân trên sân khấu đã trả lời như sau:
b. Tôi cho rằng đó là điều ghê tởm, đáng xấu hổ, và nó phá hoại những phẩm cách của người Mỹ. Nhưng nếu tôi ở độ tuổi 22, với một cơ thể đẹp thì đó lại là nghệ thuật, sự gợi cảm, yêu nước, tiến bộ và là hành vi có ý thức.
Khi chúng ta có sự biện hộ đặc biệt thì sẽ không vô tư, lập luận sẽ mâu thuẫn. Đó là việc đánh giá mình cao hơn khi áp dụng một tiêu chuẩn nhưng lại không áp dụng tiêu
chuẩn đó khi đánh giá về người khác. Chẳng hạn như xem những người lính của đất nước
mình là anh hùng vì những cống hiến và hy sinh của họ trong khi mô tả người lính đối phương như những kẻ cuồng tín, dã man như trong bài xã luận sau đây:
c. Những thủ đoạn tàn nhẫn của kẻ thù, sự cuồng tín của chúng, những vụ tấn công cảm tử đã bị đánh bại bởi những phương sách cứng rắn của các sĩ quan và sự hy sinh quên mình của binh lính chúng ta.
22 Fallacy of Special Pleading
Việc hy sinh và tự sát có phải là hai sự kiện khác nhau hay không? Rõ ràng là không, nhưng qua việc sử dụng ngôn ngữ lại thuyết phục được người khác rằng sự khác nhau trong cách mà chúng ta gán cho những sự kiện có thể phản ánh được sự khác nhau trong tính chất của sự kiện đó.
Sự tồn tại trong ngôn ngữ những cặp từ kiểu như anh hùng/cuồng tín đã làm cho chúng ta thực hiện những sự biện hộ đặc biệt mà không hề nhận thức được rằng chúng ta
đã làm như vậy. Trong danh sách dưới đây liệt kê những cặp từ đều phản ánh nội dung một
sự kiện nhưng khác nhau về thái độ mà chúng ta hay gặp: Việc làm/ việc cực nhọc,
Vận động viên thể thao/ kẻ ăn chơi (sportman/playboy), Nhân viên cảnh sát/ cớm,
Hội/ phe đảng,
Sôi động/ huyên náo, Tâm sự/ nhiều chuyện, Kế hoạch/ âm mưu, Mạnh dạn/ cả gan,
Trả công/ bố thí,
Thi hành án tử hình/ giết, Nhiều màu sắc/ loè loẹt, Mập/ béo,
Trần tục/ tục tĩu, Thận trọng/ đa nghi, Kín đáo/ dấu diếm, Hiền/ khờ,
Nhát/ nhu mì,
Khôn lanh/ gian sảo, Yêu tha thiết / lụy tình, Sợ vợ / nể vợ.
Quả thực, nhiều khi chúng ta nói những điều có thể được xem là sự biện hộ đặc biệt, khi chúng ta áp dụng một tiêu chuẩn với cái này nhưng lại áp dụng tiêu chuẩn khác đối với cái khác.
Khi chúng ta biện hộ đặc biệt, chúng ta có thái độ thiên vị chính mình và thiên kiến đối với những đối tượng khác. Chúng ta dùng tiêu chuẩn kép bằng cách dùng những từ khác nhau để nói về cùng một sự vật. Ví dụ như "Con trai tôi là một người đào hoa, còn con gái bà ta chỉ là một kẻ lang chạ".
Cũng như trong trường hợp lảng tránh vấn đề theo kiểu ngôn ngữ cường điệu, chúng ta có ý định và hy vọng người khác tin rằng những cái mà chúng ra gán cho một sự vật là miêu tả đúng sự vật đó. Tuy nhiên trong thực tế nó lại phản ánh thiên kiến của chúng ta.
TQ hiệu đính, biện hộ đặc biệt còn được gọi là lý luận kép, lý luận nhị chuẩn23; mình thì thế này, còn người ta là thế khác, hay lý luận "nhất bên trọng, nhất bên khinh". Như ví dụ trên có nói, con trai mình có nhiều "bồ" thì mình cho là "đào hoa", trong khi con
gái người ta có nhiều "bồ" thì mình gọi là "lạng chạ". Một ví dụ khác, con của mình thành công thì mình gọi là "giỏi", con người khác thành công thì mình cho rằng "tốt số". Hay là, con mình thi rớt tốt nghiệp, mình gọi nó là "kém thông minh", con người khác thi rớt tốt nghiệp, mình gọi đứa đó "ngu". Trên thực tế, "đào hoa" và "lang chạ", "giỏi" và "tốt số", và đặc biệt "kém thông minh" và "ngu" thì có mấy chi khác. Họa chăng, khác là cách nhìn và khác vào cách dùng từ của con người!!!! Hay khác là khác vào giả định của chúng ta:
chúng ta cho chính mình là đặc biệt và người khác thì không.
Bóp Méo Sự Thật 24
Trong phần cuối này, chúng ta xem xét một kiểu sai lầm nữa. Trong sai lầm này, thay vì bỏ qua hay lảng tránh sự thật, người nói đã bóp méo, xuyên tạc nó. Trong sai lầm do sự tương đồng giả tạo, một số sự việc nhất định được tạo ra có vẻ giống nhau nhưng thực sự lại không phải như vậy. Sai lầm do sai nguyên nhân làm cho các sự việc dường như có mối quan hệ nhân quả nhưng thực sự lại không phải như vậy. Trong sai lầm của lý luận khập khuôn: một sự kiện nhất định sẽ gây ra một chuỗi phản ứng không trông đợi nhưng thực tế lại không phải như vậy. Trong sai lầm của những luận điểm không phù hợp lại bóp méo sự việc bằng cách chuyển sự chú ý của chúng ta đến những vấn đề không phù hợp với chủ đề đang được nói đến sau đó làm cho chúng ta chấp nhận những đánh giá sai về những gì đang được bàn luận.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |