Nguyen Duc Thanh
274
locus rỗng; kỹ thuật biểu lộ gen nhảy
(Transposable Display-TD).
Kỹ thuật S-SAP được sử dụng đầu tiên
trong nghiên cứu vị trí của gen nhảy BARE1
(barley retrotransposable element 1) trong lúa
miến [93]. Về cơ bản, đây là dạng đơn giản của
kỹ thật AFLP. Việc nhân bản được thực hiện
với mồi đặc hiệu cho gen nhảy và mồi đặc hiệu
cho đoạn tiếp hợp MseI (MseI-adaptor). S-SAP
được sử dụng trong nghiên cứu đa dạng di
truyền và lập bản đồ [138, 144].
Trong kỹ thuật IRAP và REMAP đa hình
được xác định bằng sự có mặt hoặc vắng mặt
của gen nhảy ngược tại locus riêng biệt. Một
phản ứng PCR có thể tạo được khoảng 30 băng.
Các chỉ thị này có độ đa hình cao và có thể sử
dụng trong đánh giá quan hệ trong loài. IRAP
được sử dụng nghiên cứu đặc điểm hệ gen
[126]. IRAP và REMAP được sử dụng để phát
hiện sự giống nhau giữa các giống lúa [22].
Kỹ thuật RBIP được phát triển nhờ sử dụng
gen nhảy PDR1 của Pisium sativum [50]. Trong
kỹ thuật này, cần phải có thông tin về trình tự
đầu 5’ và 3’ của các vùng kề bên gen nhảy. Khi
sử dụng mồi đặc thù cho gen nhảy cùng với mồi
thiết kế để kéo dài tới vùng kề bên sẽ cho sản
phẩm từ DNA khuôn có chứa nucleotide bổ
sung. Mặt khác, các mồi đặc thù cho cả hai
vùng kề bên sẽ tạo sản phẩm nếu không có bổ
sung nucleotide. Sự đa hình được xác định trên
gel agarose hoặc lai với phân đoạn PCR tham
khảo (tham chiếu). Đây là kỹ thuật khá tốn kém
và phức tạp so với các kỹ thuật gen nhảy khác.
RBIP được sử dụng trong nghiên cứu đa dạng di
truyền và tiến hóa đậu đồng (Pisum) [77].
Kỹ thuật TD là dạng cải tiến của kỹ thuật
AFLP, kỹ thuật này cho phép xác định đồng
thời nhiều yếu tố phiên mã (TEs) từ các dòng có
số lượng bản sao cao. Trong kỹ thuật này, sản
phẩm PCR được tạo ra nhờ các mồi neo ở vị trí
cắt hạn chế của hai enzyme BfaI và MseI và yếu
tố gen nhảy. Các gen nhảy được xác định bằng
PCR gắn (ligation-mediated PCR) bắt đầu trong
phạm vi gen nhảy và nhân bản từ phần chuỗi kề
bên đến vị trí cắt hạn chế đặc thù. Sản phẩm
PCR có thể phân tích trên gel polyacrylamide.
TD được sử dụng đầu tiên để khám phá số bản
sao của nhóm gen nhảy dTph1 (TIRs) ở Petunia
và các sự kiện bổ sung nucleotide [189].
Các kỹ thuật chỉ thị PCR các chuỗi đặc trưng
Kỹ thuật vùng nhân bản chuỗi được mô tả
(Sequence Characterized Amplified Regions-
SCAR)
Để có thể sử dụng các chỉ thị xác định được
bằng các mồi ngẫu nhiên (như RAPD, AFLP
v.v.) và khắc phục nhược điểm mẫn cảm với
điều kiện phản ứng của các phản ứng với mồi
ngẫu nhiên, kỹ thuật chỉ thị SCAR được phát
triển và sử dụng. Kỹ thuật SCAR là kỹ thuật chỉ
thị dựa vào PCR tạo ra các phân đoạn DNA tại
các locus xác định bằng sử dụng các mồi
nucleotide đặc thù [137]. SCAR được tiến hành
bằng cách tách dòng sản phẩm PCR với các mồi
ngẫu nhiên sau đó đọc trình tự hai đầu đoạn tách
dòng. Dựa vào trình tự hai đầu này để thiết kế
cặp mồi với độ dài 15 đến 30 bp để nhân băng
đơn với kích thước tương tự như phân đoạn
được nhân dòng. Sự đa hình được xác định bằng
sự có mặt hay vắng mặt của băng được nhân
bản hoặc sự suất hiện đa hình về chiều dài đồng
thời chuyển chỉ thị trội thành chỉ thị SCAR
đồng trội. Kỹ thuật SCAR được dùng để phân
tích thư viện genome [31], xác định các locus
đặc thù [137], chọn giống nhờ chỉ thị phân tử
[95].
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |