Nguyen Duc Thanh
272
(Pisum sativum L.) có thể dùng cho cây đậu
châu Á (Cicer arietinum L.) và STMS của đậu
châu Á có thể dùng cho đậu lăng (Lens culinaris
L.) và đậu tằm thuộc chi Vicia [7], STMS của
cây họ đậu có thể dùng cho lạc [22].
Kỹ thuật chuỗi lặp lại đơn giản giữa (Inter-
Simple Sequence Repeat-ISSR)
ISSR là những chỉ thị được nhân bản bằng
PCR với một mồi bổ trợ với tiểu vệ tinh
(microsatellite) đích. Mỗi băng tương ứng với
chuỗi DNA được giới hạn bởi các tiểu vệ tinh
đảo ngược. Kết quả dẫn đến đa locus, có sự đa
hình cao và tạo ra các chỉ thị trội. ISSR-PCR là
kỹ thuật đánh giá kiểu gen nhanh, không đắt; sự
đa hình dựa trên sự thay đổi trong các vùng nằm
giữa các tiểu vệ tinh. Kỹ thuật này không cần
thông tin về trình tự, tạo được nhiều locus, có
tính đa hình cao và tạo ra chỉ thị trội [120]. Kỹ
thuật ISSR là kỹ thuật nhân bản đoạn DNA nằm
giữa hai vùng lặp lại giống hệt và ngược chiều
nhau (hình 3). Kỹ thuật này sử dụng các tiểu vệ
tinh như các mồi trong phản ứng PCR với một
mồi cho nhiều locus đích để nhân bản chủ yếu
các chuỗi lặp lại đơn giản với độ dài khác nhau.
Các tiểu vệ tinh sử dụng như mồi trong kỹ thuật
ISSR có thể là 2, 3, 4, hoặc 5 nucleotide. Các
mồi sử dụng có thể không phải mồi neo hoặc là
mồi neo ở đầu 3’ hoặc 5’ với 1 đến 4 nucleotide
thoái hóa kéo đến các chuỗi bên cạnh. Kỹ thuật
ISSR sử dụng mồi dài (15 đến 30 nucleotide) vì
vậy nhiệt độ bắt mồi cao dẫn đến độ ổn định cao
của phản ứng. Sản phẩm có độ dài 200-2000 bp
nên có thể phân tách trên cả gel agarose và
polyacrylamide.
Kỹ thuật ISSR được sử dụng rất rộng rãi
trong nghiên cứu đa dạng di truyền [58, 149],
nghiên cứu đặc điểm di truyền trong quần thể
[145], lấy dấu di truyền [18, 29], đánh dấu gen
[147], xác định cây trồng [47, 108], phân tích
nguồn gốc [48], xác định sự thay đổi genome
[101] và đánh giá con lai [105]. Kỹ thuật ISSR
có một số lợi thế so với các kỹ thuật khác là có
thể phân biệt được các kiểu gen gần và không
cần thông tin về trình tự gen của cây nghiên
cứu. Giống như RAPD, ISSR là kỹ thuật nhanh,
dễ tiến hành. Nó ưu việt hơn RAPD là cho
nhiều thông tin và có thể lặp lại ở các thí
nghiệm do mồi dài hơn. Nhược điểm chủ yếu
của ISSR là tạo ra các chỉ thị trội [60, 191] và
sự dị đồng nhất của các sản phẩn nhân bản do
sự di chuyển đồng thời.
Hình 3. Nhân bản chuỗi lặp lại nằm giữa hai
chuỗi (CT)n ngược chiều nhau bằng mồi đơn
(GA)n: A. Mồi đơn (GA)n không neo có thể bắt
cặp bất kỳ ở vị trí nào trong vùng (CT)n của
DNA khuôn nên việc nhân bản không được
chuẩn, B. Mồi đơn (GA)n có hai nucleotide
(NN) neo ở đầu 3’ bắt cặp vào vùng đặc thù trên
DNA khuôn và tạo băng rõ ràng, C. (GA)n có
hai nucleotide (NN) neo ở đầu 5’ bắt cặp vào
vùng đặc thù trên DNA khuôn nhân bản được
một phần vùng lặp lại tạo ra các băng lớn.
ISSR được dùng trong nghiên cứu đa dạng
di truyền nhiều loài cây trồng khác nhau như lúa
[79, 149], lúa mì [124], kê [156], nho [3], khoai
lang [70], mã đề [199], táo ta [131] v.v.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |