1. Khái Quát Về Cấu Trúc Một Bài Luận
Hãy giả định rằng bạn được giao nhiệm vụ viết một bài luận từ ba đến năm trang cho lớp của mình. Nhiệm vụ đó có thể được chỉ dẫn bằng một cấu trúc hoàn toàn dễ hiểu. Mặc dù những bài luận có nhiều dạng và quy mô, kết cấu dễ dàng nhất mà bạn sẽ áp dụng (và sửa đổi nếu bạn muốn) sẽ là một bài luận theo truyền thống gồm ba phần. Sự mô tả sau đây về cấu trúc này, cùng với bài luận của sinh viên được sử dụng để chứng minh, phù hợp với các cách viết lập luận truyền thống. Một bài lập luận đã lấy một kết luận về một vấn
đề, hoặc một kết luận đặc biệt đến một tác giả khác, và đồng ý với, hoặc không đồng ý với, hoặc đôi khi sửa đổi những kết luận đó. Đó là việc trình bày những luận cứ được tổ chức theo các đoạn văn mạch lạc và hợp lý. Cấu trúc như vậy được tổ chức như sau.
Mở đầu
Một bài luận truyền thống được bắt đầu bằng cách giới thiệu về chủ đề. Bên cạnh đó nó nêu ra một luận đề68 mà tác giả muốn chứng minh. Đoạn văn đầu tiên của một bài luận thường được gọi là giới thiệu. Hãy xem một sinh viên đã bắt đầu một bài luận của mình về Socrates:
“Năm 399 trước công nguyên một người đàn ông tên là Socrates đã được đưa ra toà xét xử và bị buộc tội chết bởi người được cho rằng là do chúa phái đến để
giúp đỡ và cải tạo. Sự buộc tội chống lại ông ta là gấp đôi. Ông bị buộc tội về, đầu tiên là tư tưởng vô thần hay "không tin vào chúa, người mà cả cộng đồng đều tin vào, mà lại tin vào những thần thánh khác" (Tội lỗi 24b). Thứ hai, ông bị buộc tội
vì đã làm vẩn đục tâm hồn những người trẻ tuổi. Socrates đã bị xét xử do những luận điểm này bởi hội thẩm gồm những người ngang hàng ông, và sự kết tội đối với ông phản ánh rằng ông đã vượt quá giới hạn của pháp luật đã duy trì xã hội Athen. Tuy nhiên có thể tìm thấy những lý do phức tạp hơn để lý giải cho hình phạt tử hình đối với Socrates đó là người dân Athen cảm thấy bị đe doạ về mặt cá nhân cũng như về phương diện văn hoá bởi những điều mà Socrates dạy.”
Tác giả này đã bắt đầu đoạn văn của mình thông qua quá trình sau: (1) đưa ra chủ đề là sự xét xử đối với Socrates và hình phạt, (2) thu hẹp và tập trung chủ đề vào vấn đề hình phạt chống lại Socrates, và (3) để người đọc biết được ý định của người viết là không đồng ý với phán quyết tử hình chỉ vì phá vỡ các luật lệ; người viết cho rằng lập luận của mình sẽ tập trung vào việc người Athen phản ứng đối với những gì mà Socrates giảng dạy. Sự mở đầu này chuẩn bị cho người đọc biết được vấn đề được bàn đến và thu hẹp nội dung chủ đề đã được xác định. Kết luận, hay luận đề đó được người viết trình bày một cách lưu loát; với tư cách người đọc chúng ta sẵn sàng cho một cuộc thảo luận tại sao người viết đặt ra vấn đề và xem xét tầm quan trọng của "những sự thực" xung quanh cái chết của
Socrates.
Thân bài
Mỗi đoạn văn trong phần thân bài của một bài luận trình bày và phát triển các luận điểm của tác giả với sự chi tiết và các ví dụ (thường gọi là các bằng chứng) để chứng minh kết luận đã đưa ra. Bạn có thể có được cái nhìn tổng quan về cấu trúc của một bài luận bằng cách xem xét bốn đoạn văn tiếp theo của bài luận này trong đó người viết trình bày những phát hiện của mình xoay quanh nguyên nhân dẫn đến cái chết của Socrates:
Để hiểu được quyết định của người dân Athen, chúng ta phải tìm hiểu những tình huống xung quanh vụ xét xử, cũng như làm quen với đặc điểm của Socrates và những lời buộc tội. Tác phẩm Lời thú tội của Plato, là cơ sở tin cậy để hiểu được triết lý của Socrates, đưa ra những chứng minh có giá trị của Socrates và những phương pháp suy luận của ông. Socrates tự bảo vệ mình bằng những lo-gic và chân giá trị, bác bẻ lại những sự cáo buộc chống lại ông, cũng như những điều chưa được nói ra. Khi ông tuyên bố trong vụ án, Socrates nhắc đi nhắc lại với bồi
68 thesis
thẩm đoàn rằng những điều ông nói ra là sự thật, mọi sự suy luận không phải bao giờ cũng khó phát hiện và những người buộc tội ông đã lừa dối. Bên cạnh đó, ông liên tục nói rằng hoạt động của ông là bổn phận hay nghĩa vụ tôn giáo được giao cho ông bởi chúa trời. Theo sự giải thích của Plato tại phiên toà, Socrates những điều mà chúa trời ban ra, không một người nào có thể phán xét. Không một lần, ngay cả sau khi ông bị kết tội chết, Socrates kêu gọi lòng thương xót của các vị
bồi thẩm hay cố gắng xu nịnh họ; ông thậm chí còn đi xa hơn khi nói rằng nếu ông được tha thì ông lại tiếp tục những hoạt động khiến ông bị đưa ra xét xử. Socrates sau lúc đó trở thành một con người với nghĩa vụ tôn giáo không thể bị lay chuyển bởi ý kiến của người Athen rằng ông đã phá vỡ các quy tắc đã điều chỉnh cuộc sống của thành phố này.
Đoạn văn thứ hai này đưa ra bối cảnh để hiểu được những luận điểm của người viết trong đó nó thay đổi hình ảnh của Socrates là một người "bị buộc tội nghịch đạo" trở thành một Socrates là "một người bị kết tội". Mặc dù tác giả đã đưa ra chủ đề và kết luận trong phần đầu tiên của bài luận, trong phần thân bài của bài luận người viết tiếp tục làm rõ chủ đề bằng cách trình bày cái nhìn cụ thể về những động cơ và cư xử của Socrates. Bằng cách đó người viết đã thu hẹp chủ đề và những ví dụ cụ thể được đưa ra để làm rõ luận chứng. Phần còn lại của phần thân bài đưa ra những luận điểm chắc chắn rằng Socrates đã tuân thủ pháp luật của chúa trời hơn là pháp luật của xã hội:
Vậy những cái gì đã làm cho hoạt động của Socrates không được chấp nhận đối với nhiều người? Socrates tin rằng ông là món quà của chúa trời dành cho người dân Athen, được gửi đến để mở rộng tầm mắt đối với những khiếm khuyết của
họ, để họ có thể sửa chữa những khiếm khuyết đó. Phương pháp của Socrates là: gặp những người tự cho mình là thông minh, Socrates sẽ, như Plato nói, "đến với sự giúp đỡ của chúa trời và chỉ cho người đàn ông đó thấy rằng ông ta không phải là người thông minh".(23c) ông sẽ đặt vấn đề với người đàn ông đó về niềm tin
của ông ta và những khẳng định, buộc ông ta nhận thấy rằng những ý kiến của ông ta đầy mâu thuẫn. Socrates cảm thấy rằng nếu mọi người nhận thức được sự ngu dốt của họ, họ sẽ bắt đầu đi tìm kiếm sự thật; trong suy nghĩ của Socrates, những người chối bỏ sự ngu dốt của mình không thể suy nghĩ và hành động giống như chúa mong muốn ở họ. Tuy nhiên Socrates liên tục thách thức cộng đồng người Athen và khiến cho những công dân của họ lên án cả nhà triết học và triết
lý của ông.
Tuy nhiên khó khăn không đặt lên Socrates nhiều bằng bản thân những người
dân Athen. ở mức độ cá nhân, một người dân Athen có thể cảm thấy xấu hổ và bẽ mặt khi Socrates đặt ra vấn đề làm phơi bày những khiếm khuyết và mâu thuẫn trong khả năng của họ để suy nghĩ một cách khôn ngoan. Những vấn đề của ông làm cho những người nói chuyện với ông nhận thấy một cách khó chịu về sự ngu dốt của họ, cũng như trở nên ngớ ngẩn, thường là trước mặt những người khác. Hãy lấy ví dụ về phản ứng của ông đối với các quan toà về việc họ cáo buộc ông
là nghịch đạo và ngạo mạn đối với chúa: "có thể rằng chúa trời thông thái… và khi ông nói về người đàn ông này, Socrates, ông đang sử dụng tên của tôi như là một ví dụ như thể ông đã nói: 'người đàn ông này trong số các bạn, những con người, là thông thái nhất, giống như Socrates, ông hiểu được trí khôn của ông là vô giá trị".(23b). ở đây đã nhẹ nhàng phá bỏ những cơ sở của những giả định của người dân Athen là Socrates nghĩ bản thân ông ta đứng trên cả chúa trời; ngay lúc đó
ông đã cho thấy mình là một con người cực kỳ sùng đạo (đạo đức giả). Thái độ như vậy chỉ làm các quan toà cảm thấy ngu ngốc, do đó họ, giống như Euthyphro trong cuộc đối thoại của Plato, chờ đợi một sự trốn thoát khỏi những điều sỉ nhục.
Ở mức độ lớn hơn, Socrates đã thách thức cấu trúc xã hội Athen, chỉ ra những khiếm khuyết mà những công dân của thành phố đã không nhìn thấy. Những người Athen nhanh chóng muốn tống khứ con người đã phơi bày những thất bại cá nhân của họ và phá vỡ những chuẩn mực xã hội đã được thiết lập. Để vấn đề xấu hơn, Socrates đã chỉ ra những vấn đề mà không kèm theo giải pháp. Nếu ông đề nghị một sự thay thế, mọi người sẽ thấy rằng những điều mà ông chỉ bảo sẽ dễ nuốt hơn, hoặc ít nhất họ tìm thấy những lý do chắc chắn để đưa ông ra toà. Socrates chỉ nói đến những người Athen biết nhận thức để họ nhận ra những sai lầm của mình để mà sửa chữa. Socrates đã so sánh những người dân Athen như những con ngựa đang mê ngủ và có thể bị đánh thức dậy và hoạt động bởi những sinh vật nhỏ bé có vòi đâm. Những người dân Athen có thể khó chịu bởi những sinh vật này, Socrates, và bị đánh chết.
Bốn đoạn văn đã nêu ra và phát triển hai luận điểm: đầu tiên là Socrates là một người tôn thờ những luật lệ của chúa trời, và thứ hai là người dân Athen cho rằng những triết lý của ông và cách mà ông bày tỏ những triết lý đó đe doạ họ về phương diện cá nhân và văn hoá. Đến đây người viết bắt đầu đạt được sự chứng minh trong kết luận của mình trong đó người viết trình bày những luận điểm bác bỏ lại ý kiến cho rằng Socrates đơn thuần bị kết tội chết vì ông bị phán xử là một tội phạm.
Tuy nhiên, đoạn văn này sẽ phải tiếp tục nếu nó muốn làm rõ một luận cứ khác làm cơ sở cho luận điểm của nó: rằng những người dân Athen không nhìn thấy những khiếm khuyết của họ trong quá trình suy luận cũng như những khiếm khuyết trong văn hoá
Athen. Những nhận định đó không thể được chứng minh vượt ngoài sự ngờ vực. Với ý đó, người viết trình bày một đoạn văn truyền thống thuyết phục sự chấp nhận của chúng ta về
sự thật bản chất con người, và đưa ra 2 điều tương tự để chứng minh cho sự thật đó:
Sự miễn cưỡng tìm kiếm một sự cải thiện trong bản thân và xã hội có phải là đặc tính của riêng người dân Athen không, hay là nó còn mang một nghĩa rộng hơn? Để trả lời câu hỏi này chúng ta phải xác định xem những tính được phô bày bởi những người cùng thời với Socrates là khác biệt với xã hội của họ, hay đó là những đặc điểm vĩnh viễn.
Chúng ta có thể giải quyết vấn đề này bằng cách trước hết xác nhận rằng giống như những người Athen hầu hết mọi người đều không thích chứng kiến sự thiếu sót và yếu kém của mình. Ví dụ như người say rượu. Người ta thường nói rằng bước lớn nhất để làm thức tỉnh người nghiện rượu là làm cho người bệnh thừa nhận vấn đề của họ và tìm kiếm sự giúp đỡ. Bước này được xem là quan trọng nhất bởi vì lý do sau: những người có vấn đề về uống rượu không có khả năng thừa nhận hoặc là thậm chí nhận ra là họ không thể kiểm soát việc uống rượu của họ. Họ khẳng định rằng có thể ngừng uống rượu bất cứ lúc nào. Họ không muốn đối mặt với vấn đề, thậm chí ngay cả khi họ biết rằng việc nghiện rượu có thể
pháp bỏ sự nghiệp,hôn nhân và gia đình. Nói tóm lại, họ sống một cuộc sống tự
lừa dối bản thân. Mặc dù họ có thể biết cách nhận thức được tình trạng của họ, nhưng họ đã không làm được như vậy.
Người ta thường cho rằng con người thường không muốn niềm tin của họ được đem ra tranh cãi. Như ngôi nhà được xây dựng trên nền móng, họ xây dựng cuộc sống của mình trên cơ sở những niềm tin, và nếu móng của ngôi nhà bị lung lay, ngôi nhà có thể bị đổ. Mặc dù mọi người thích thú với một số thay đổi, nhưng họ lại sợ những sự thay đổi đòi hỏi sự điều chỉnh lại hoàn toàn cuộc sống và cách suy nghĩ của họ. Việc đề nghị những điều như thế dường như đe doạ, thậm chí làm mất phẩm giá cá nhân.
Những người mà gieo rắc sự ngờ vực vào đầu người khác về sự công bằng trong những giả thuyết của họ, đặc biệt là người… chắc chắn bị coi là kẻ thù bất kể là
xã hội mà họ đang sống là xã hội nào. Dường như Socrates đã bị loại bỏ bởi cộng đồng của ông bất kể là ông được sinh ra lúc nào và ở đâu. Mọi người sẽ bực tức khi ông có gắng giúp họ tự cải tạo cho dù là họ sống ở Athen, 399 tcn., hoặc sống ở thành phố New York năm 1993.
Bạn đã thấy rằng phần thân bài của bài luận này được cấu thành hai phần: phần đầu tiên là giải thích lại niềm tin của Socrates và những hành động và phản ứng của người dân Athen đối với những hành động đó, trong khi đó phần hai là sự giải thích khéo léo, mặc dù có tính tranh luận, về động cơ của con người và những ứng xử. Phần thân bài, trình bày điều chủ chốt của một lập luận, điều đó luôn luôn đúng. Cấu trúc của nó có thể thay đổi, nhưng nó luôn được trình bày cẩn thận từng luận cứ một để chứng minh cho luận đề đã đưa ra ở phần đầu tiên của bài luận. Bên cạnh đó, phần thân bài còn là mối quan tâm đặc biệt của người viết, đó là cách người viết trình bày một cách rõ ràng sự giải thích của mình về động cơ của Socrates và hành động của người dân Athen.
Phần kết
Phần kết của một bài luận đóng vai trò là sự tóm tắt lại kết luận và những luận cứ đã được trình bày trong phân mở đầu và phần thân bài; sự tổng kết đan cấu các luận điểm mà tác giả đã trình bày theo trình tự. Ví dụ, bài luận văn của sinh viên này nối lại hai phần của thân bài mà cô ta đã trình bày để làm sáng tỏ luận điểm và cô ta muốn trình bày, khi đã giới thiệu trong định đề:
Vậy tại sao Socrates lại bị kết tội? Bản kết tội đã tuyên chưa hẳn đã giải thích được tại sao ông lại bị chết. Bản kết tội này chẳng qua chỉ là những tập tục mà những kẻ chống đối ông xây dựng một lập luận pháp lý để chống lại những hoạt động của ông và đưa ông ra toà. Socrates không phải chết vì ông là một người vô thần hay là người đã đầu độc tâm hồn của những người trẻ tuổi, mà ông chết bởi vì những sự cáo buộc không được nói ra. Những sự cáo buộc này như đã được nói ở trên gồm có hai phần. Đầu tiên, Socrates đã phơi bày sự dốt nát và yếu đuối của những con người ở Athen, và điều đó làm phát sinh sự bực tức ở họ. Thứ hai, việc đặt vấn đề một cách nghiêm túc của ông cuối cùng sẽ dẫn đến sự đe doạ an ninh của xã hội Athen, điều này khiến cả cộng đồng Athen tấn công ông. Ông đã
bị giết bởi xã hội mà ông đã tìm kiếm để cải tạo, bởi vì các công dân trong xã hội đó từ chối việc cho rằng họ cần được cải tạo. Người dân Athen không chào đó những người như Socrates, và dường như là bất cứ người nào hoặc cộng đồng nào xem những lời phê bình như là sự đe doạ cũng sẽ có những xử sự như vậy.
Phần kết luận hiệu quả và cẩn trọng này đã tổng kết những luận cứ để chứng minh kết luận đó. Do đó có thể nói rằng phần kết không chỉ đơn thuần nhắc lại những điểm chính yếu đã được nêu ra; phần kết còn phải là một nỗ lực sau cùng nhằm thuyết phục người đọc về luận đề, và dựa trên những luận cứ đã được trình bày trong phần thân bài nhằm giúp người đọc hiểu rõ được lập luận của người viết. Giờ đây, bạn đã xem xét qua về cấu trúc của một bài luận, hẳn là bạn đã có một số ý tường về cấu trúc bài luận, bởi
vì cách mà bạn tổ chức ý tưởng của mình sẽ giúp bạn định hình ý tưởng của mình. Nếu bạn giải quyết nhiệm vụ viết lách của mình với những hiểu biết về thuật viết lách, bạn sẽ làm
việc, và bạn sẽ thấy lập luận của bạn sẽ được xây dựng một cách dễ dàng hơn khi bạn không có một ý niệm nào về hình thức bạn muốn sử dụng.
2. Xây Dựng Một Bài Luận
Cả các sinh viên và những người viết chuyên nghiệp đôi khi kháng cự lại sự chần chừ, vì những nỗ lực yêu cầu viết đúng chính tả, suy luận hợp lý, và bài luận có tính thuyết phục có thể gây ra chán nản.
Tuy nhiên nếu bạn tự hỏi bản thân một số câu hỏi và tuân theo một vài quy tắc đơn giản, bạn sẽ thấy rằng nhiệm vụ viết một bài luận có thể dễ dàng hơn rất nhiều.
Tìm kiếm chủ đề
Có thể là nhiệm vụ viết một bài luận yêu cầu bạn sẽ tập trung vào một số chủ đề nhất định về điều mà bạn sẽ viết, trong đó giáo viên của bạn có thể yêu cầu bạn đọc một số quyển sách hoặc nghĩ về một vài ý tưởng cụ thể bạn thu nhận được ở lớp học. Khi bạn bắt đầu xem xét những chủ đề có thể, hãy luôn nhớ rằng một bài luận là một sự lập luận được chuẩn bị và viết cẩn thận. Điều này có nghĩa là trong bài luận bạn sẽ cố thuyết phục người đọc rằng một số quan điểm về chủ đề nhất định là đáng tin cậy. Cho dù là bạn viết về việc cắt giảm vũ khí hạt nhân hay kiểu dày dành cho những người cao lớn, bạn sẽ cần xác định chủ đề để có thể đạt đến một chủ đề có thể tranh luận được. Chương đầu tiên sẽ bàn về một số yếu tố để có một lập luận thuyết phục, tuy nhiên những đề xuất sau đây có thể giúp bạn xác định một chủ đề.
Một chủ đề có thể tranh luận có thể thuyết phục người đọc về một cái gì đó, làm thay đối ý nghĩ về một cái gì đó, hoặc khiến người đọc làm một cái gì đó. Ví dụ như bài luận trên mà chúng ta đã xem đã cố gắng làm thay đổi quan điểm của chúng ta về lý do tại sao Socrates bị kết tội chết, và thuyết phục ta có một sự giải thích khác, Socrates bị cộng đồng Athen loại trừ là một điều đúng. Người viết không đơn tường thuật lại những thông
tin về triết lý của Socrates mà còn linh hoạt sử dụng những thông tin đó để chứng minh cho giải thích của mình về lý do ông bị kết tội.
Một chủ đề có thể tranh luận sẽ nói về vấn đề mà không có một giải pháp dễ dàng; hoặc đưa ra những câu hỏi mà không hoàn toàn có câu trả lời; một trong những lý do bạn viết một bài luận là chứng minh khả năng của bạn trong suy nghĩ về một chủ đề, không
phải là tổng hợp lại những gì bạn đã đọc hoặc nói trước đó. Một tác giả sẽ chọn một chủ đề sẽ không phải là những gì đã được đề cập một cách đầy đủ trong các cuốn bách khoa toàn thư; thay vào đó người viết lại nói về cái chết của Socrates khi xem xét cuốn sách "Lời Thú Tội" của Plato và một số ví dụ về những nhận định về cách con người phản ứng đối với những sự phê bình.
Một chủ đề có thể tranh luận không nên dựa trên những niềm tin cá nhân. ở một mức độ nhất định, bất cứ một lập luận nào trình bày ý kiến của tác giả về một chủ đề; thực tế, bài luận sẽ không tồn tại nếu người viết không đưa những kinh nghiệm cá nhân và những quan sát của họ vào trong bài viết. Bên cạnh đó, các bài luận thường đúc kết cách giải quyết một vấn đề, điều đó có nghĩa là chúng dựa trên kinh nghiệm và quan sát nhiều hơn là những phương pháp suy diễn.
Tuy nhiên bài viết của bạn phải tuân theo một số quy tắc suy luận nếu nó muốn đạt được tính thuyết phục. Ví dụ người viết ở trên có một số ý kiến về chủ đề, và phần kết đưa ra một tuyên bố có căn cứ về kết luận đã được nhắc đến: "những người Athen không sẵn sàng đón nhận những người như Socrates, và dường như bất cứ người nào hoặc cộng đồng nào xem những lời phê bình là mối đe doạ cũng sẽ có ứng xử như vậy." Tuy nhiên, người viết quan tâm đến việc quan điểm này dựa trên sự giải thích được minh hoạ bằng những ví dụ cụ thể và dễ hiểu. Tác giả cũng sử dụng những đoạn viết của Plato là bằng chứng tin
cậy cho lập luận của mình, do đó bằng cách tìm ra những bằng chứng nguyên thuỷ để
chứng minh nhận định về sự khiếm khuyết của con người, thay vì pháp luật, đã dẫn đến bản kết tội đối với Socrates. Cuối cùng, ví dụ về người nghiện rượu đưa ra cho người đọc một minh hoạ cụ thể để củng cố cho nhận định "con người không muốn chứng kiến sự khiếm khuyết và yếu đuối của mình." Bạn có thể thấy, tác giả đã bắt đầu với một "cái bướu" rằng những ý tưởng là thuyết phục, nhưng việc thuyết phục người đọc có vẻ như ngoài tầm với của họ.
Một chủ đề có thể tranh luận nên đưa ra một lập trường mà những người đọc có thể trong thực tế không đồng ý. Điều này rất quan trọng trong việc xây dựng một bài luận. Nhiệm vụ của bạn khi là người viết không phải là trình bày "sự thật" (truth) với chữ viết hoa, mà đưa ra những sự giải thích (reasons) có thể hỗ trợ cho quan điểm (thesis) của bạn về một vấn đề. Đó là lý do, trong các bài luận của sinh viên, các giáo viên thường đánh dấu hoặc khoanh tròn những đoạn như không có gì cần nghi ngờ cả, điều đó hoàn toàn chắc chắn, một cách đúng để suy nghĩ về tình huống này. Trong phạm vi của một bài luận, bạn không thể đưa ra câu trả lời cuối cùng cho một vấn đề đang tranh luận, rất có thể bạn sẽ
mắc những sai lầm đã được nói đến trong cuốn sách này, kết cục của một bài luận sẽ
không thuyết phục được một độc giả sáng suốt. Viết một bài luận không có nghĩa là bạn phải chiến đấu với một ý tưởng như là một đấu sĩ, mà bạn đưa ra những lập luận thuyết phục nhất mà bạn có thể có cho một trong nhiều khía cạnh của một chủ đề. Hãy ghi nhớ những điều trên, hãy xem một câu trình bày một chủ đề không có tính tranh luận, sửa chữa lại để nó trở thành có thể tranh luận được.
“Chính phủ có thể bãi bỏ một đạo luật ngăn cấm những công dân giữ súng trong nhà. Bác của tôi đã bị giết bởi vì ông không thể tự bảo vệ mình trước bọn trộm.” Lời nói trên dựa quá nhiều vào ý kiến cá nhân, và khăng khăng về mối quan hệ nhân quả có thể là
không đúng; mặc dù có thể là người bác của tác giả đã bị giết vì ông không có một khẩu súng, hậu quả không nhất thiết phải xuất phát từ thực tế được đưa ra. Sự minh hoạ như vậy có thể đưa ra một ví dụ có khả năng thuyết phục cho một luận điểm, nhưng cần được mở đầu bằng lời nói khách quan hơn. Hãy xem sự sửa đổi sau:
“Có rất nhiều lý do đúng để bãi bỏ luật kiểm soát súng. Đối với tôi, lý do chủ yếu là những người lương thiện cần được phép tự bảo vệ chính mình. Bác của tôi đã bị giết trên giường ngủ bởi một tên trộm với khẩu súng. Lẽ ra ông ấy đã có thể tự
bảo vệ mình nếu ông sở hữu một thứ vũ khí. Theo tôi nghĩ thì, đối với nhiều người
việc kiểm soát vũ khí có hại nhiều hơn là bảo vệ những công dân.”
Mặc dù ví dụ của người viết vẫn chủ yếu dựa trên kinh nghiệm cá nhân, nhưng bây giờ nó đóng vai trò minh hoạ cho một nhận định mang tính tổng quát lớn hơn rằng các công dân cần được phép tự bảo vệ chính mình. Bên cạnh đó, người viết chú trọng giải
thích rằng mình đang trình bày một quan điểm và mở ra một vấn đề. Một quan điểm rõ
ràng như vậy kích thích mọi người tham gia vào những lập luận, thay vì bắt người đọc phải đồng ý với những gì được viết. Điều này làm lời nói có tính thuyết phục: nếu người đọc cảm thấy bạn đang nói với họ rằng cần nghĩ đến cái gì, thay vì đề xuất một quan điểm mà bạn có một số bằng chứng, chắc chắn họ sẽ kháng cự lại bằng mọi giá.
Cụ thể hoá chủ đề của bạn
Có thể bạn đã sử dụng những kỹ năng như động não, viết tự do, lập danh sách khi bạn bắt đầu tạo ý tưởng cho một bài luận. Những hoạt động như vậy thường được gọi là “trước lúc viết” (prewriting),có nghĩa là đó là một phần trong công việc của bạn trước khi bạn thực sự bắt tay vào viết bản thảo đầu tiên của bài luận. Nếu hiện tại bạn không sử dụng bất cứ một chuẩn mực nào để phát triển chủ đề của bạn, hãy xem xét qua những mô tả
ngắn gọn của giai đoạn trước lúc viết. Để giúp bạn tập trung vào chủ đề, những hoạt động trước lúc viết sẽ cung cấp cho bạn thông tin về những luận cứ và những ví dụ bạn sẽ sử
dụng để chứng minh cho lập luận của mình.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |