B. Sự khác nhau giữa hai mẫu thể hiện bằng DArT. Hai mẫu genome được chuẩn bị theo phương
pháp mô tả ở (A). Một mẫu được đánh dấu huỳnh quang mầu xanh, một mẫu được đánh dấu mầu
đỏ, trộn với nhau và lai với pa-nen đa dạng. Tỷ lệ mức độ tín hiệu xanh/đỏ được đo ở mỗi lần và sự
khác nhau về tỷ lệ tín hiệu cho thấy sự thể hiện khác nhau của các phân đoạn DNA [73].
Nguyen Duc Thanh
280
nhược điểm tốn kém về thời gian của các kỹ
thuật dựa trên việc lai DNA và có thể phân tích
hàng ngàn locus trong một lần thí nghiệm.
DArT đặc biệt phù hợp cho phân tích kiểu gen
các loài đa bội với hệ gen lớn. Công nghệ này
có thể lấy dấu (fingerprint) toàn bộ hệ gen bằng
việc ghi nhận sự có mặt hoặc vắng mặt các phân
đoạn DNA trong hệ gen đại diện được hình
thành từ các mẫu DNA genome. Công nghệ
DArT gồm nhiều bước như: giảm thiểu sự phức
tạp của mẫu DNA (bằng gộp DNA của các mẫu,
cắt DNA bằng enzyme giới hạn và PCR với các
mồi có nucleotide chọn lọc), tạo thư viện DNA,
đưa các thư viện lên bản kính, lai với các DNA
được đánh dấu huỳnh quang trên bản kính, quét
bản kính để xác định tín hiệu lai, ghi chép số
liệu và phân tích (hình 4).
DArT giảm thiểu sự phức tạp của mẫu DNA
để nhận đại diện của mẫu. Sự giảm thiểu này
dựa trên việc kết hợp cắt hạn chế và gắn chuỗi
tiếp hợp và kèm theo sự nhân bản bằng PCR.
Chỉ thị DArT cho loài mới được khám phá bằng
việc sàng lọc thư viện hàng ngàn phân đoạn
DNA từ genome đại diện được chuẩn bị từ việc
gộp các mẫu DNA chứa đựng sự đa dạng của
loài. Hệ thống phân tích chip vi điểm
(microarray platform) làm cho quá trình khám
phá hiệu quả vì tất cả các chỉ thị trên một phân
tích DArT cụ thể được ghi nhận đồng thời. Đối
với mỗi phương pháp giảm thiểu phức tạp có
một bộ chỉ thị DArT riêng phù hợp cho phân
tích DArT riêng rẽ. Do đó, số lượng các chỉ thị
cho mỗi loài nhất định chỉ phụ thuộc vào mức
độ biến đổi trong loài và số phương pháp giảm
thiểu phức tạp được sàng lọc.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: