5. Sự Phân Hóa10 và Kết Cấu11
Nếu một người không thể làm gãy một bó cũi, điều đó có nghĩa là cô ta không thể
làm gãy bất cứ que cũi riêng lẻ nào trong đó? Dĩ nhiên là không.
Những gì là đúng trong tổng thể thì không nhất thiết phải đúng trong những thành phần của nó. Nếu không cân nhắc, chúng ta có thể phạm sai lầm trong phân hóa, phân chia những đặc tính của tổng thể và cùng áp dụng chúng với mỗi thành phần của nó.
Chúng ta có thể đảo ngược trật tự của lý luận và phạm sai lầm đối lập: Nếu một người có thể làm gãy một que cũi, thêm một que, và một que nữa, điều đó có nghĩa là người đó có thể làm gãy cả một bó cũi như một tổng thể? Chắc chắn là không.
Những gì đúng với một phần không nhất thiết đúng với tổng thể. Một lần nữa, nếu chúng ta không nhận ra điều này, chúng ta có khả năng phạm phải sai lầm trong kết cấu, tạo nên những đặc trưng của tổng thể ngoài những điều đó trong thành phần của nó. Tổng thể, theo cách nói cũ, là nhiều hơn tổng số những thành phần của nó.
Những gì đúng của những tổng thể và thành phần ở đây cũng đúng với những nhóm và bộ phận của chúng. Do đó, dàn nhạc giao hưởng Chicago có thể là dàn nhạc hay nhất trong nước, nhưng không nhất thiết có nghĩa là nghệ sĩ vĩ cầm trong dàn nhạc là nghệ sĩ vĩ cầm hay nhất trong nước. Hay sử dụng một ví dụ khác, Jones có thể là tiền vệ hay
10 Fallacy of Division
11 Fallacy of Composition
nhất trong nước, Smith - trung vệ giỏi nhất và Davis - thủ môn giỏi nhất, nhưng khi đặt họ và những cầu thủ nổi tiếng khác vào một đội sẽ không hẳn cho chúng ta một đội hay nhất trong nước.
Tại sao người ta có thể hỏi, những gì đúng trong tổng thể không tất yếu phải đúng đối với những thành phần của nó? Hay tại sao những gì đúng đối với những thành phân của nó thì không tất yếu phải đúng với tổng thể? Tương tự, tại sao những gì đúng với một số nhóm hay đội riêng biệt không tất yếu phải đúng với các bộ phận trong nhóm và ngượi
lại? Nguyên nhân là một tổng thể hay một nhóm đơn vị chức năng và kết cấu của nhóm và
vì thế chỉ liên quan đến những thuộc tính của nó, và phân biệt từ những thành phần của nó.
Một ví dụ khác sẽ làm rõ ràng hơn: Chúng ta nhìn một bông hoa và tự nói: "Ồ! Thật là một bông hoa đẹp!" Chúng ta cũng làm như thế với một vài bông hoa khác. Điều đó có nghĩa nếu chúng ta tâp hợp chúng, chúng ta sẽ có một bó hoa đẹp hay không? Có lẽ
là không, và nguyên nhân là khi tập hợp chúng lại với nhau sẽ nảy sinh một điều gì đó mới lạ. Tất cả những bông hoa khác nhau đó được trộn lẫn một cách đúng đắn? Câu hỏi đó
không thích hợp khi mỗi bông hoa đều tự khẳng định mình. Ví dụ giống như thế áp dụng với một nhóm cầu thủ, hay ca sĩ, hoặc bất cứ chọn lọc cá nhân nào. Mặc dù mỗi người, khi tự khẳng định mình, có thể nổi rất nổi tiếng, nhóm sẽ nổi tiếng hay không phụ thuộc vào một nhân tố mới nảy sinh chỉ với sự hình thành của nhóm. Họ sẽ làm việc với nhau hiệu quả như thế nào hay chất giọng của họ kết hợp với nhau hiệu quả như thế nào? Đây là những câu hỏi không có ý nghĩa khi mỗi thành viên của nhóm tự khẳng định mình.
Mặc dù hiển nhiên chúng không phải là những dạng sai sót khó hay không dễ phát hiện, nhưng chúng ta có khuynh hướng phạm phải chúng rất thường xuyên. Những nguyên nhân thường hay được chấp nhận trong một nhầm lẫn của ý nghĩa chọn lọc và phân loại
của những từ mấu chốt nào đó trong các lý luận. Bằng một từ chọn lọc chúng ta muốn nói một từ mà gán cho một sự chọn lọc hay một tổng thể; với một từ phân loại chúng ta muốn nói một từ chỉ áp dụng với những cá nhân hay thành phần. Từ tất cả là ví dụ rõ ràng nhất về một từ tiềm ẩn tối nghĩa. Thí dụ, khi chúng ta nói " Tất cả những nhà từ thiện đã đóng góp 1000 đôla Mỹ", chúng ta muốn nói rằng mỗi và mọi người đã đóng góp vào khoảng này (dùng từ tất cả một cách phân biệt), hay chúng ta muốn nói tất cả hợp lại với nhau làm như thế (bây giờ ta hiểu từ tất cả chung)?
a. “Tôi đánh giá một người bằng đôi giày anh ta mang, Jerry"
Trong trường hợp này, người phụ nữ phạm sai sót của kết cấu. Những gì đúng về đôi giày của một người có thể không đúng với cả con người, hay người ta hy vọng trong thời điểm này!
Một từ cảnh báo cuối cùng. Những nhà lo-gic học nhắc nhở chúng ta rằng đó là một sai sót dể lạm dụng mà không bằng chứng rằng một tổng thể sẽ có những quyền sở hữu được mỗi thành phần của nó, hay mọi điều đúng với bất cứ thành phần nào của một nhóm sẽ đúng với mọi thành phần. Điều này không có nghĩa chúng ta có thể tình cờ thấy được những trường hợp mà những gì đúng với tổng thể quả thực đúng với các thành phần của nó, hay ngược lại. Quy luật nói rõ rằng chúng ta không thể lạm dụng, nó sẽ luôn luôn như thế. Vì thế, nếu sự trao đổi bạn đạt được gần đây là một dạng mới, nó cũng giống như
những thành phần. (Nhưng thậm chí những người đã tạo thành ở đây được biết đến, đã sử
dụng những thành phần cũ khi chúng bao quanh những thành phần mới).
Trong phép cộng chúng ta phải nhớ rằng những lời nhận xét này về mối quan hệ giữa tổng thể, thành phần, nhóm và bộ phận liên quan tới những tổng thể vật chất và thành phần của chúng. Ở chỗ nào những tổng thể và thành phần hay nhóm và những bộ phận của chúng ngoài vật chất, không có sự sai lầm nào có thể được bao hàm.
Bài tiểu luận của Roger Rosenblatt (Tạp Chí Time, ngày 17 tháng 9, 1984) trong sự phản ứng về tai nạn hơi độc cac-bon thảm khốc ở Bhopal, Ấn Độ, đã cướp đi sinh mạng của hơn 2,500 người là một trường hợp đáng chú ý.
Rosenblatt bắt đầu bài tiểu luận của ông ta bằng lời trích dẫn nổi tiếng của John Donne "Bất cứ cái chết của ai đều làm tôi giảm tinh thần" (ở mặt ngoài, có thể phát sinh phạm phải việc sai lầm sự phân hóa). Ông ta nói về nó:
“Nó luôn được nghe quá mức. John Donne miêu tả rằng tư duy hơn 350 năm về trước trong một thế giới không có những phương tiện thông tin đại chúng, mà cái chết của một người được loan báo bằng một tiếng chuông nhà thờ. "Nó rung chuông 3 lần" ông ta nói. Có thật vậy không? Lo-gic sẽ gợi ý rằng cái chết của một cá nhân sẽ không giảm bớt nhưng đúng hơn là nâng cao cuộc sống của mọi người, từ việc càng nhiều người chết, cành nhiều không gian và nguyên vật liệu cho những người còn lại. Trước sự chuyển đổi của ông ta, bác Scrooge đã thích để người nghèo chết hơn "và giảm đi dân số thừa". Scrooge có lẽ không có Thượng Đế ở bên cạnh ông ta, nhưng sự tính toán của ông ta thì không chê vào đâu được.”
John Donne có đáng bị khiển trách về việc sai nhầm sự phân hoá này không? Có lẽ, ông ta chỉ có trong ý nghĩ những hậu quả vật chất của cái chết.
Nhưng Donne dường như hạn chế một phản ứng mà sâu sắc và vững chắc hơn. Bất cứ cái chết của ai đều làm tôi nhỏ bé hơn, ít ra tôi đã từng như thế trước khi tôi nghiên cứu về cái chết đó, bởi vì thế giới là một bản đồ của những quan hệ nối liền với nhau. Như thế giới giảm về kích cỡ, thì những bộ phận của nó cũng thế. Những tác phẩm của Donne cũng vậy … cả thế giới trải qua một sự mất mát về số lượng ở một cái chết của cá nhân …
• Việc sai lầm sự phân hóa gồm có giả định mà những gì đúng với tổng thể hay nhóm thì phải đúng với mỗi thành phần hay bộ phận của nó.
• Sự sai lầm kết cấu gồm có giả định đối lập: những gì đúng vứi mỗi thành phần của một tổng thể hay một bộ phận của một nhóm phải đúng với tổng thể hay nhóm.
6. Tóm Tắt
Chương này đã trình bày sáu sự sai lầm về tối nghĩa. Những sự sai lầm như thế được chỉ ra như những sự sai lầm ngôn ngữ học, trong đó chúng xuất phát từ cách sử dụng ngôn ngữ có nhiều hơn một nghĩa. Chúng ta đã thấy rằng cách tốt nhất để làm sáng tỏ những sự sai lầm như thế là gạn lọc ngôn ngữ trong câu hỏi.
Lối nói lập lờ là tên gọi được đưa ra những sự sai lầm xuất phát từ một sự thay đổi trong ý nghĩa của một từ mấu chốt trong suốt lý luận. Khi chúng ta tạm chấp nhận rằng một đối thủ sẽ không chấp nhận những lý do của chúng ta về một điều gì đó bởi vì họ sẽ không lắng nghe những lý do đó, chúng ta thay đổi ý nghĩa của từ lý do trong suốt quá trình lý luận của chúng ta. Để làm như thế, chúng ta áp dụng lối nói nước đôi.
Câu nước đôi được chỉ ra từ kết quả của sự tối nghĩa trong cấu trúc câu, như khi nhà triệu phú tiếp nhận kết luận sai từ nhà tiên tri đã tiên đoán: "Nếu nhà triệu phú tham chiến với Cyrus, ông ta sẽ huỷ diệt một vương quốc hùng mạnh"
Sự sai lầm của dấu trọng âm nảy sinh khi có một sự tối nghĩa liên quan tới giọng điệu mà một lời phát biểu được nói ra (ví dụ, được nói bằng một giọng điệu nghiêm túc hay châm biếm?); hoặc khi có một sự liên quan không chắc chắn mà nếu bất cứ từ, hay ngữ trong một lời nhận xét ngoại lệ được miêu tả đặc biệt (thí dụ như trong lời nhận xét "Hãy lịch sự với người lạ"); hoặc khi có một câu hỏi như một đoạn văn được trích dẫn không đúng và ví thế đưa ra một nhấn trọng âm và bằng cách ấy một ý nghĩa mà tác giả của nó không có ý muốn truyền đạt.
Phép tu từ được chỉ ra như một kết quả từ một từ hay ngữ trừu tượng được nghiên cứu như thể nó có những khả năng cụ thể, vật chất hay tích cực rõ rệt. Một sự trừu tượng như thế được minh họa trong lý luận khẳng định rằng, bởi tự nhiên "hoàn thiện" một chủng loại bằng cách loại trừ những thực thể không phù hợp, nó là quyền đối với mỗi nhóm
người để loại trừ nhóm khác.
Sự sai lầm về sự phân hóa được chỉ ra như kết quả từ việc cố gắng áp dụng những gì đúng đối với tổng thể hay nhóm cho mỗi thành phần hay bộ phận. Nhưng, theo chúng ta thấy, dàn nhạc giao hưởng Chicago có thể là dàn nhạc hay nhất trong nước, nhưng điều đó không tất yếu phải có nghĩa là nghẹ sĩ vĩ cầm đầu tiên trong dàn nhạc là giỏi nhất trong nước.
Sự sai lầm về kết cấu được chỉ ra như một kết quả từ việc cố gắng áp dụng nhưng gì đúng đối với một phần hay cá nhân cho tổng thể hay nhóm. Nhưng, chúng ta đã thấy, một bó cũi hay đội bóng đá không chỉ đơn thuần là tổng số những thành phần hay bộ phận của nó và sẽ có những đặc tính khác, riêng biệt.
Chuong 4
Những Ngụy Biện của Giả Định
Sai lầm của những giả định12 là những luận điểm không hoàn chỉnh do có những giả định hoặc những điều được thừa nhận mà chưa được chứng minh tồn tại trong nó. Sự không hoàn chỉnh đó không được nhận biết do chúng không được nói ra; một sự giải thích nghe có vẻ hợp lý đã che dấu đi khiếm khuyết trong một luận điểm và làm cho chúng ta chấp nhận luận điểm đó. Tuy nhiên, do không có một kết luận nào đáng tin cậy hơn những giả định mà chúng dựa trên nên những kết luận của những luận điểm đó cũng không đáng tin.
Trong nhóm đầu tiên, sai lầm được thực hiện xảy ra khi các yếu tố quan trọng có liên quan đã bị bỏ qua. Trong sai lầm của sự khái quát hoá, lỗi nằm trong giả định là những gì đúng trong một hoàn cảnh nhất định thì sẽ đúng đối với mọi hoàn cảnh. Trong lỗi của quơ đũa cả nắm, lỗi nằm trong giả định rằng những chứng cứ luận điểm này dựa trên đã
đầy đủ để đưa ra kết luận, nhưng thực tế thì các chứng cứ đó đã không được trình bày hoặc là trình bày không đầy đủ. Cuối cùng, sai lầm do chẻ đôi, điều này xảy ra trong trường hợp
chúng ta trình bày luận điểm và những luận cứ đưa là được cho là mâu thuẫn duy nhất, nhưng thực tế vẫn tồn tại những luận cứ khác.
Bỏ Qua Những Yếu Tố Cơ Bản
1. Khái Quát Hoá13
Khi xem xét sai lầm của kết cấu14 và khái quát hoá chúng ta cũng nên nhận thấy rằng, mặc dù có sự tương tự về mặt cấu trúc -- đã thảo luận trong chương trước -- nhưng hai nhóm này có sự khác nhau. Trong khi nhóm trước (phân hoá và kết cấu) tập trung vào mối quan hệ tổng thể và thành phần hoặc ngược lại -- những cái được xem xét mang tính vật chất và số lượng; những sai lầm của khái quát hoá và quơ đũa cả nắm lại tập trung vào những vấn đề áp dụng sai những yếu tố có tính trừu tượng như cái tổng quát, các quy tắc, nguyên tắc đối với từng trường hợp, sự kiện cụ thể.
12 Fallacies of Presumption
13 Fallacy of Sweeping Generalization
14 Fallacy of composition
Sai lầm của sự khái quát hoá xảy ra khi một nguyên tắc chung được áp dụng cho một trường hợp đặc biệt trong khi điều đó là không thể do những đặc điểm riêng biệt của trường hợp đó không cho phép. Hãy xem xét ví dụ sau:
a. Mọi người điều có quyền đối với tài sản thuộc sở hữu của họ. Do đó, mặc dù Jones bị tuyên bố là mất khả năng nhận thức, thì cũng không ai có quyền lấy đi các vũ khí của anh ta.
Cơ sở đầu tiên của luận điểm này là một nguyên tắc chung được thừa nhận rộng rãi. Tuy nhiên nó lại không thể được áp dụng trong trường hợp cụ thể này, một người bị mất lý trí và một phần tài sản anh ta có là vũ khí.
Nguồn gốc của tính thuyết phục trong trường hợp trên là có một sự tương tự như các luận điểm hợp lý trong đó các trường hợp cụ thể nằm trong phạm vi có thể được giải quyết bằng nguyên tắc chung. Điều cần phải nhớ ở đây là sự tổng quát được tạo ra chỉ để áp dụng đối với những trường hợp chung nhất chứ không phải cho các trường hợp cụ thể, đặc biệt nào đó.
Sẽ là một sự hợp lý hiển nhiên khi lập luận rằng: Mọi người trên đời này đều phải chết, do đó Socrates cũng phải chết (do bệnh tật, chết già... )
b. Bởi vì cưỡi ngựa là môn thể thao tốt cho sức khoẻ, Harry Brown phải luyện tập thường xuyên hơn vì nó tốt cho bệnh tim của anh ta.
Điều gì tốt cho sức khoẻ của một người bình thường thì không nhất thiết phải tốt cho người có vấn đề về sức khoẻ. Sai lầm của khái quát hoá đôi khi được gọi là sai lầm ngẫu nhiên, tình cờ để nhấn mạnh đặc tính bất thường của một trường hợp cụ thể mà điều đã được tổng quát không thể áp dụng.
Mặc dù các ví dụ trên đã phân tích một cách tương đối rõ ràng, nhưng đôi khi những sai lầm như vậy vẫn khó có thể được nhận ra khi các yếu tố liên quan đến một luận điểm phức tạp hơn. Xem xét ví dụ sau:
c. Tôi tuân thủ vào một quy tắc vàng: sẽ là trách nhiệm đương nhiên khi làm việc gì đó cho người khác giống như những gì mà họ có thể làm giúp tôi. Nếu tôi gặp khó khăn trong việc trả lời câu hỏi trong một buổi thi thì tôi sẽ nhờ người bên cạnh giúp đỡ. Do đó sẽ là trách nhiệm của tôi phải giúp người ngồi bên cạnh nếu họ nhờ tôi trả lời giúp các câu hỏi thi.
Một yếu tố quan trọng đã bị bỏ qua trong luận điểm trên. Mục đích của một kỳ thi là đánh giá mức độ hiểu biết của mỗi người như thế nào và mục đích đó sẽ không đạt được nếu xảy ra việc giúp đỡ nhau. Do đó quy tắc vàng sẽ không được áp dụng trong những tình huống tương tự như vậy.
Luận điểm thuộc loại mà chúng ta đang xem xét ở đây gồm hai phần: nguyên tắc chung và trường hợp cụ thể. Nếu một luận điểm mà không phù hợp thì đó là trường hợp mà chúng ta áp dụng quy tắc chung đó là trường hợp ngoại lệ và trường hợp đặc biệt đó không phụ thuộc vào nguyên tắc chung. Để phát hiện ra những lỗi như thế, điều cần phải
làm là tách quy tắc ra, sau đó việc hiểu một cách đúng đắn sẽ cho thấy rằng trường hợp cụ thể nào sẽ không thể áp dụng các quy tắc chung. Trở lại các ví dụ trên chúng ta có thể nói như sau: (a) mọi người có quyền đối với tài sản thuộc sở hữu của họ, nếu anh ta hoặc cô ta không bị mất trí; (b) cưỡi ngựa sẽ tốt cho sức khoẻ của một người nếu tình trạng sức khoẻ của anh ta cho phép; (c) chúng ta phải giúp đỡ người khác nhưng không phải ở trong phòng thi.
Như trong một số sai lầm mà chúng ta đã nghiên cứu, sai lầm của khái quát hoá cũng dẫn đến những hiệu quả gây cười. Một thí dụ nổi tiếng được trích ra từ tác phẩm Decameron, một tuyển tập các truyện cổ hài hước từ thế kỷ 14 ở nước Ý.
Một số đoạn đã bị lược bỏ, câu chuyện diễn ra như sau:
d. Một người hầu trong khi đang nướng một con cò cho ông chủ của anh ta đã bị cô người tình nhân thuyết phục hãy cắt một chân của con cò cho cô ta ăn. Khi con cò được mang đến bàn ăn, ông chủ muốn biết chuyện gì đã xảy ra với cái chân
kia của con cò. Anh người hầu trả lời rằng con cò chỉ có một chân. Ông chủ rất
tức giận nhưng quyết định "làm cứng họng" anh người hầu trước khi trừng phạt anh ta. Ngày hôm sau ông đưa anh ta ra ngoài đồng, nơi đó họ thấy bầy cò đang đứng trên một chân như chúng vẫn thường làm. Anh hầu vẻ mặt vui mừng hướng sang phía ông chủ. Sau đó, một tiếng động phát ra, lũ cò thả cái chân còn lại xuống và bay đi mất. Anh người hầu nói "Ồ thưa ngài, tối hôm qua ngài đã không quát thẳng vào con cò; nếu ngài làm như vậy chắc nó đã chìa cái chân còn lại ra rồi"
Quy luật mà anh người hầu đã dựa vào đó để biện hộ cho mình trong trường hợp trên có thể được diễn đạt như sau: Loài cò có thói quen đứng một chân, nhưng nó sẽ thả chân kia xuống khi nghe tiếng động. Tuy nhiên quy luật này sẽ không thể áp dụng vào trường hợp con cò khi sinh ra chỉ có một chân hoặc con cò đã bị nướng chín.
Chúng ta nên lưa ý rằng, mặc dù sự tổng quát có thể bị lạm dụng nhưng chúng vẫn rất hữu ích trong lo-gic. Sự khái quát hoá cho phép chúng ta suy ra quy tắc chung với một mức độ hợp lý khi chúng ta không có khả năng kiểm ta tất cả mọi trường hợp cụ thể. Để
trở nên chính xác, chúng ta cần tránh việc khái quát hoá bởi vì sẽ có nhiều trường hợp nằm ngoài phạm vi các quy tắc mà chúng ta đã tổng quát hoá. Một luật sư với sự hiểu biết pháp
luật và óc quan sát tốt nhiều khi sẽ mang điều lợi lại cho khách hàng của anh ta do dựa trên những vấn đề chuyên môn mà trong hoàn cảnh khác những vấn đề đó có thể bị xem là vặt vãnh. Nhưng đó là vấn đề trình độ của một người. Nếu không nhận ra được các tình tiết giảm nhẹ khi phán xử một người thì đó là việc chỉ tuân thủ các câu chữ trong luật chứ không phải tinh thần của luật pháp. Nếu như vậy sẽ là áp dụng một cách máy móc trong
khi lại bỏ qua những chi tiết quan trọng của vụ việc.
Sai lầm của khái quát hoá hoá sẽ diễn ra khi áp dụng nguyên tắc chung không
đúng. Những quy tắc, sự việc được khái quát được tạo ra để áp dụng cho những trường hợp thông thường nhất chứ không nhất thiết phải áp dụng cho tất cả mọi trường hợp, và điển hình là trường hợp đặc biệt hay ngoại lệ.
Sự khái quát hoá không giống với sai lầm do phân hóa. Trong khi sai lầm do phân hóa xem xét mối liên quan mang tính vật chất giữa cái tổng thể và cái thành phần thì sự
khái quát hoá lại xem xét vấn đề áp dụng sai những nguyên tắc trừu tượng hoặc những điều được tổng quát đối với những trường hợp không nằm trong phạm vi của những điều được khái quát đó.
2. Gôm Đũa Cả Nắm15
Sai lầm của gôm đũa cả nắm trái ngược hoàn toàn với sự khái quát hoá. Gôm đũa cả nắm là việc một trường hợp cá biệt được xem như là cơ sở cho việc đưa ra một kết luận chung một cách tuỳ tiện. Xem xét hai ví dụ sau đây:
a. Tôi đã có khoảng thời gian tồi tệ chung sống với người chồng cũ. Từ đó đã hiểu rằng mọi đàn ông đều không tốt.
b. Tôi biết một người là đại diện của Liên Đoàn, bà ta là một con người khủng khiếp. Tôi không nên tin bất cứ ai trong số họ.
Hai luận điểm trên đây là không hợp lý bởi vì họ đã cho rằng một điều gì đã đúng trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định sẽ đúng trong mọi hoàn cảnh khác. Những bằng chứng được đưa ra chỉ cho phép một kết luận cụ thể chứ không phải là một kết luận chung nhất. Một lần nữa chúng ta cần nhớ rằng không thể hoặc không cần thiết phải kiểm tra tất cả mọi khả năng. Trừ khi một số lượng vừa đủ đã được kiểm nghiệm nếu không những kết luận sẽ là quá vội vàng và do đó không đáng tin cậy.
Trong một số trường hợp sai lầm do sự kết luận vội vàng hay gôm đũa cả nắm có nguyên nhân từ việc kết luận dựa trên những trường hợp ngoại lệ và do đó không có tính tiêu biểu. Chúng ta sẽ sai khi nói , "Anh ta nói hay đến mức mọi người có thể nhận ra là anh ta đã học qua lớp đóng phim," hoặc "Đây hẳn là những viên thuốc vì vị của nó thật đắng". Trong cả hai ví dụ trên, những trường hợp cụ thể có liên quan đến quy tắc chung nhưng không mang tính bản chất.
Truyện Sherlock Holmes của Conan Doyle có rất nhiều minh hoạ cho sự lý giải phức tạp của nhà thám tử bậc thầy. Chỉ vài giây sau khi được giới thiệu với bác sĩ Watson, Holmes đã quả quyết rằng Watson vừa mới từ Afghanistan trở về.
c. Đây là một thầy thuốc, nhưng ông ta lại có dáng vẻ của một quân nhân. Rõ ràng đó là một bác sĩ quân y. Ông ta vừa trở về từ vùng nhiệt đới, vì khuôn mặt đen và đó không phải là màu da tự nhiên của ông ta và cổ tay khá lớn. Ông ta vừa trải qua một giai đoạn khó khăn và bệnh tật, vẻ mặt phờ phạc đã nói lên điều đó. Cánh tay trái của ông ta bị thương, ông ta giữ nó với vẻ cứng nhắc và không tự nhiên. Ở khu vực nào của vùng nhiệt đới lại có nhiều bác sĩ quân y phải trải qua những khó khăn và bị chấn thương ở tay như vậy? Rõ ràng là ở Afghanistan. (Vụ Án ở Scalet, phần I, chương 2)
15 Fallacy of Hasty Generalization
Rõ ràng là Watson có thể mang dáng vẻ của một quân nhân mà chẳng cần phải trải qua quân đội; ông ta cũng có thể có khuôn mặt rám nắng mà không cần phải sống nước ngoài. Holmes đã kết luận một cách vội vàng khi mà các bằng chứng chưa đầy đủ.
Một biến thể của sự kết luận vội vàng xảy ra khi chỉ những luận chứng hỗ trợ cho luận điểm được sử dụng trong khi những bằng chứng phản biện lại bị bỏ qua.
d. Dưới hệ thống xã hội chủ nghĩa có nhiều người nghèo, lao động và tài nguyên bị lãng phí, cạnh tranh khốc liệt, bản chất hám lợi bộc lộ, khủng hoảng và suy thoái.. Tất cả những điều này đã chứng minh hệ thống này là thối nát và đáng bỏ đi.
Thậm chí khi những bằng chứng được đưa ra là đúng, chúng ta cũng chưa có đầy đủ cơ sở để đi đến một hành động quyết liệt là phải xoá bỏ nó. Cố gắng sửa chữa những khuyết điểm đó bằng cách xoá bỏ nó chẳng khác nào quăng đứa trẻ ra ngoài cùng với nước tắm. Những ưu điểm của hệ thống này đã không được đề cập đến, điều đó có thể làm giảm đi những khuyết điểm của nó.
Những suy nghĩ ẩn dấu đằng sau luận điểm (d) là một dạng của sự hợp lý hoá (duy lý), những lý giải có vẻ hợp lý được đưa ra để bào chữa cho niềm tin đối với cái khác, thường có cơ sở kém chắc chắn hơn. Sự duy lý được sử dụng bởi những người có các lợi ích phải bảo vệ. Thay vì kiểm tra mọi bằng chứng, họ chỉ lựa chọn những gì có lợi nhất cho lý luận của mình. Cùng lúc đó, họ cố gắng gây ra một ấn tượng rằng mọi bằng chứng đã được kiểm tra và những bằng chứng đó đều có lợi cho họ. Một số chính trị gia đánh giá
những thành công của mình với niềm hãnh diện và đánh giá thành công của người khác với nỗi lo lắng. Họ thuyết phục để được bầu bằng chiêu bài giảm thuế nhưng lại không chú ý
rằng các dịch vụ công cộng sẽ bị giảm do sự cắt giảm thuế đó. Các công ty cho vay nhấn mạnh việc bảo toàn vốn và các khoản lợi tức hàng tháng mà không chú ý đến việc tỷ lệ lãi suất cao hoặc một số người không có khả năng hoàn trả vốn vay.
Việc đưa ra những bằng chứng theo cách một chiều như vậy dường như có thể được chấp nhận tại toà án, trong đó mỗi bên sẽ đưa ra những chứng cứ có lợi nhất cho mình. Tuy nhiên nguyên tắc đối chất sẽ được áp dụng để bảo đảm rằng thẩm phán và bồi thẩm đoàn đã xem xét tất cả các bằng chứng và đã nghe hết toàn bộ sự thật.
Mặc dù những lý lẽ phản chứng có thể được tìm ra để phản biện lại một luận điểm, nhưng người tranh luận không nhất thiết phải bày tỏ thiện chí của mình bằng cách đưa ra những lý lẽ đó. Sai lầm của việc kết luận vội vàng sẽ mắc phải khi chúng ta không đưa ra những lý lẽ phản chứng như thế.
• Trong khi sự khái quát hoá xảy ra khi một người áp dụng những điều khái quát một cách không đúng, thì gôm đũa cả nắm lại là việc một người đã vội vàng tổng quát một vấn đề nào đó một cách sai lầm khi chỉ dựa trên những sự việc cụ thể, mang tính ngoại lệ và không đặc trưng cho điều được khái quát.
• Gôm đũa cả nắm không giống sai lầm do kết hợp ở chỗ: sai lầm do kết hợp liên quan đến những mối quan hệ có tính vật chất giữa cái tổng thể và cái thành phần,
gôm đũa cả nắm lại liên quan đến những tình tiết và sự việc được tổng quát và những tình tiết chúng ta áp dụng vào.
3. Lý Luận Rẽ Đôi16
Sai lầm do lý luận rẽ đôi là luận điểm cho rằng một yếu tố nào đó là hoàn toàn và duy nhất trong khi thực tế lại có những cái khác tồn tại. Lý luận rẽ đôi có liên quan mật thiết với sự nhầm lẫn trong cấu trúc hoặc là giống như trong lập luận của Bertrand Russel năm 1948 "Hoặc là chúng ta phải chiến tranh với nước Nga trước khi họ có bom nguyên tử hoặc là chúng ta quỳ xuống để họ thống trị". Trong một số cuộc tranh luận một số người nói "Thà chết còn hơn theo phái cánh tả" trong khi một số người khác lại nói "Thà theo
phái cánh tả còn hơn chết", cả hai bên tranh luận đã bỏ qua một luận điểm thứ 3 khác "thà hơi thiên về cảnh tả còn hơn tuyệt chủng".
Lý luận rẽ đôi đưa ra hai nhóm luận điểm trái ngược nhau có vẻ như mâu thuẫn.
Hai luận điểm trái ngược nhau đó không xảy ra trường hợp cả hai luận điểm đó cùng đúng nhưng lại có thể xảy ra trường hợp cả hai cùng sai. Nếu chúng ta nói rằng Jane có thể giàu hoặc có thể nghèo nghĩa là cô ấy không thể cùng một lúc vừa giàu lại vừa nghèo, mà chỉ có thể là một trong hai trường hợp đó. Hai luận điểm được cho là mâu thuẫn là hai luận điểm không cùng đúng hoặc không cùng sai. Ví dụ: hoặc là ông ta còn sống hoặc đã chết; hoặc
là hôm nay là sinh nhật của bạn hoặc không phải. Nếu điều này là đúng thì điều kia phải sai hoặc ngược lại. Sai lầm của lý luận rẽ đôi xảy ra khi hai yếu tố có tính trái ngược nhau được sử dụng như là hai yếu tố mâu thuẫn. (TQ hiệu đính: trái ngược là hai luận điểm đối chọi nhau, nhưng có luận điểm khác ở giữa. Như trắng và đen là trái ngược vì giữa trắng và đen còn có nhiều màu khác. Mâu thuẫn là hai điều khác biệt duy nhất mà không có điều thứ ba ở giữa. Trên phương diện tư duy, sống và chết là mâu thuẩn, vì chúng ta không có thể loại sinh tồn đứng giữa sống và chết.)
Bởi vì ngôn ngữ đầy những yếu tố đối lập, nên xu hướng xảy ra sai lầm như thế này là thường xuyên. Trong cuộc sống chúng ta thường thiên về một trong hai thái cực như
"có" và "không có", "tốt" và "xấu", "bình thường" và "bất thường", nhưng chúng ta lại quên rằng giữa chúng có những cái mang trạng thái trung gian, có thể xem như là một lựa chọn khác cho hai thái cực đó.
Lý luận chẻ đôi cũng giống như một quan chức đang cao giọng rằng "Hãy cho tôi biết báo cáo này là tốt hay tồi" mà không thấy rằng báo cáo đó chứa đựng cả hai yếu tố đó. Điều này cũng giống như những người có tư tưởng chống lại những gì liên quan đến nước Nga một cách mạnh mẽ trong thời kỳ chiến tranh lạnh.
a. Hãy để tôi nói một cách nghiêm túc. Chỉ có thể có một thủ đô, Washington hoặc Moscow. Chỉ có thể có một lá cờ, Cờ các ngôi sao với các vạch ngang (cờ nước Hoa Kỳ) hoặc Cờ búa liềm (Cờ Liên xô). Chỉ có một bài quốc ca "Star- Spangled Banner" hoặc "Quốc tế ca."
16 The Fallacy of Bifurcation
Trong lúc bực tức một người có thể phản ứng lại với một lời than phiền như sau: "Vậy anh cho rằng món súp này quá nguội? Tôi lại cho rằng anh thích một cái gì đó nóng thì phải." Xét về khía cạnh lo-gic, kiểu tranh luận như trên đã đẩy chúng ta vào hoàn cảnh khó khăn là phải lựa chọn một trong hai trường hợp trên; trong khi thực tế lại cho phép chúng ta có những lựa chọn khác nữa.
Suy nghĩ thiên về một thái cực đôi khi giúp chúng ta bớt tốn kém về sức lực hơn là xem xét toàn bộ khía cạnh của vấn đề. Các nhà quảng cáo thướng cố ý gạt bỏ những suy nghĩ không tốt của chúng ta về một sản phẩm bằng cách hướng chúng ta đến một khía cạnh nào đó phù hợp với mục đích của họ.
b. Nếu bạn biết về xe BMW, bạn đang có một cái hoặc là bạn muốn có nó một chiếc.
Đôi khi những định kiến làm cho ta không biết được rằng vấn đề mà chúng ta đang gặp phải còn có cách giải quyết khác, nhưng đôi khi định kiến đó lại phản ánh mong muốn của chúng ta về một giải pháp đơn giản cho một vấn đề phức tạp. Ví dụ đưa ra sau đây sẽ chứng minh: chính sách ngoại giao của chúng ta dựa trên nguyên tắc các quốc gia là bạn hoặc là kẻ thù của chúng ta.
Trong nhiều ví dụ về sai lầm so lý luận rẽ đôi, hai lập luận được đưa ra có vẻ mâu thuẫn, nhưng thực tế lại không phải như vậy:
c. Chúng ta phải lựa chọn giữa an toàn và tự do. Và bản chất của một người Mỹ
chân chính là lựa chọn rủi ro và chấp nhận nguy hiểm.
Tự do và an toàn không hoàn toàn mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên luận điểm trên đây
đã làm cho chúng ta bỏ qua những yếu tố khác có liên quan.
• Bifurcation có nguồn gốc từ tiếng La tinh, có nghĩa là "hai hướng" (Bi theo tiếng La tinh là một tiếp đầu ngữ (tiền tố) có nghĩa là "hai", và furca có nghĩa là "đoạn rẽ" hoặc "nhánh")
• Sai lầm của lý luận rẽ đôi là những luận điểm cho rằng một yếu tố riêng biệt nào đó là mâu thuẫn hoàn toàn và duy nhất khi mà trong thực tế còn có những yếu tố khác cho chúng ta giải quyết vấn đề có liên quan.
• Những cặp từ được sử dụng trong lý luận rẽ đôi là những cặp từ biểu thị hai thái cực khác nhau như (giàu/nghèo, tốt/xấu, bình thường/bất thường). Chúng ta quên mất rằng chúng chỉ đại diện cho hai cực của trạng thái khác nhau và ở giữa đó còn nhiều cấp độ trạng thái khác.
• Đôi khi còn gọi là lý luận trắng đen. Lối lập luận chỉ liệt kê ra hai điều, ví dụ trắng hay đen, trong khi thực tế có nhiều vấn đề khác ngoài trừ trắng và đen (như đỏ, xanh, vàng).
Lảng Tránh Sự Thật17
Trong loại sai lầm giả định này, những lỗi mắc phải không chỉ là việc bỏ qua một
số yếu tố khác mà còn là việc tạo ra cho chúng ta cảm giác rằng luận điểm đó đã giải quyết tất cả các vấn đề liên quan nhưng thực tế lại chưa hề giải quyết. Những luận điểm như vậy đánh lừa chúng ta bằng cách nói rằng một vấn đề nào đó đã được đề cập đến nhưng thực tế lại hoàn toàn khác.
Có bốn kiểu sai lầm trong loại sai lầm này. Sai lầm do không đi thẳng vào vấn đề (lý lẽ vòng quanh) là việc giải quyết vấn đề bằng cách lặp lại nó. Không tập trung vào vấn đề theo kiểu ngôn ngữ cường điệu là việc lảng tránh một kết luận hợp lý bằng cách xét đoán các yếu tố. Câu hỏi phức hợp lảng tránh sự thật bằng cách tranh luận về một vấn đề khác với vấn đề đang bàn. Cuối cùng, sự biện hộ đặc biệt làm cho chúng ta xem xét vấn đề trên quan điểm thiên vị.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |