Nguyen Duc Thanh
278
Phân tích cắt hạn chế DNA lục lạp (cpDNA)
được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu các loài
và các biến đổi trong loài. Phân tích sự thay đổi
độ dài các đoạn cắt hạn chế cpDNA là phương
pháp đầu tiên trong phân tích cpDNA cho mục
đích nghiên cứu phát sinh loài. Phương pháp
phân tích cắt hạn chế cpDNA bao gồm phương
pháp đơn giản như so sánh toàn bộ các đoạn cắt
hạn chế genome lục lạp trên gel agarose đến lập
bản đồ so sánh trực tiếp các vị trí cắt hạn chế
bằng lai Southern. Phân tích điểm cắt hạn chế
cpDNA có nhiều ưu việt trong nghiên cứu phát
sinh loài: i- kỹ thuật đơn giản so với nhiều kỹ
thuật phân tử khác; ii- hệ gen lục lạp đủ lớn để
có thể có được nhiều vị trí cắt cho một enzyme;
iii- các vị trí cắt hạn chế thể hiện gần như mẫu
ngẫu nhiên của cpDNA; iv- các thay đổi mang
thông tin phả hệ xảy ra ở các vị trí nằm trên
vùng không mã; v- phân tích điểm cắt hạn chế
không bị ảnh hưởng bởi sự nhiễm như đối với
giải mã sản phẩm PCR. Tuy nhiên, do tính bảo
thủ của cpDNA nên các loài gần nhau thường
khó có đa hình. Phân tích vị trí cắt giới hạn
cpDNA cũng được thực hiện trên các chuỗi gen
(matK, atpB, ndhF, rbcL), các vùng không mã
(ndhF và trnL intron) và các vùng đệm giữa các
gen lục lạp (trnH-trnK, psbC-trnS, trnD-trnS,
trnT-trnF, trnL-trnF v.v.) bằng việc cắt sản
phẩm PCR nhân bản các gen và các vùng này
bằng các enzyme cắt hạn chế. Phương pháp này
còn được biết đến là phương pháp PCR-RFLP
cpDNA. Phân tích vị trí cắt hạn chế là phương
pháp so sánh gián tiếp sự thay đổi trong
genome. Để so sánh trực tiếp cần tiến hành đọc
trình tự gen sau đó so sánh.
Phân tích cắt hạn chế cpDNA được sử dung
trong nghiên cứu tiến hóa, phân loại, địa sinh
học [133], nghiên cứu đa dạng di truyền và biến
đổi cpDNA [141, 174, 176, 177, 180].
Kỹ thuật phân tích các RNA vận chuyển lục lạp
Các RNA vận chuyển (tRNAs) lục lạp là
các đại phân tử cổ đã tiến hóa dưới các áp lực
môi trường như các yếu tố thích ứng trong sự
chuyển đổi ở tất cả các dạng sống, nhưng cũng
dẫn tới các thay đổi cấu trúc và chức năng. Nói
cách khác tRNAs rất đa dạng về vai trò (tổng
hợp thành tế bào, tổng hợp porphyrin cho
chlorophyll, biến đổi đầu N của protein, khởi
động phiên mã ngược, tái mô hình hóa lipid
trong sự bổ sung vào tổng hợp protein phụ
thuộc ribosome) và cấu trúc. Một đặc điểm của
các vùng tRNA là rất bảo thủ và vì thế cho phép
những thay đổi cấu trúc dưới dạng thay thế,
thêm bớt nucleotide (indel-insertion and
deletion) và chuỗi lặp lại. Những thay đổi này
cung cấp những thông tin quan trọng về sự tiến
hóa.
Trong phân tích các RNA vận chuyển, các
công trình nghiên cứu thường sử dụng các vùng
đệm giữa các gen, đặc biệt là giữa hai gen trnL-
trnF. Vùng đệm giữa hai gen trnL-trnF có độ
dài nhỏ hơn 500 bp. Từ vùng bảo thủ, hai mồi
đã được thiết kế để nhân vùng đệm này ở các
loài [167]. Với các mồi chung này và mức độ đa
hình cao trong vùng đệm trnL-trnF làm cho
vùng này trở thành chỉ thị tốt cho nghiên cứu
phân tích ở nhiều loài thực vật [32]. Các trình tự
khác nhau giữa các loài trong vùng đệm này có
thể xác định bằng điện di trên gel
polyacrylamide, phản ứng PCR-SSCP hoặc
thậm trí điện di trên gel agarose. Ngoài vùng
đệm giữa gen trnL-trnF, một số vùng đệm khác
như các vùng đệm giữa các gen trnH-trnK,
psbC-trnS, trnD-trnS, trnT-trnF cũng được sử
dụng [129]. Các vùng không mã (intron) của
gen trnL (UAA) cũng được sử dụng nhiều cho
phân tích tiến hóa thực vật và cho phát triển chỉ
thị để xác định thực vật cho gen là mẹ ở cơ thể
đa bội cùng với khả năng khám phá quan hệ tiến
hóa của các loài liên quan [205].
Kỹ thuật Simple sequence repeats lục lạp
(cpSSR)
SSR lục lạp (cpSSR) hay tiểu vệ tinh lục lạp
(chloroplast microsatelitte) được tìm thấy trong
tất cả các hệ gen lục lạp đã được giải trình tự
hoàn toàn và hàng trăm trình tự lục lạp chưa
được giải trình tự hết. Việc nhân bản bằng PCR
các cpSSR này bằng các mồi đặc thù với các
vùng nằm bên đầu 5’ và đầu 3’ đã tạo ra các sản
phẩm có độ dài khác nhau tương ứng với vùng
cpSSR. SSR lục lạp (cpSSR) khác với SSR
nhân (nSSR) ở chỗ cpSSR cấu tạo bởi kiểu
nucleotide đơn lặp lại từ 8 đến 15 lần. cpSSR
tiến hóa nhanh hơn các vùng gen khác trong hệ
gen lục lạp [75] và được xác định ở nhiều loài
cây. Cho đến nay, các nghiên cứu cho thấy
Các kỹ thuật chỉ thị DNA
279
cpSSR cho mức độ đa hình cao hơn phân tích
cắt hạn chế cpDNA (RFLP-cpDNA) [142].
Hệ gen lục lạp được di truyền với nhiều bản
sao trong phân chia mitos và meios, vì vậy, nó
trở thành đối tượng nghiên cứu phân hóa do trôi
gen trong cấu trúc di truyền và trôi gen ngoài tự
nhiên [65] và để xác định sự suy giảm đa dạng
di truyền [116]. Di truyền theo mẹ, đơn bội, và
bản chất không tái tổ hợp của hệ gen lục lạp làm
nó trở thành phương tiện hữu hiệu trong nghiên
cứu tiến hóa. cpSSR đã được sử dụng trong
nghiên cứu nhiều loài cây như lúa, lúa mạch,
thông, gõ đỏ v.v. [45, 142,143, 180].
Kỹ thuật phân tích trình tự cpDNA
Trình tự DNA cung cấp công cụ cho phân
tích so sánh trực tiếp. Tiêu chí chọn trình tự
DNA cho phân tích bao gồm: i. trình tự phải đủ
dài để có đủ thông tin về tiến hóa di truyền các
vị trí nucleotide, ii. mức độ đa dạng phù hợp với
vấn đề tiến hóa di truyền được đặt ra, theo
Ritland và Clegg [151] mức độ đa dạng từ 5 đến
15% là phù hợp, mức độ này cung cấp đủ số
lượng đặc điểm cần thiết. Phân tích trình tự
cpDNA có ưu điểm là cần rất ít cpDNA khuôn.
Để phân tích trình tự cpDNA, cũng giống như
phân tích trình tự DNA nói chung, trước hết là
nhân các gen, vùng gen hay vùng đệm các gen
lục lạp bằng các mồi đặc hiệu, sau đó có thể
nhân dòng trước khi đọc trình tự hoặc đọc trình
tự trực tiếp sản phẩm PCR. Cuối cùng là so
sánh trình tự bằng các phần mềm chuyên dụng.
Nhiều nghiên cứu đã sử dụng trình tự gen
rbcL cho nghiên cứu phân loại và tiến hóa loài
[132] một số khác sử dụng trình tự gen ndhF
[55] và gen matK [91]. Trình tự các chuỗi vùng
đệm giữa các gen hay trình tự các chuỗi không
mã của các gen hoặc giữa hai gen (trnL (UAA),
rbcL-atpB cũng được sử dụng [130, 208]. Trình
tự các vùng gen rbcL, matK, atpF-atpH IGS,
psbK-
psbI
IGS và
trnH-
psbA
IGS còn được
dùng cho mã vạch (barcode) ở các loài lan [87].
Chia sẻ với bạn bè của bạn: