2. Câu Nói Nước Đôi6
Chúng ta vừa lưu ý sự nhầm lẫn có thể nảy sinh như thế nào từ sự tối nghĩa của một từ hay ngữ đơn lẻ. Bây giờ chúng ta muốn tiếp tục và thấy sự nhầm lẫn có thể nảy sinh như thế nào từ sự tối nghĩa của cấu trúc câu và sự tham khảo như trong trường hợp của ba sai lầm kế tiếp: câu nước đôi, dấu trọng âm và cú pháp. Chúng ta hãy bắt đầu với câu nước
đôi.
Sự sai lầm của câu nước đôi7 là sản phẩm của cấu trúc câu nghèo nàn. Nó xãy ra khi những từ ngữ không chính xác hoặc được ghép lỏng lẻo trong một câu, làm phát sinh một ý nghĩa ngoài dự kiến của tác giả.
a. Sự phát triển mới về nhà ở. Những ngôi nhà đẹp có ngay tức thì. Ở đó trước
đi! Chúng sẽ không kéo dài lâu.
6 Fallacy of Amphiboly
7 Câu nước đôi xuất phát từ tiếng Hy Lạp là "ampho", có nghĩa là "gấp đôi" hay " cả hai mặt". Về nguồn gốc, nó có liên quan mật thiết với sự tối nghĩa.
b. Những quý bà trong Hội truyền giáo đường Walnut đã vứt bỏ quần áo. Họ mời các bạn đến và kiểm tra họ.
Sự nhầm lẫn và sự tối nghĩa trong hai ví dụ này là rất rành mạch chúng không cần giải nghĩa. Bây giờ chúng không phải là tiêu biểu cho những thông cáo đông đảo mà chúng ta thấy ở khắp nơi.
Nhiều ví dụ về sự tối nghĩa là sản phẩm của sự sai sót về văn phạm như cách sử dụng những danh từ hay đại danh từ tối nghĩa (như hai ví dụ trên), hay nghệ thuật chấm câu không thích hợp, từ bổ nghĩa không xác định. Một vài ví dụ điển hình:
c. Bạn cần phải nhớ những nhiệm vụ xã hội của bạn. Nếu bạn không đến tang lễ của người khác, họ sẽ không đến trong lễ tang của bạn. (Ai sẽ không tới? Người chết được chôn cất hay thân nhân của người chết?)
d. Tín hiệu giao thông: Trẻ Em Qua đường Chậm Lại. (tín hiệu báo những người điều khiển ô-tô rằng trẻ em đang qua đường chậm, hay một tín hiệu chỉ thị họ chậm lại cho trẻ em qua đường?)
e. Ở tốc độ 2,200 vòng quay một phút, người giúp việc đã tắt máy phát điện. (Ai hay cái gì "ở tốc độ 2,200 vòng quay một phút"? Người giúp việc hay máy phát điện?)
Thỉnh thoảng sai sót là kết quả từ việc sử dụng những từ ngữ ít hơn yêu cầu để thiết lập ngữ cảnh.
f. Chúng tôi giao thuốc chính xác. (Khẩu hiệu của những dược sĩ).
g. Vừa mới nhận! Một nguồn cung cấp áo sơ mi thể thao nam từ 15 đến 19 vòng cổ.
Những cột quảng cáo được phân loại trong báo hàng ngày là một nguồn dồi dào những lối viết lơ đễnh như thế, như trong trường hợp người bạn mà quảng cáo bán con chó của anh ta bằng cách nói con chó "ăn được mọi thứ và rất thích trẻ con". (TQ hiệu đính, có ăn luôn trẻ con không?)
Bởi vì chúng ta phải làm cô đọng ý nghĩa trong vài từ ngữ hơn, báo chí đặt đầu đề
cũng dễ xãy ra những lỗi của sự tối nghĩa.
h. Kẻ Sát Nhân Nói Nạn Nhân Đã Săn Đuổi Hắn Với Một Lưỡi Dao Cạo. (TQ
hiệu đính, nạn nhân lúc đó sống hay chết?)
i. Những Công Nhân Xưỡng Tàu Đã Tập Hợp Để Đình Công Ở Cảng Đại Tây Dương. Nguyên văn: "Dock Workers Set to Walk Out in Atalantic Ports". (TQ hiệu đính, walk out or set out).
Bảng quảng cáo, tín hiệu và thông cáo được viết vội vàng, tất cả đều sử dụng ngôn ngữ súc tích, như đầu đề của báo chí, hay những nguồn khác thường xuyên của câu nước đôi.
Một vài phút suy nghĩ có thể hạn chế những lỗi này, nguyên nhân không phải là thiếu khoảng trống mà hình như cẩu thả. Những từ ngữ được nhóm lại với nhau trong những hình thức mà tạo nên tối nghĩa góp phần vào sai sót của câu nước đôi.
j. Cuộc hôn nhân của cô Anna Black và ông Willis Dash đã được loan tin trên báo này một vài tuần trước là một lỗi lầm và chúng tôi muốn đính chính. (TQ hiệu đính, đính chính cái gì: hôn nhân của Anna và Willis hay đính chính việc loan tin).
k. Cảnh sát có thẩm quyền đang tìm cách giải quyết các vụ án mạng (murders) càng ngày càng khó khăn, vì nạn nhân không chịu hợp tác với cảnh sát. (TQ hiệu đính, nạn nhân còn sống hay chết? Nếu còn sống thì đâu có thể nói vụ án mạng (murders) được. Nếu chết thì làm sao nạn nhân hợp tác với cảnh sát được? Nói đúng thì phải trình bày như sau, thân nhân của các nạn nhân không chịu hợp tác với cảnh sát).
Giả định cho rằng những độc giả "sẽ hiểu bạn muốn nói gì", thậm chí nếu bạn không trình bày một cách rõ ràng, sẽ trở nên nguy hiểm trong việc hiểu lầm khi đề tài càng phức tạp hơn.
Mặc dù tất cả chúng ta đều tìm trong câu nước đôi một sai sót nảy sinh từ cấu trúc câu không hoàn chỉnh của một câu đơn, sai sót có thể cũng là kết quả từ việc sắp xếp không hợp lý hai câu cạnh nhau.
l. Giấy chứng nhận từ một công ty bảo hiểm: Tôi và chồng tôi đã ký một hợp đồng bảo hiểm nhà ở với công ty ông. Chưa đầy một tháng nhà của chúng tôi ngẫu nhiên bị cháy. Tôi coi đó như là một sự may mắn. (May mắn vì nhà của họ cháy, hay họ cũng có bảo hiểm?)
Thậm chí nếu chúng ta chấp nhận điều phi lý của những sai sót của câu nước đôi là không có chủ ý, mối quan tâm của chúng ta về những người phạm sai sót được giảm bớt. Nếu tác giả đủ thận trọng để đoán trước rằng những lời phát biểu của họ đã mở ra những cách hiểu khôi hài, dĩ nhiên là họ sẽ xem lại chúng.
Thuộc về một phạm trù khác là cách sử dụng có ý thức và chủ tâm của phương sách. Một ví dụ là lời tiên tri của phù thủy trong Henry VI , Phần II (màn 1, cảnh 4) của Văn Hào Shakespeare: "Công tước còn sống Henry sẽ truất phế" bà ta nói, như thế ý nghĩa không rõ ràng là "Henry sẽ truất phế Công tước" hay " Công tước sẽ truất phế Henry". ( Bà ta không thể làm cho ý nghĩa của mình rõ ràng bằng những đại từ thay thế như “ai” hay “người mà”). Tuy nhiên, một thí dụ thú vị hơn theo lối văn của Shakespear là lời tiên tri
của phù thủy trong Macbeth:
m. Hãy vấy máu, dũng cảm và kiên quyết; cười nhạo sức mạnh của nam giới, không phải con của phụ nữ nào sinh nở để làm hại Macbeth. (màn 4, cảnh 1)
"Không phải con của phụ nữ nào sinh nở" tạo nên một sự dối trá cay nghiệt: kẻ thù của Mabeth, Macduff, đã được "tách ra sớm từ dạ con của mẹ anh ta" hay được sinh bằng cách phẫu thuật, và vì thế Macduff không phải là đứa con do "phụ nữ sinh nở" trong ý
nghĩa thông thường. Do đó, phù thủy không nói dối Macbeth, nhưng bà ta cũng không nói cho ông ta biết chính xác về sư thật.
Vì lẽ có sác xuất của sự tối nghĩa khi chúng ta tuyên thệ trước toà án, chúng ta không thề sẽ "nói sự thật" (vì chúng ta có thể nói một phần sự thật), thậm chí không thề sẽ "nói sự thật, toàn bộ sự thật" (vì nếu như thế, chúng ta cũng có thể thêm vào một vài lời
nói dối, bởi vì lời thề đâu có cấm không làm như thế), nhưng đúng hơn là "nói sự thật, toàn bộ sự thật, và không có gì ngoài sự thật". Mụ phù thủy bị ràng buộc bởi lời thề và sự tuyên thệ đó, bà ta không thể làm lung lạc Macbeth bằng phương thức ngoại lệ đó.
Câu nước đôi được sử dụng để đánh lừa không chỉ trong tiểu thuyết. Một ví dụ tiêu biểu là câu truyện liên quan đến Croesus và nhà tiên tri ở Delphi. Sự suy tính chiến tranh với Ba Tư, Croesus đã hỏi ý kiến nhà tiên tri về hậu quả. Ông ta nhận được lời tuyên bố của nhà tiên tri "nếu Croesus tham chiến với Cyrus, Croesus sẽ huỷ diệt vương quốc hùng mạnh". Thích thú với lời tiên tri này, nhà triệu phú tham chiến và thất bại nhanh chóng. Phàn nàn của nhà tiên tri, Croesus nhận được câu trả lời đính chính của nhà tiên tri: "Khi tham chiến, ông ta sẽ hủy diệt một vương quốc hùng mạnh - của chính mình!" Điều này được đưa ra quan toà Herodotus, nhà sử học đầu tiên của Hy Lạp, người đã trừng trị Croesus vì tội ngu:
“Giống như lời tiên tri nói, Croesus không có quyền phàn nàn về điều đó… Nếu muốn có lời khuyên rõ ràng, thì ông nên gửi thư và hỏi rằng thượng đế có nói gì về vương quốc của Creosus hay của Cyrus? Nhưng ông không hiểu vương quốc
nào được đề cập tới, cũng không đặt ra câu hỏi sâu xa hơn: tại sao bây giờ ông tự
trách bản thân mình?” (The Histories, quyển 1, chương 91)
Bên cạnh những ví dụ xa xưa hay văn chương, những trường hợp được ghi lại về cuộc sống và số phận của những người được đó và mất đó vì kết quả của sự tối nghĩa. Một ví dụ thú vị và nổi tiếng là trường hợp của tù nhân người Nga, người mà tìm cách thoát khỏi nhà tù Siberia bằng cách khẩn khoản xin Nga hoàng tha thứ. Yêu cầu khẩn khoản đó được đáp bằng một câu trả lời không có dấu chấm câu, "Ân Xá Không Thể Thi Hành". Ông ta muốn nói tù nhân sẽ bị hành quyết (dấu chấm câu được đặt sau từ "không thể"), nhưng tổng cai ngục lại đọc thành "Ân Xá. Không Thể Thi Hành (án)" và phóng thích tên tù nhân. Sau đó tình trạng của người cai ngục làm thế nào mà không bị liên can; tất nhiên khi lỗi được phát hiện, anh ta bị thế chổ cho tên tù nhân - đó là cách xét xử tù nhân tiêu biểu của Nga hoàng .
Câu nước đôi cũng có khả năng được khai thác cho những mục đích có lợi. Một thí dụ điển hình là một đĩa ghi âm có đầu đề là "Những bài hát hay nhất (Best) của the Beatles", làm cho mọi người mua nó và tin tưởng rằng ho đã mua một đĩa hát có những bài hát hay nhất của the Beatles. Sau đó họ nghe tại nhà, họ phát hiện rằng họ đã mua một đĩa hát của Peter Best, người từng là thành viên của the Beatles (tay trống của họ) trước đó trong sự nghiệp của nhóm.
• Câu nước đôi là sự sai lầm của một câu không hoàn chỉnh, hay được cấu trúc không cẩn trọng, dễ gây hiểu lầm.
• Cách sử dụng những đại từ/ danh từ tối nghĩa, nghệ thuật chấm câu không hợp lý, và những bổ nghĩa không chính xác là một số lỗi văn phạm thường xãy ra trong sai sót.
• Những nguồn gốc khác của sự sai sót là: sự thiếu khả năng của chúng ta điều chỉnh trật tự cho các từ ngữ làm thay đổi ngữ cảnh; kết quả của chúng ta là quá ngắn gọn; vị trí không thích hợp của hai câu cạnh nhau; và sự vụng về trong cách hành văn thông thường.
3. Dấu Trọng Âm 8
Những ý nghĩa không được nói rõ trước có thể nảy sinh không chỉ từ cấu trúc câu không hoàn chỉnh, như trong trường hợp của câu nước đôi, mà còn nhầm lẫn từ sự nhấn giọng. Kết quả của sự sai lầm trong dấu trọng âm khi một nhận xét được phát biểu với một giọng không mong đợi; những từ ngữ nào trong đó nhấn trọng âm sai; hay từ ngữ nào (thậm chí cả câu và cả đoạn văn) đặt ra ngoài ngữ cảnh và vì thế đưa ra một sự nhấn giọng (hay một ý nghĩa) chúng không nói lên được ý nghĩa vốn có.
Tầm quan trọng của sai lầm này có thể được tập hợp từ tình huống bất ngờ sau: Trong một bản sao của một trong những băng ghi âm về Watergate, John Dean, cố vấn Tổng Thống, cảnh báo Richard Nixon đừng chuốc lấy rắc rối trong một lý do đưa ra để che đậy và Tổng Thống trả lời "Không - sai rồi, điều đó là chắc chắn". Câu hỏi là: Nixon đã
đổi giọng các từ ngữ nào khi ông ta đưa ra lời nhận xét này? Nó được nói với một giọng
điệu nghiêm chỉnh và thẳng thắn hay mỉa mai? Nếu hoàn toàn mỉa mai, lời nhận xét này sẽ
bộc lộ thêm dấu hiệu của tình trạng rắc rối của ông ta.
Sai sót của dấu trọng âm ít nảy sinh trong diễn văn, khi âm thanh dễ truyền tải bằng giọng nói và điệu bộ, hơn là trong ngôn ngữ viết. Đối với nguyên nhân này, viên lục sự
thận trọng đọc lớn lời khai bằng một giọng đều đều, theo cách này tránh biểu lộ cảm xúc
về vấn đề họ đang đọc. Trong văn phong, khi nói "không thể hết sức khen ngợi quyển sách này" có thể cũng có nghĩa rằng chúng ta không thể nói đầy đủ về những điều tốt của quyển sách hoặc là không xứng đáng để khen ngợi. Tương tự, để nói rằng chúng ta hy vọng một
ai đó "đạt được mọi điều họ xứng đáng có được" có thể bao hàm hai ý nghĩa rất khác nhau.
Lưu ý cách thức những lời nhận xét sau đây có thể đem lại một mục đích nghiêm
túc và tán tụng hoặc cả một mục đích chế nhạo và phủ nhận phụ thuộc vào giọng điệu được sử dụng trong khi nói.
a. Chẳng bao giờ trông bạn khá hơn thế.
b. Tôi không bao giờ nghĩ rằng nó sẽ giống như thế.
c. Tôi sẽ không mất thời gian để đọc bài diễn thuyết của bạn.
8 The Fallacy of Accent
Dấu trọng âm (accent) là từ được nhà triết học nổi tiếng của Hy Lạp Aristotle áp dụng bởi để chỉ sự hiểu sai từ kết quả của những từ ngữ khác nhau về dấu nhấn âm tiết. Một ví dụ trong tiếng Anh sẽ là sự nhầm lẫn của từ invalid (có nghĩa "một người bệnh") và invalid (nghĩa là " một lý luận không hoàn chỉnh"). Theo ý này, danh từ này cũng áp dụng cho những trường hợp khi nhấn giọng trên nhiều từ hay cả câu, mà tương tự khi thiếu dấu trọng âm truyền đạt một ý nghĩa chúng không có ý định truyền đạt.
TQ hiệu đính: Trong tiếng việt, trường hợp tương tự cũng có khá nhiều. "Ghét" mà khi nhấn giọng mạnh đi đôi với cái lườm khác với "ghét" của "đồ đáng ghét" nói giọng bình thường.
Để hạn chế những lời nhận xét như thế từ việc hiểu sai ý, người ta cần xem xét chúng trong ngữ cảnh rộng hơn. Trong trường hợp của ba ví dụ trên điều này có thể mang lại các dạng sau:
d. Bộ trang phục rất hợp với bạn. Chẳng bao giờ trông bạn khá hơn thế. e. Thật là tuyệt. Tôi không bao giờ nghĩ rằng nó sẽ giống như thế.
f. Bạn thật là một tác giả tài năng. Tôi sẽ không mất thời gian để đọc bài diễn thuyết của bạn.
Sử dụng phương pháp này, làm tương tự vói hai nhận xét dưới đây:
Chỉ có Hollywood mới có thể sản xuất một bộ phim như thế này. Khách hàng nói rằng sản phẩm của chúng ta không thể so sánh với sản phẩm khác mà họ từng dùng.
Dĩ nhiên những ví dụ này có ý định nhấn trọng âm ý nghĩa đối lập, trong trường hợp chúng được nói trước bằng những chú thích phủ nhận như:
Thật là một bộ phim tồi! Chỉ có Hollywood mới có thể sản xuất một bộ phim như thế này. Khách hàng nói rằng sản phẩm của chúng ta quá tệ không thể so sánh với những sản phẩm khác họ từng dùng.
Chúng ta cũng đương đầu với sai sót này khi những từ ngữ nào nhấn trọng âm sai. Lưu ý một số cách thức khác nhau có thể hiểu câu hỏi: " Bạn đã đến cửa hàng hôm nay?" Nhấn mạnh bạn và câu trả lời có thể là: không, không phải tôi, hôm nay đến phiên của Tom. Nhấn mạnh cửa hàng và câu trả lời có thể là: không, hôm nay tôi đi sửa xe. Nhấn mạnh hôm nay và có thể trả lời: bạn không nhớ sao; tôi đã đi ngày hôm qua?
Một câu chuyện để minh họa rõ ràng cho sai sót này. Một thuyền trưởng và sĩ quan cấp I của ông ta đã không hoà thuận với nhau, từ viên sĩ quan thích uống rượu còn vị thuyền trưởng thì không. Một ngày nọ vị thuyền trưởng nghĩ ông ta sẽ sửa đổi viên viên sĩ quan và đã ghi vào nhật ký hàng hải lời ghi chú, "sĩ quan cấp I đã uống rượu hôm nay."
Khi đến viên sĩ quan giữ nhật ký hàng hải, ông ta thấy câu đó và giận dữ. Ông ta nghĩ, thuyền trưởng dĩ nhiên sẽ sa thải mình khi trở về bờ biển. Để trả thù vị thuyền trưởng, viên
sĩ quan ghi chú vào "Thuyền trưởng hôm nay không uống rượu", bằng cách này ngụ ý rằng những việc này không xãy ra thường xuyên và nó đáng được chú ý trong nhật ký hàng hải.
Dấu trọng âm là một sai sót đơn giản mà có thể được sử dụng tinh tế trong những lý luận phức tạp hơn.
Lưu ý cách mà những ý nghĩa trong các nhận xét dưới đây thay đổi trong những tia hy vọng không có ý định khi từ hay ngữ sai được nhấn trọng âm:
g. Hãy lịch sự với những người lạ. (Chỉ với những người lạ?)
h. Mày nên yêu quý láng giềng của mày. (Điều đó có nghĩa chúng ta có thể ghét kẻ thù của mình?)
i. Tôi rất thích bữa ăn tối. (Chỉ có bạn; không còn ai khác? Chỉ có bữa ăn tối và không còn gì khác?)
Bạn thấy đấy, rốt cuộc, có bao nhiêu ý nghĩa khác nhau. Lời nhận xét dưới đây có thể truyền dạt bằng cách nhấn trọng âm những từ mấu chốt khác nhau: "Chúng ta không nên nói xấu bạn của mình".
Sai sót của dấu trọng âm cũng nảy sinh khi cả những câu (và không chỉ một từ hay một số từ) nhấn trọng âm sai, như khi chúng ta lấy những câu như thế ra khỏi ngữ cảnh của chúng. Đây là không chỉ là một phương thức được ưa chuộng nhất của tuyên truyền viên mà còn là của một vài tác giả viết lời quảng cáo sách hay viết báo. Từ khi không có ai có thời gian để kiểm tra mọi lời trích dẫn trong những giấy chứng thực, báo chí, và trong các
bảng tường thuật khác, số lượng tin tức báo sai truyền đạt bởi những đầu đề, đoạn trích dẫn làm sai lạc có thể khá nhiều.
Một nhà phê bình kịch nghệ có thể viết, một cách chua cay, rằng cô ta "thích tất cả các vở kịch ngoại trừ diễn xuất" chỉ được trích dẫn vào buổi sáng hôm sau bởi một người viết quảng cáo tắc trách những gì cô ta nói cô "thích tất cả các vở kịch …" Những người đọc mẫu trích dẫn ngoài ngữ cảnh này sẽ khiến họ tin tưởng rằng những gì bị bỏ qua từ mẫu trích dẫn là một sự mở rộng về việc vở kịch được nhà phê bình nhận một cách thuận lợi như thế nào, khi thật sự lại trái ngược.
Dấu trọng âm có thể vẫn được tìm thấy ở dạng khác: khi những lời nhận xét hay phát biểu nào không chỉ bị tách ra khỏi ngữ cảnh văn chương mà còn ở ngữ cảnh văn hóa và xã hội của chúng. Trong quá trình chúng được tạo thành mang đến những hàm ý mà chúng không có.
Ví dụ, những tác giả nào đó đã quả quyết rằng tác giả hoặc diễn viên vĩ đại này hoặc kia- nói Shakespear hay Chopin- là đồng tính ái. Trong hỗ trợ quả quyết đó họ trích dẫn từ các tám phẩm của những người này và cả thư từ cá nhân của họ. Vì thế, trong
trường hợp của Shakespear, những bài thơ xonê được sử dụng cho mục đích này. Dĩ nhiên, có một vài người rất bí ẩn trong những bài xonê, và họ vẫn là một điều bí ẩn đối với chúng
ta. Có một người thanh niên ngay thẳng mà Shakespear ca tụng trong nhiều bài thơ (Những số từ 1 đến 126) và là người có một sự yêu thương sâu sắc.
Những gì các nhà phê bình như thế thất bại trong khi nói cho độc giả của họ là như thế đó, mặc dù tục lệ xã hội hiện tại của chúng ta không cho phép con người bộc lộ sự yêu thương sâu sắc như thế đối với người khác, những tục lệ trong thời đại của Shakespear đã làm. Vì vậy, những bài thơ trữ tình đó không phải là dấu hiệu cho tất cả tình trạng đồng tính luyến ái của Shakespear. Dĩ nhiên, những gì họ thất bại khi nói với độc giả là những bài thơ xonê đầy những tình cảm của thi sĩ đối với người phụ nữ bí ẩn (số 127 đến 154), với người mà ông ta tiếp tục một câu chuyện tình bão tố - không thể, như ông ta nói ở một trong những bài thơ, để "tránh xe thiên đường điều đó hướng con người tới địa ngục này" (số 128). Chúng cũng không nói cho độc giả biết rằng sau đó chàng thanh niên trở thành kình địch của nhà thơ vì sự yêu thương của người phụ nữ, làm nổi lên một sự thay đổi trong bộ ba.
Những gì được nói ở đây về Shakespear cũng đúng đối với Chopin. Để trích dẫn ngoài ngữ cảnh những phần trong lá thư của Chopin gửi cho Tytus Woyciechowski người bạn thời niên thiếu của ông ta là để bác bỏ sự nghi ngờ trong tâm trí độc giả rằng họ có một mối quan hệ đồng tính ái. Nhưng hầu như trong tiếng thì thào Chopin xin Tytus khuyên
ông ta nhưng gì phải làm khi ao ước về Konstancia Gladkowska -- cô gái ở trong tim ông ta trong khoảnh khắc. Sau đó nhà phê bình cũng thất bại khi đề cập đến tình yêu sâu sắc
của Chopin với Marie Wodzinska. Gói thư tìm thấy trong bàn làm việc của Chopin sau khi ông mất, đánh dấu câu chuyện tình không hạnh phúc đó được góp lại với nhau bằng một tờ bọc mà Chopin đã viết lên những chữ "Nỗi buồn của tôi" ( Dĩ nhiên chúng không buồn đề cập đến những câu chuyện tình của Chopin với người phụ nữ khác).
Xuyên tạc ý nghĩa sự bày tỏ của một người, bằng cách bác bỏ ngữ cảnh có tính chất văn chương hay ngữ cảnh xã hội rộng hơn, chắc chắn là một sự lạm dụng nghiêm trọng của ngôn ngữ về những gì tất cả chúng ta nên thận trọng.
Những ý nghĩa không định hướng có thể nảy sinh từ ngữ cảnh hay sự nhấn giọng có liên quan đến sự tối nghĩa.
Sai sót của dấu trọng âm có thể mang tới 3 dạng:
• Nó có thể là kết quả từ sự nhầm lẫn liên quan đến giọng điệu mà một lời phát biểu nào đó có ý định được nói.
• Nó có thể là kết quả từ sự liên quan không rõ ràng mà nhấn giọng có ý định được thay thế trong một nhận xét đã đưa ra.
• Và nó cũng có thể nảy sinh khi một đoạn văn bị tách ra khỏi ngữ cảnh của nó và sau đó, kết quả là, đưa ra một sự nhấn giọng (thí dụ: ý nghĩa) mà nó vốn không có trong bản chất.
4. Phép Tu Từ 9
Chắc hẳn mọi người đều nhớ cuộc chạm trán thú vị giữa Alice và mèo Cheshire trong “Alice ở Xứ Sở Thần Tiên” (Alice in Wonderland) của Lewis Carroll.
Trong khi từ giã, Alice thấy con mèo bắt đầu lẩn mất một cách chậm chạp, "bắt đầu", như cô ấy kể với chúng ta, "với đoạn cuối của cái đuôi, và cuối cùng là một cái tai, giữ nguyên vị trí một thời gian sau khi giấc ngủ của nó trôi qua". Alice đươc chỉ dẫn để gây chú ý trong sự ngạc nhiên: "À! Tôi hay trông thấy một con mèo không có một cái tai;
nhưng một cái tai không có một con mèo! Đó là điều kỳ lạ nhất tôi từng thấy trong cả cuộc
đời tôi!" (Chương 6)
Nếu chúng ta được rèn luyện lo-gic một cách đúng đắn, chúng ta sẽ cùng có cảm giác ngạc nhiên giống như Alice bất cứ lúc nào chúng ta nghe ai đó nói về màu đỏ hoe, trạng thái tròn, chân lý, vẻ đẹp và có ích -- như nếu chúng có thể tự tồn tại trong quyền lợi riêng của chúng và không đơn thuần là sự trừu tượng, mà (giống như nụ cười toe toét của con mèo) phụ thuộc vào một vài thực thể cụ thể về sự tồn tại của chúng. Hãy làm theo Alice, chúng ta sẽ biểu lộ sự ngạc nhiên của chúng ta bằng cách nhận xét khi chúng ta thấy những trái táo đỏ hay những trái banh tròn, và người thật thà, đẹp, có ưu điểm nhưng
không bao giờ ta nói những trái táo đỏ hoe, trái banh ở trạng thái tròn, người chân lý, có vẻ đẹp, có ích.
Cú pháp xuất phát từ tiếng Hy Lạp là "hypostatos", có nghĩa "có một sự tồn tại trong thực thể". Tiền tố hypo theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là "xuống" hoặc "bên dưới" (như hypodermic có nghĩa là "dưới da") và statis xuất phát từ nguồn gốc Hy Lạp có nghĩa "đứng lên", có liên quan đến những từ Hy Lạp đối với thực thể hay trầm tích. Vì thế cú pháp hóa hợp lý để biểu hiện hành động của các từ ngữ thực sự thú vị nếu như chúng là những từ
ngữ thực thể.
Sự sai lầm phép tu từ cốt ở việc một từ trừu tượng nếu như nó là một từ cụ thể. Nhưng ngược lại, những từ cụ thể chỉ rõ những vật thể riêng biệt hay thuộc tính của vật thể, như màu đỏ và trái banh, những từ trừu tượng chỉ rõ những nét đặc trưng chung, như đỏ hoe, trạng thái hình tròn, có ích. Nó là một nét riêng biệt của những từ trừu tượng mà chúng có thể được sử dụng không nhắc đến những đề tài mà có thuộc tính chúng nêu rõ.
Mặc dù sự trừu tượng là một nét đặc biệt hữu dụng của ngôn ngữ và tư duy, cho phép chúng ta thảo luận những ý kiến như vẻ đẹp của tính chất, chúng mang những nguy hiểm tiềm ẩn. Chúng ta có thể phạm lỗi của sự thừa nhận mà giống như những từ cụ thể, chúng gọi tên cụ thể những thực thể riêng biệt đó, thí dụ, thêm vào trong đó những vật chất như thế, như những trái banh màu đỏ và những người có ưu điểm, cũng có những thực thể tồn tại riêng lẻ như màu đỏ, hình tròn và có ích.
Nó sẽ không quá tệ nếu quá trình này hạn chế được sự nảy sinh của những sự trừu tượng không đáng lo ngại như thế. Nhưng chúng ta không dừng lại ở đó. Chúng ta tiếp tục phát minh ra những ảo tưởng trí tuệ khác như người lai, người Ái (dân Ý sống ở Mỹ),
9 Fallacy of Hypostatization
người da đen, người Anglo-Saxon (da trắng theo đạo tin lành)… với những gì mà chúng ta gieo rắc mầm mống của sự căm thù và phân biệt. Chúng ta nói về một vật như thế nào -- chúng ta miêu tả nó như thế nào -- quyết định chúng ta xem nó như thế nào, những gì chúng ta tin tưởng về nó, và kết quả là chúng ta phản ứng về nó như thế nào. Và đây là bài học quan trọng sai sót này dạy cho chúng ta. Thực tế chúng ta đang sống, nó nhắc nhở chúng ta, được xây dựng rộng rãi bởi ngôn ngữ và những gì chúng ta miêu tả nó với bản thân mình. Từ người lai, chúng ta cần xem xét rõ ràng, không chỉ nhận ra một số thực tế độc lập hiện tại của thế giới; nó không chỉ có nghĩa "một người thừ hưởng sự pha trộn"; những gì nó muốn và đã nói là "thật kinh tởm!". Và giống nhau là sự thật của tất cả các từ khác trong bản chất tự nhiên này. Chúng đưa vào thế giới với những phản ứng xuyên tạc của chúng ta, sáng tạo trong quá trình sự tổn hại và đau khổ vô hạn. Để được bảo vệ trong những từ ngữ, và trông như tất cả các từ ngữ khác trong vốn từ của chúng ta, chúng đánh lừa chúng ta làm cho chúng ta suy nghĩ rằng những vật chất có tên tất nhiên tồn tại, đúng hơn là những ý nghĩa đơn thuần trong phản ứng của chúng ta.
Như một dấu hiệu của những mối đe dọa phép tu từ vốn có, xem xét lý luận này:
a. Tự nhiên tạo ra những cải tiến trong một chủng loại bằng cách loại trừ những vật thể không phù hợp hay gây cản trở từ việc làm ô nhiễm nhóm gen của sự phù hợp. Vì thế, nó chỉ đúng với chúng ta khi loại trừ những người không đạt tiêu chuẩn này.
Tự nhiên đặc biệt được hưởng ân huệ như một chủ thể cho cú pháp, có lẽ bởi vì nó là một sự trừu tượng phức tạp mà chúng ta khó nói về nó khi không cụ thể hóa nó. Trong lý luận (a) ở trên, tự nhiên được ban cho với một khả năng nhận biết những gì là một "cải tiến" và những gì không phải; "phù hợp" là gì và "không phù hợp" là gì, mặc dù nó phi hiện thực để quy cho tự nhiên bất cứ trí khôn hay mục đích nào như nhân loại.
Bất chấp những gì được nói, chúng ta phải nhớ rằng không phải tất cả cách sử dụng phép tu từ đều có hại và nguy hiểm. Trong ngữ cảnh của thi ca hay văn chương phương thức ngôn ngữ này không chỉ là một dạng hình tượng dí dỏm. Ở đây, từ bản chất dường
như cũng được ưu đãi đặc biệt. Thí dụ, Shakespear thường xuyên sử dụng nó, như trong
Julius Caesar, đoạn Antony nói về Brutus:
b. Thiên nhiên có thể trỗi dậy . Và nói với cả thế giới "Đây là một con người!" (màn 5, cảnh 5)
Lập trình viên tân dụng sai sót của phép nhân hóa khi anh ta nói về máy vi tính giống như nó là một con người.
Và vì thế trong hai câu thơ này, Giáo Hoàng Alexander đã viết (bản quyền 1730)
và có ý muốn nói như một văn mộ chí cho Isaac Newton trong Tu Viện Westminster.
c. Tự nhiên và những quy luật tự nhiên đã sắp đặt trong đêm tối Chúa trời nói
"Hãy để Newton sống!" và tất cả đều sáng lên.
Chúng ta không nên phản đối cách sử dụng của phương thức ngôn ngữ này trong tường thuật tin tức và đặt đầu đề mà nó được sử dụng cho mục đích ngắn gọn, như "Đức
xâm chiếm Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939", "Ottawa bác bỏ hiệp ước", "Quốc Hội đang họp"…Trong những trường hợp như thế chúng ta hiểu rõ rằng quân đội Đức xâm chiếm Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939; rằng nó là những chính quyền có liên quan, và không phải Ottawa, người mà đã bác bỏ hiệp ước trong vấn đề; đó là những thành viên của Quốc Hội, và không phải sự trừu tượng hóa Quốc Hội.
Chúng ta cũng phải nhận ra những trường hợp đó mà chúng ta không đưa vào bằng cách thức này của diễn văn nhưng đúng hơn là sử dụng nó có ý thức với sự hiểu biết đầy
đủ những gì mà chúng ta đề cập.
Chirstopher Stone là nhà môi trường học viết Cây Cối Nên Có Vị Trí? Hướng những quyền lợi hợp pháp đối với những thực thể tự nhiên là một ví dụ rõ ràng nhất.
“Như chúng ta đã biết, trong một thời gian rất dài, những người mà cố gắng giữ gìn môi trường từ sự lạm dụng không có một thời gian thoải mái của nó đặc biệt không với những lý luận mà chúng tìm cách đạt được. Chủ nhân của những khu rừng và ao hồ có thể thay đổi một tí về những yêu cầu chuẩn: Chúng ta không đốn rừng bởi vì mỗi năm một lần các bạn sẽ băng qua khu rừng? Chúng ta không bỏ rác công nghiệp ở ao hồ vì các bạn thích câu cá ở trong hồ? Chúng ta cần bột
giấy từ những khu rừng đó để làm ra báo, tạp chí, và sách mà duy trì cách sống
của mình, và chúng ta cần những nhà máy và sản phẩm của chúng để đảm bảo việc làm và hàng hóa cho con người. Bên cạnh đó, rừng là tài sản của chúng ta.”
Những gì Stone đề nghị trong quyển sách ngắn của ông là một lý luận khác cơ bản
- và một lý luận mạnh mẽ hơn. Thật đơn giản, những gì ông ta nói: Đừng đốn cây cối đó hay làm ô nhiễm hồ, không phải vì hành động của bạn sẽ làm mất đi những vật thể khác có ích đưa ra những thực thể đẹp, tự nhiên này, nhưng đúng hơn là cây cối không muốn bị
chặt phá và ao hồ không muốn bị ô nhiễm. Nói ngắn gọn, cây cối và ao hồ cũng có quyền lợi của chúng bởi vì chúng tồn tại trong quyền lợi riêng và không đơn giản những sự chiếm hữu hay những nguồn gốc của lợi ích có thể xãy ra đối với những tồn tại khác. Làm thế nào chúng ta tự coi mình là trung tâm, Stone lý luận, để phân chia cho những vật chất ý nghĩa tinh thần hoàn toàn trên cơ bản lợi ích của chúng đối với chúng ta. Chúng ta phải cố gắng thay đổi quan điểm của mình về thiên nhiên, không xem nó như trò chơi hay vật sở hữu
của chúng ta để làm những gì chúng ta thích, và đúng hơn nó là một thực thể của giá trị
vốn có như thế mà chúng ta cảm thấy buộc phải bảo vệ nó.
Trong lời mở đầu của ông ta đối với quyển sách được đọc và hâm mộ rộng rãi này, Stone kể với độc giả rằng nếu quan điểm ông ta đang thúc đẩy (những vật thể tự nhiên có quyền bất khả nhượng) xem ra vô lý, nó sẽ hữu dụng để nhớ rằng không quá lâu những nhóm như thế như phụ nữ, những người Mỹ gốc Phi, và người Mỹ bản xứ cũng bị từ chối những quyền lợi cơ bản của nhân loại trên nền tảng họ không phải là người được xã hội chấp nhận. Có lẽ sớm hay muôn lý luân cây cối có quyền lợi dường như sẽ không xa lạ như trong lúc này.
Những gì Stone đang làm ở đây là sáng tác một quyển tiểu thuyết mới, làm ra vẻ như những cây cối đó giống như con người (hay ít ra, giống như tập thể) và có quyền lợi. Nói ngắn gọn, ông ta đang cú pháp hay nhân hóa những thực thể tự nhiên. Nhưng, theo
Garret Hardin, trong lời nói đầu của ông ta trong quyển sách của Stone, chỉ ra, vì thế chủ
nhân của những khu rừng và ao hồ đã khẳng định chúng là "tài sản" của họ.
…Nhưng mỗi luật sự và mỗi nhà kinh tế học giỏi biết rằng "tài sản" không phải là một vật chất mà đơn thuần là một công bố bằng miệng mà những quyền lực và đặc quyền truyền thống của một số thành viên trong xã hội sẽ được bảo vệ quyết liệt khỏi sự công kích của những người khác. Từ " tài sản" biểu tượng hóa một mối đe dọa của hành động; nó là một thực thể có đặc tính như động từ, nhưng (là một danh từ) từ ngữ ảnh hưởng đến tư duy của chúng ta theo hướng tồn tại độc
lập chúng ta gọi là vật chất. Nhưng sự vĩnh cửu đã có được bởi tài sản không phải là sự vĩnh cửu của một nguyên tử; nhưng của một sự hứa hẹn (một điều hảo huyền nhất). Thậm chí sau khi chúng ta trở nên có nhận thức về sự chỉ dẫn sai
của chú ý bị ép buộc bởi danh từ "tài sản", chúng ta có thể vẫn đồng ý một cách tiêu cực với điểm sai của giá trị sử dụng liên tục của nó bởi vì một mức độ của ổn định xã hội cần thiết để đạt được công việc đã hoàn thành theo thường lệ. Nhưng khi nó trở nên hoàn toàn khó khăn mà giá trị sử dụng không cân nhắc liên tục của từ "tài sản" được chỉ dẫn đến những kết quả hiển nhiên không đúng và phản tác dụng xã hội, sau đó chúng ta phải dừng lại và tự hỏi chúng ta muốn xác định lại quyền lợi của tài sản như thế nào. (Cây Cối Nên Có Vị Trí? Hướng Những Quyền Lợi Hợp Phát Đối Với Những Thực Thể Tự Nhiên. Los Altos, CA: William Kaufmann, 1974 trang 6-7)
Hardin không cần thiết chỉ trích thực tiễn hay quá trình của cú pháp ông ta miêu tả. Ông ta chỉ thúc đẩy chúng ta nhận ra nó là gì. "Tài sản" là một viễn tưởng, một khái niệm chúng ta phát minh hay nghĩ ra. Nó không thay thế một số vật chất cụ thể chúng ta phát hiện ra rằng nó có một tồn tại độc lập của chúng ta hay những mong muốn của chính mình. Chỉ cần chúng ta tìm thấy khái niệm hữu dụng và có ích chúng ta có thể tiếp tục bao quát nó; nếu khái niệm bắt đầu chứng tỏ khác, để chúng ta nhớ rằng chính chúng ta đã phát huy nó thành bản chất (định nghĩa nó), và vì thế không có gì ngăn cản chúng ta từ việc loại trừ nó (định nghĩa lại) nên chúng ta quyết định làm như thế.
Cuối cùng chúng ta có thể hỏi, nếu nói rằng dạng này rất có hại, tại sao chúng ta sử dụng đến nó rất thường xuyên? Câu trả lời rất đơn giản: chúng ta có nhiều lợi ích từ cách nói như thế. Chúng ta sử dụng nó, chúng ta có nhận ra nó hay không, như một thể thức của ma thuật về từ. Do đó từ khoa học được sử dụng trong một quảng cáo sẽ bán được hầu hết bất cứ thứ gì, như những người quảng cáo nghiên cứu. Dĩ nhiên chúng ta cũng khai thác
sai sót. Ví dụ, chúng ta thấy rằng nó dễ hơn để chỉ trích "sự thiết lập" hay "hệ thống" đúng hơn là chỉ ra những quy luật hay thực tiễn riêng biệt mà chúng ta cảm thấy cần thay đổi.
Nhưng chúng ta trả một giá quá đắt cho sự lạm dụng này. Để từ tự do được sử dụng thường như một hiệu lệnh tập hợp. Chúng ta sẽ có nhiều lợi ích hơn để ngưng trong chốc
lát và tự hỏi: tự do cho ai? tự do từ những gì? tự do để làm gì? Những câu hỏi như thế sẽ
cứu lấy nhiều sự sống.
Chúng ta cần nhớ rằng những từ ngữ như tự nhiên, sự thật và tự do là trừu tượng, không tồn tại trong thế giới thực. Chúng ta có thể nghiên cứu để làm giảm số lượng từ trong thế giới trừu tượng đó bằng một quá trình thay thế. Bất cứ khi nào một từ xuất hiện đáng ngờ, nó nên được truy nguyên thấy bắt nguồn từ vật chất dường như nó miêu tả và
một từ mới nên được thay thế cho tư đáng ngờ đó. Đôi khi sự trừu tượng được thay đổi một cách đơn giản từ một danh từ sang một tính từ. Vì thế, chúng ta có thể thay thế "Sự thật sẽ làm bạn thoải mái" với " Những lời nhận xét chân thật sẽ làm bạn thoải mái", thay thế "Hoa Kỳ không thể làm sai" với "Tổng Thống (hay những thành viên của Quốc Hội Hoa Kỳ) không thể làm sai". Với dạng phân tích này, nhiều nhận xét dường như hết sức sâu sắc thường chúng tỏ nó không sâu sắc ở toàn thể.
• Sai lầm trong phép tu từ nảy sinh khi chúng ta xem xét những từ trừu tượng như thể chúng là những từ cụ thể. Thậm chí chúng ta thường xuyên quy cho chúng những đặc tính giống như con người.
• Chúng ta dùng phép tu từ khi nói những điều như "Hoa Kỳ không thể làm sai", "Tự nhiên quy định quyền lợi là gì" …Những điều đó là sai sót, không phải Hoa Kỳ mà cũng không phải tự nhiên có năng lực của tư duy, mục đích hay sáng tạo.
• Tuy nhiên, chúng ta cần tu từ những từ ngữ nổi bật đối với những mục đích diễn cảm hay thi ca (như trong nhận xét của Antony về Brutus) từ những từ ngữ được phép tu từ hóa đối với những mục tiêu hợp lý hay miêu tả mà những sự khẳng định nào đó được tạo thành (như trong nhận xét về tự nhiên tạo nên những tiến bộ trong một chủng loại). Trong khi cách sử dụng trước đó thì vô hại, những cách sử dụng sau này có thể trở nên tiêu cực.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |