LỜi nhà xuất bản nghiên cứu về SỰ phát triển con ngưỜI


Thế giới thật của sự rủi ro trước khi sinh



trang10/72
Chuyển đổi dữ liệu07.01.2018
Kích5 Mb.
#35951
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   72

Thế giới thật của sự rủi ro trước khi sinh

Chúng ta đề cập các yếu tố rủi ro, như thể mỗi yếu tố là mối đe dọa tiềm năng duy nhất đối với sự phát triển trước khi sinh. Thật ra, nhiều trẻ tiếp xúc với nhiều rủi ro chung và nhiều tác nhân gây quái thai. Thai phụ uống rượu thường hút thuốc và uống cafe (Barr và người khác, 1990). Thai phụ bị căng thẳng thường uống rượu (Giberson & Weinberg, 1992). Phần lớn số phụ nữ này có chế độ dinh dưỡng kém. Khi kết hợp tất cả các rủi ro, thật không may, sự phát triển trước khi sinh hiếm khi đạt mức tối ưu (Schneider và người khác, 1997).

Từ những điều chúng ta vừa đề cập trong phần này, bạn nghĩ rằng trẻ đang phát triển có ít khả năng tránh khỏi tổn thương. Nhưng hầu hết trẻ sinh ra đều có sức khỏe tốt. Dĩ nhiên, lời khuyên dành cho thai phụ là phải tránh bệnh tật, chất gây nghiện và nguy hiểm từ môi trường vốn là tác nhân gây quái thai thấy rõ. Lời khuyên này cùng với sự chăm sóc y tế trước khi sinh và chế độ dinh dưỡng phù hợp là công thức tốt nhất đối với sự phát triển trước khi sinh thông thường.

CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ TRƯỚC KHI SINH

"Tôi không quan tâm đến con trai hoặc con gái miễn là chúng khỏe mạnh là đủ". Rất nhiều phụ huynh khắp thế giới đều có suy nghĩ này, nhưng cho đến thời gian gần đây, tất cả những gì họ có thể làm là hy vọng có được điều tốt nhất. Tuy nhiên, ngày nay, tiến bộ trong công nghệ có nghĩa là bố mẹ có quan điểm tốt hơn nhiều, họ muốn con mình có phát triển bình thường hay không.



Tư vấn gien

Bước đầu trong việc quyết định liệu con của cặp vợ chồng có khả năng bị rủi ro hay không là tư vấn gien. Nhân viên tư vấn hỏi về tiền sử bệnh trong gia đình và lập ra một cây phả hệ cho mỗi bố mẹ để đánh giá tỷ lệ trẻ có bị rối loạn hay không. Nếu cây phả hệ cho thấy một bố mẹ có thể là vật mang rối loạn thì xét nghiệm máu có thể xác định kiểu gien của bố mẹ. Với thông tin này, nhân viên tư vấn gien sẽ tư vấn chọn lựa cho bố mẹ tương lai. Một cặp vợ chồng chỉ đơn giản có con theo cách "tự nhiên" hoặc họ quyết định sử dụng tinh trùng hoặc trứng của người khác. Tuy nhiên chọn lựa khác có thể là nuôi con nuôi.



Chẩn đoán trước khi sinh

Sau khi phụ nữ có mang, làm cách nào chúng ta biết được liệu sự phát triển trước khi sinh có phát triển bình thường hay không? Theo truyền thống, bác sĩ sản khoa theo dõi diễn tiến sự phát triển trước khi sinh bằng việc sờ mó bên ngoài bụng thai phụ rồi đoán chừng kích thước và vị trí của thai đang ở trong bụng thai phụ. Kỹ thuật này không chính xác, dĩ nhiên không thể tiến hành cho đến khi thai đủ lớn. Tuy nhiên, ngày nay một số kỹ thuật mới đã tạo ra cuộc cách mạng đối với khả năng giám sát sự tăng trưởng và phát triển trước khi sinh. Một phần tiêu chuẩn trong chăm sóc trước khi sinh ở Mỹ là siêu âm, trong đó sóng siêu âm được dùng để tạo ra hình thai. Trong quá trình này, như trong ảnh (bên trên), một công cụ có kích thước bằng máy sấy tóc xoa bên ngoài bụng thai phụ, hình ảnh hiện ra trên màn hình TV kế bên. Hình ảnh được tạo ra chỉ mang chất lượng chân dung, có nhiều hạt và chỉ có chuyên gia mới phân biệt được. Tuy nhiên, bố mẹ thường hồi hộp khi nhìn thấy con và thấy trẻ cử động.

Người ta thường siêu âm sau khi thụ thai 4 hoặc 5 tuần, trước thời điểm như thế này phôi chưa đủ lớn để tạo ra hình ảnh cho biết được. Hình ảnh siêu âm rất có ích cho việc xác định vị trí thai trong tử cung, và xác định giới tính sau khi thụ thai 16 đến 20 tuần tuổi. Siêu âm cũng phát hiện ra trẻ sinh đôi hoặc sinh ba. Sau cùng, siêu âm dùng để nhận dạng biến dạng cơ thể chẳng hạn như sự phát triển bất thường của phần đầu.

Trong thai kỳ nghi ngờ có rối loạn gien, hai kỹ thuật khác đặc biệt có giá trị vì chúng cung cấp một mẫu tế bào thai có thể phân tích được. Trong phương pháp chọc màng ối qua bụng, người ta luồn kim vào bụng người mẹ để lấy mẫu nước ối bao quanh thai. Bạn có thể nhìn thấy trong sơ đồ (bên trái trên), siêu âm dùng để hướng dẫn kim trong tử cung. Chất dịch chứa tế bào da có thể phát triển trong một đĩa thí nghiệm rồi sau đó được phân tích để xác định kiểu gien của thai.

Một hạn chế của phương pháp chọc màng ối qua bụng là mặc dù nước ối được trích lấy vào khoảng 16 tuần sau khi thụ thai, phải thêm 3 tuần nữa để cho tế bào phát triển đầy đủ mới xét nghiệm được. Có thể áp dụng quá trình sớm hơn trong thai kỳ là lấy mẫu nhung mao màng đệm trong đó lấy mẫu mô từ phần "nhau". Sơ đồ (bên phải trên) cho thấy một ống nhỏ đưa vào âm đạo và tử cung dùng để lấy một mẫu tế bào nhỏ trong "nhau". Quá trình này có thể áp dụng trong 8 hoặc 9 tuần sau khi thụ thai, thu được kết quả trong vòng 24 tiếng.

Với các mẫu lấy được từ phương pháp chọc màng ối qua bụng hoặc lấy mẫu nhung mao màng đệm, có thể phát hiện khoảng 200 rối loạn gien khác nhau kể cả hội chứng Down. Những quá trình này hầu như không có sai sót nhưng phải trả giá: sau khi chọc màng ối qua bụng hoặc lấy mẫu nhung mao màng đệm, tỷ lệ sẩy thai có nhiều khả năng xảy ra hơn, 1 hoặc 2% (Cunningham, MacDonald, & Gant, 1989). Phụ nữ phải quyết định có nên lấy thông tin từ chọc màng ối qua bụng hoặc lấy mẫu nhung mao màng đệm hay không để tránh nguy cơ có thể bị sẩy thai cho dù không cao.



Điều trị thai

Siêu âm, chọc màng ối qua bụng và lấy mẫu nhung mao màng đệm rất dễ xác định liệu sự phát triển trước khi sinh có diễn tiến bình thường hay không: Nhưng điều gì xảy ra khi sự phát triển không bình thường? Theo truyền thống, tùy chọn của phụ nữ rất hạn chế: có thể tiếp tục dưỡng thai hoặc phá thai. Tuy nhiên, danh sách tùy chọn đang mở rộng. Một lĩnh vực hoàn toàn mới gọi là điều trị thai liên quan đến việc điều trị các vấn đề trước khi sinh của thai. Một tiếp cận trong điều trị thai là phải điều trị các rối loạn bằng y học, bằng cách tiêm thuốc hoặc nội tiết tố vào thai. Trong một trường hợp, hình ảnh siêu âm thể hiện thai có tuyến giáp to khiến thai phụ sinh khó. Người tiêm một nội tiết tố vào nước ối làm cho tuyến giáp thu nhỏ để thai phụ sinh bình thường (Davidson và người khác, 1991). Trong trường hợp khác, chọc màng ối qua bụng phát hiện thai bị di truyền một rối loạn trong đó hệ miễn dịch không hoạt động đúng. Điều này làm cho bé dễ bị nhiễm trùng, vì thế tế bào miễn dịch khỏe mạnh được tiêm vào cuống rốn (Elmer-DeWitt, 1994).

Một tiếp cận khác là phẫu thuật thai. Bác sĩ cắt bỏ thai ra khỏi tử cung từng phần, thực hiện phẫu thuật điều chỉnh rồi sau đó đưa thai vào lại tử cung. Ví dụ điều chỉnh cơ hoành, tách biệt phổi với các cơ quan khác trong bụng. Nếu cơ hoành không phát triển bình thường thì bé thường chết lúc sinh ra vì không thể thở được. Để điều chỉnh cơ hoành bất thường, trong tháng thứ 7 hay 8 của thai kỳ, bác sĩ phẫu thuật cắt thành bụng của người mẹ để lấy thai, sau đó qua thành bụng của thai, điều chỉnh cơ hoành và đưa thai trở vào tử cung (Kolata, 1990). Phẫu thuật cũng được dùng để điều chỉnh một số khuyết tật ở tim và bí đường tiểu (Ohlendorf-Moffat, 1992).

VẤN ĐỀ CẦN SUY NGHĨHãy tưởng tượng bạn 42 tuổi, đang có mang. Bạn có muốn chọc màng ối qua bụng và lấy mẫu nhung mao màng đệm để xác định kiểu gien của thai hay không? Tại sao muốn hoặc tại sao không? Tuy nhiên một tiếp cận khác là kỹ thuật gien trong đó gien khuyết tật được thay thế bằng gien tổng hợp bình thường. Hãy lấy PKU làm minh họa. Nên nhớ rằng nếu đứa bé thừa hưởng gien tương ứng lặn đối với PKU từ cả hai bố mẹ, thì độc tố làm tăng khả năng giảm thiểu trí năng. Theo lý thuyết, có thể lấy mẫu tế bào từ thai, cắt bỏ gien lặn và thay bằng gien trội. Những tế bào "được điều chỉnh" này sau đó được đưa vào thai, ở đây tế bào sẽ sinh sôi nảy nở và tạo ra đủ enzyme để phân hủy phenylalanine, vì thế tránh được PKU (Verma, 1990).

Việc áp dụng quan điểm này vào thực tế rất khó, có nhiều vấn đề cần phải giải quyết (Marshall, 1995). Tuy nhiên, liệu pháp gien thành công trong một vài trường hợp. Trong một trường hợp, một bé gái trước độ tuổi đi học bị bệnh di truyền ở hệ miễn dịch khiến cô bé không đề kháng được, dễ bị nhiễm trùng. Bác sĩ cắt bỏ một số tế bào của bé gái và cấy gien miễn dịch vào đấy. Sau đó tế bào được tiêm vào mạch máu cô bé giúp cô tránh bị nhiễm trùng.

Những kỹ thuật này mang tính thí nghiệm nên thường gặp thất bại. Tuy nhiên, lĩnh vực y học này đang tiến bộ rất nhanh, và điều trị trước khi sinh sẽ phổ biến hơn trong thế kỷ 21.

Trả lời các câu hỏi của Chloe. Lúc này bạn có thể trở lại các câu hỏi của Chloe trong phần minh họa đầu phần này (trang 89) và trả lời giúp cô. Nếu bạn không chắc chắn, hãy đọc các trang sau trong chương này để tìm câu trả lời:

- Về màn hình máy tính - trang 93

- Về uống rượu ban đêm - trang 91

- Về sinh con bị giảm thiểu trí năng - trang 98

TỰ KIỂM TRA

1. Yếu tố rủi ro chung bao gồm độ tuổi bố mẹ, mẹ, … và stress ở người mẹ.

2. … là một số tác nhân gây quái thai nguy hiểm nhất vì thai phụ thường không biết sự có mặt của chúng.

3. Trong giai đoạn hợp tử, tiếp xúc với tác nhân gây quái thai thường dẫn đến …

4. Hai kỹ thuật dùng để xác định liệu thai có rối loạn di truyền hay không là chọc màng ối qua bụng và …

5. Hãy chọn 3 tác nhân gây quái thai từ các tác nhân gây quái thai được mô tả ở trang 90 - 95: một tượng trưng ảnh hưởng phân cấp theo độ tuổi qui phạm đối với sự phát triển, một tượng trưng ảnh hưởng phân cấp theo lịch sử qui phạm, một tượng trưng ảnh hưởng không qui phạm.

Trả lời: (1) chế độ dinh dưỡng của thai phụ, (2) nguy hiểm từ môi trường, (3) sẩy thai tự phát của trứng đã thụ tinh, (4) lấy mẫu nhung mao màng đệm.


IV. ĐAU ĐẺ VÀ SINH CON

NGHIÊN CỨU VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Phần 1. SỰ PHÁT TRIỂN TRƯỚC KHI SINH, THỜI ẴM NGỬA VÀ ĐẦU TUỔI THƠ ẤU

Chương 2. CƠ SỞ SINH HỌC


Mục tiêu nghiên cứu

- Các giai đoạn đẻ và sổ nhau khác nhau là gì?

- Cách giải quyết đau đẻ "tự nhiên" là gì? Sinh con ở nhà có an toàn không?

- Một số biến chứng nào có thể xảy ra trong khi sinh?



Đau đẻ và sinh con

- Các giai đoạn đau đẻ

- Tiếp cận sự sinh con

- Các biến chứng khi sinh

- Tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh

MARLEA sắp bắt đầu học lớp dành cho các bà mẹ chuẩn bị sinh con. Cô thấy nhẹ người khi sau cùng lớp học cũng mở được vì điều này có nghĩa thời kỳ mang thai của mình sắp kết thúc. Nhưng tất cả câu chuyện cô nghe nói về "bài tập thở" và "huấn luyện viên" đối với cô có vẻ khá ngớ ngẩn. Marlea chỉ thích không biết gì trong lúc sinh và tỉnh dậy thì mọi việc đã đâu vào đấy.

Đối với phụ nữ như Marlea ở cuối giai đoạn thai kỳ, họ nhận thấy rất khó ngủ và khó thở, mau mệt, bị táo bón, chân và bàn chân sưng vù. Phụ nữ trông cho đến ngày sinh, để mất đi sự khó chịu và dĩ nhiên để thấy mặt con mình. Trong phần này, bạn sẽ hiểu được các bước khác nhau trong khi sinh, ôn lại các tiếp cận khác nhau khi sinh con và nghiên cứu vấn đề có thể phát sinh. Đồng thời, chúng ta tìm hiểu các lớp giống như lớp Marlea tham dự và bài tập cô đã học.

CÁC GIAI ĐOẠN ĐAU ĐẺ

Đau đẻ là tên gọi sự sinh con, vốn là một nỗ lực căng thẳng và kéo dài nhất của cơ thể mà con người phải trải qua. Đau đẻ thường chia thành 3 giai đoạn trong sơ đồ (trang 101).

- Trong giai đoạn 1, kéo dài từ 12 đến 24 tiếng đối với lần sinh con so, tử cung bắt đầu co thắt. Sự co thắt đầu tiên yếu và không đều. Dần dần, co thắt mạnh hơn, có nhịp điệu hơn, mở rộng cổ tử cung (đường thông từ tử cung đến âm đạo) khoảng 10 cm.

- Trong giai đoạn 2, bé đi qua cổ tử cung vào trong âm đạo. Người mẹ đẩy bé đi dọc theo âm đạo bằng cách co thắt cơ bụng. Ngay sau khi thấy phần đầu của bé, một sự kiện gọi là chóp đầu xuất hiện. Bé được sinh ra trong vòng 1 tiếng.

- Trong giai đoạn 3, kéo dài chỉ 1 phút, người mẹ rặn thêm 1 vài lần nữa để sổ nhau.

Thời gian trong mỗi giai đoạn chỉ phỏng chừng, thời gian thực tế ở mỗi phụ nữ mỗi khác. Đối với hầu hết phụ nữ, đau đẻ khi sinh con thứ 2 và con rạ nhanh hơn nhiều. Giai đoạn 1 kéo dài 4 - 6 tiếng, giai đoạn 2 ngắn trong vòng 20 phút.



TIẾP CẬN SỰ SINH CON

Khi các tác giả quyển sách này ra đời vào thập niên 1950, phụ nữ trong giai đoạn đau đẻ phải nhập viện và được gây mê. Các ông bố lo lắng chờ đợi ở phòng kế bên để chờ tin. Tuy nhiên, từ thập niên 1960, nhiều người cố gắng tiếp cận sự sinh nở "tự nhiên" hoặc chuẩn bị nhiều hơn trong đó đau đẻ và sổ nhau được xem là các sự kiện quan trọng trong đời, chứ không phải quá trình phải chịu đựng. Tiếp cận chuẩn bị sinh nở bao gồm nhiều yếu tố, nhưng một trong những điểm cơ bản là suy nghĩ cho rằng sinh nở không có vấn đề và đáng được tưởng thưởng khi các ông bố, bà mẹ hiểu rõ điều gì đang diễn ra trong khi mang thai, đau đẻ và sổ nhau. Do đó, sinh đẻ có chuẩn bị có nghĩa là phải tham dự các lớp học trong đó cá nhân học những điều cơ bản về mang thai và sinh con (không phải không giống nội dung trình bày trong chương này).

Các lớp sinh con cũng dành nhiều thời gian để hướng dẫn phụ nữ cách giải quyết khi đau đẻ. Người ta khuyên nên áp dụng phương pháp tự nhiên để giảm đau hơn là dùng thuốc. Tại sao? Gây mê tổng quát (làm cho phụ nữ bất tỉnh) hoặc gây mê cục bộ (làm nửa thân dưới tê cóng) ngăn không cho phụ nữ dùng cơ bụng để giúp đẩy bé đi qua đường sinh. Không có động tác đẩy này, bác sĩ sản khoa đôi khi phải dùng đến các công cụ cơ học để kéo bé qua đường sinh, tạo rủi ro đối với bé (Johanson và người khác, 1993). Thuốc làm giảm đau sẽ thấm vào nhau ảnh hưởng đến bé. Do đó, khi phụ nữ uống thuốc giảm đau liều lớn thì đứa con sinh ra con thường lãnh đạm hoặc cáu kỉnh trong nhiều ngày hay thậm chí cả tuần (Brazelton, Nugent, & Lester, 1987; Emory, ScWackman, & Fiano, 1996). Những ảnh hưởng này mang tính nhất thời. Tuy nhiên, chúng làm cho bà mẹ có ấn tượng rằng mình sinh con khó tính. Những vấn đề này làm cho việc bớt uống thuốc giảm đau trong khi sinh trở nên quan trọng.

Các lớp dành cho bà mẹ chuẩn bị sinh con nhấn mạnh 3 chiến lược liên quan để khắc phục đau đẻ không phải dùng thuốc. Một chiến lược dựa trên thực tế cơn đau thường cảm thấy nặng hơn khi người ta căng thẳng. Do đó, thai phụ học cách thư giãn trong khi đau đẻ, chẳng hạn như kỹ thuật thở sâu. Tiếp cận thứ 2 bao gồm tưởng tượng hình ảnh. Bất kỳ khi nào bắt đầu cảm thấy đau trong khi đau đẻ, thai phụ nên nghĩ đến hình ảnh này thay vì nghĩ đến cơn đau. Một yếu tố thứ 3 là "huấn luyện viên" hỗ trợ. Ông bố tương lai, người thân hoặc bạn thân tham dự lớp dành cho bà mẹ chuẩn bị sinh con cùng với bà mẹ tương lai. Huấn luyện viên học kỹ thuật đối phó cơn đau, giống như người đàn ông trong ảnh (bên dưới), thực hành kỹ thuật ở thai phụ. Trong khi đau đẻ và sổ nhau, huấn luyện viên giúp thai phụ sử dụng những kỹ thuật này, cũng như hỗ trợ và động viên.

Mặc dù Marlea, thai phụ trong minh họa tỏ ý không tin các lớp này, nhưng nghiên cứu cho thấy rất có ích (Hetherington, 1990). Mặc dù hầu hết các bà mẹ tham gia lớp học uống thuốc giảm đau nhưng họ thường uống ít hơn các bà mẹ không tham gia lớp học. Bà mẹ và ông bố tham gia lớp học có suy nghĩ tích cực hơn đối với đau đẻ và sinh con so với ông bố và bà mẹ không tham gia lớp học.

Một yếu tố khác của khuynh hướng sinh con tự nhiên là quan điểm cho rằng sinh con không cần phải vào bệnh viện. Hầu như tất cả em bé ở Mỹ đều sinh ở bệnh viện - chỉ 1% sinh ở nhà. Tuy nhiên, sinh con ở nhà là chuyện thông thường ở châu Âu. Ở Hà Lan chẳng hạn khoảng 1/3 trẻ sơ sinh sinh ở nhà. Người ta cho rằng sinh ở nhà ít tốn kém hơn, hầu hết phụ nữ cảm thấy dễ chịu hơn khi đau đẻ ở nhà. Người ta cũng nêu rõ nhiều phụ nữ muốn có sự tự chủ nhiều hơn đối với đau đẻ và sinh con khi sinh ở nhà. Một chuyên gia chăm sóc y tế có mặt tại nhà trong khi đau đẻ và sổ nhau. Đôi khi mời bác sĩ nhưng người ta thường mời bà đỡ đã qua trường lớp như trong ảnh (trang 103).

Đối với người Mỹ đã quen với việc sinh con trong bệnh viện, thì việc sinh con ở nhà trông có vẻ quá rủi ro. Sinh con ở nhà có an toàn không? Có, nhưng phải thật thận trọng. Trẻ sinh ở nhà gặp vấn đề khi sinh cũng giống như trẻ sinh ở bệnh viện, nhưng chỉ khi nào người mẹ khỏe mạnh, lúc mang thai không có vấn đề, thì đau đẻ và sổ nhau mới được xem là an toàn, và phải có nhân viên chăm sóc y tế phụ giúp (Rooks và người khác, 1989). Nếu có lý do bất kỳ để nghĩ rằng đau đẻ và sổ nhau gặp rắc rối cần phải có sự giúp đỡ của nhân viên y tế thì nên sinh con ở bệnh viện chứ không nên sinh ở nhà.

Phụ nữ Mỹ do dự khi sinh con ở nhà có thể chuyển sang các trung tâm bảo sanh. Những trung tâm này thường là của tư nhân không dính dáng với bệnh viện. Một phụ nữ, huấn luyện, và các thành viên khác trong gia đình cùng bạn bè được phân công phụ trách một phòng sinh thường được trang trí giống như ở nhà. Một bác sĩ hoặc bà đỡ kiêm điều dưỡng hỗ trợ lúc đau đẻ và sổ nhau, diễn ra hoàn toàn trong phòng sinh, nơi đây tất cả mọi người có thể quan sát. Giống như sinh con ở nhà, trung tâm bảo sanh là nơi tốt nhất cho việc sinh nở không gặp rắc rối.



CÁC BIẾN CHỨNG KHI SINH

Sinh nở đòi hỏi trẻ sơ sinh phải nhanh chóng thích nghi với môi trường mới ngoài tử cung ra. Thở là điều quan trọng nhất trong nhiều thay đổi mà trẻ sơ sinh thường gặp. Trong khoảnh khắc sau khi sinh, trẻ sơ sinh phải lấy oxy từ phổi của chính mình thay vì lấy từ máu do mẹ cung cấp qua nhau. Nếu dây rốn nối bé với nhau bị kẹp hay rối trong khi sinh hoặc nếu phổi của trẻ sơ sinh không phản ứng tốt thì kết quả là thiếu oxy. Thiếu oxy, tế bào bắt đầu chết, nhất là tế bào não. Thiếu oxy nghiêm trọng gây ra giảm thiểu trí năng và liệt não (Apgar & Beck, 1974).

Vấn đề cũng phát sinh khi bé sinh ra quá sớm hoặc quá nhỏ. Thông thường, bé phải phát triển 38 tuần trước khi ra đời. Bé sinh ra trước tuần thứ 36 được gọi là sinh non. Trong khoảng năm đầu tiên, trẻ sinh non thường phát triển chậm hơn trẻ sinh đủ tháng trong nhiều khía cạnh phát triển. Tuy nhiên, vào khoảng 2 hoặc 3 tuổi, những khác biệt như thế biến mất, hầu hết trẻ sinh non đều phát triển bình thường (Greenberg & Crnic, 1988).

Tương lai thường không sáng sủa đối với đứa bé sinh "thiếu cân". Mặc dù được sinh ra sau một kỳ trong mang thai có độ dài bình thường, những bé này đều nhỏ hơn bình thường rất nhiều, thường là do chế độ dinh dưỡng của người mẹ không thích hợp hoặc do nhiễm trùng bẩm sinh (Alien, 1984). Trẻ sơ sinh cân nặng 2.500 gram (5,5 cân Anh) trở xuống được xem là trọng lượng sinh thấp, trẻ sơ sinh cân nặng dưới 1.500 gram (3,3 cân Anh) được xem là trọng lượng sinh rất thấp và trẻ sơ sinh cân nặng chưa đến 1.000 gram (2,2 cân Anh) được xem là trọng lượng sinh cực thấp.

Trẻ sơ sinh có trọng lượng sinh rất thấp hoặc cực thấp đều không sống lâu. Phần lớn không tồn tại được, số trẻ như này thường kém số trẻ khác trong sự phát triển kỹ năng vận động và trí tuệ (Sykes và người khác, 1997; Ventura và người khác, 1994). Tỷ lệ tốt hơn đối với trẻ sơ sinh cân nặng hơn 1.500 gram. Hầu hết đều sống sót. Một số cháu phát triển bình thường, những số khác luôn phát triển rất chậm. Tại sao? Phần Tác động hiện hành cung cấp một số manh mối.

VẤN ĐỀ CẦN SUY NGHĨMột người bạn của bạn sinh non em bé trước 6 tuần. Bé có kích thước trung bình của bé sinh non và trông có vẻ khỏe mạnh nhưng người bạn vẫn lo ngại. Bạn trấn an bạn mình như thế nào?  TÁC ĐỘNG HIỆN HÀNH: CÁI GÌ QUYẾT ĐỊNH CÁC KẾT QUẢ ĐỜI SỐNG CỦA BÉ SINH THIẾU CÂN?

Tại sao một số trẻ sơ sinh trọng lượng sinh thấp phục hồi hoàn toàn nhưng số đứa trẻ khác thì không? Tác động sinh học không phải là yếu tố duy nhất quyết định liệu trẻ sơ sinh trọng lượng sinh thấp có sống được hay không. Tác động văn hóa xã hội mang tính quyết định: trẻ sơ sinh trọng lượng sinh thấp sống được nếu được chăm sóc y tế tốt và môi trường gia đình mang tính hỗ trợ và kích thích. Thật không may, không phải trẻ sơ sinh trọng lượng sinh thấp nào cũng có kinh nghiệm tối ưu. Nhiều trẻ không được chăm sóc y tế phù hợp vì gia đình nghèo, số khác bị căng thẳng và rối loạn trong đời sống gia đình. Đối với những trẻ sơ sinh trọng lượng sinh thấp này, sự phát triển thường chậm và đôi khi chết yểu.

Ý nghĩa quan trọng của một môi trường hỗ trợ đối với trẻ sơ sinh thiếu cân được nhấn mạnh qua kết quả của một nghiên cứu theo chiều dọc của Werner (1989), bao gồm tất cả trẻ em sinh ra ở đảo Kauai, Hawaii trong năm 1955. Khi đứa trẻ sinh thiếu cân trưởng thành trong gia đình ổn định - được định nghĩa có mặt của 2 bố mẹ tâm thần khỏe mạnh trong suốt thời thơ ấu của đứa trẻ - đứa trẻ không thể phân biệt với số trẻ khác sinh ra không bị biến chứng khi sinh. Tuy nhiên, khi đứa trẻ sinh thiếu cân sống trong một môi trường gia đình bất ổn - được định nghĩa có sự ly hôn, bố mẹ nghiện rượu, hoặc mắc bệnh tâm thần - thì trẻ chậm hơn bạn đồng tuổi trong sự phát triển trí tuệ và xã hội.

Vì thế, khi tác động Sinh học và văn hóa xã hội đều có hại - trọng lượng sinh thấp cộng với chăm sóc y tế không phù hợp hoặc căng thẳng trong gia đình - thì dự đoán đối với trẻ không mấy tốt lành. Thông điệp gởi đến bố mẹ của trẻ sơ sinh trọng lượng sinh thấp rất rõ: đừng tuyệt vọng vì chăm sóc tốt có thể bù đắp cho tất cả những vấn đề nghiêm trọng khi sinh (Werner & Smith, 1992; Werner, 1994).



TỈ LỆ TỬ VONG Ở TRẺ SƠ SINH

Trong nhiều khía cạnh, phương tiện chăm sóc y tế ở Mỹ tốt nhất trên thế giới. Tuy nhiên, trẻ sơ sinh Mỹ không khỏe mạnh so với trẻ sơ sinh ở các nước khác. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh là số lượng trẻ tuổi ẵm ngửa chết trước khi tròn 1 tuổi trong số 1.000 trẻ sinh ra. Ở Mỹ, trong 1.000 thì có 9 - khoảng 1% - sống chưa đến 1 tuổi. Con số này đặt nước Mỹ ở mức thấp nhất trong số các nước công nghiệp hóa trên thế giới như trong biểu đồ (bên trên) (Wegman, 1994).

Tại sao có nhiều trẻ sơ sinh Mỹ chết? Trọng lượng sinh thấp là một phần lời đáp. Mỹ có trẻ sơ sinh trọng lượng sinh thấp nhiều hơn các nước khác liệt kê trong biểu đồ, chúng ta cũng biết trọng lượng sinh thấp khiến trẻ sơ sinh gặp nhiều rủi ro. Có thể phòng tránh trọng lượng sinh thấp khi thai phụ khám thai định kỳ, nhưng nhiều phụ nữ mang thai ở Mỹ không được chăm sóc thích hợp trước khi sinh. Hầu như các nước đều vượt xa Mỹ trong việc chăm sóc trước khi sinh, các nước ấy thu phí rất ít hoặc miễn phí. Ngoài ra, phần lớn các nước này cho phụ nữ có mang nghỉ việc nhưng vẫn hưởng lương (Kamerman, 1993).

Sự phát triển trước khi sinh là cơ sở của mọi phát triển và chỉ bằng cách khám thai định kỳ chúng ta mới biết được cơ sở này được hình thành đúng hay không. Phụ nữ mang thai và đứa con trong bụng mẹ cần sự chăm sóc này.



TỰ KIỂM TRA

1. Trong giai đoạn đau đẻ thứ ba, … sổ.

2. Hai vấn đề trong việc sử dụng thuốc mê trong khi đau đẻ là khi một phụ nữ không thể sử dụng cơ bụng của mình để giúp đẩy bé xuống đường sinh và …

3. Sinh con ở nhà an toàn khi thai phụ khỏe mạnh, trong thai kỳ không gặp vấn đề, không có vấn đề trong khi sinh, và …

4. Khi sự cung cấp oxy đối với thai bị gián đoạn vì cuống rốn bị xoắn sẽ tạo ra …

5. Nghiên cứu ảnh hưởng lâu dài của việc sinh non và trọng lượng sinh thấp có phải là chứng cứ cho sự liên tục phát triển và gián đoạn hay không? Tại sao?

Trả lời: (1) nhau, (2) thuốc giảm đau thấm qua nhau và ảnh hưởng đến bé, (3) khi nhân viên chăm sóc y tế qua trường lớp có mặt, (4) thiếu oxy.

KẾT HỢP TẤT CẢ LẠI VỚI NHAU

Chương này bắt đầu bằng sự thụ thai, đề cập 38 tuần phát triển trước khi sinh, và kết thúc bằng sự sinh nở. Bạn hiểu được tác động đáng kể của sự sắp xếp của gien diễn ra lúc thụ thai. Đôi khi gien đơn ảnh hưởng đến sự phát triển như trong trường hợp bệnh tế bào hình liềm làm Leslie hốt hoảng. Thông thường hơn, nhiều gien kết hợp với nhau ảnh hưởng đến sự phát triển, với kết quả phụ thuộc vào tác động của môi trường. Bạn hiểu rằng cấu trúc và quá trình bộc lộ trong một chuỗi có thể dự đoán được trong sự phát triển trước khi sinh và kiến thức này trả lời một số câu hỏi về sự mang thai của Eun Jung. Bạn cũng biết được sự phát triển trước khi sinh đôi khi khủng khiếp ra sao và lý do sử dụng thông tin này để giải quyết mối quan ngại của Chloe về việc sức khỏe và hành vi của cô có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của con mình ra sao. Sau cùng, bạn tìm hiểu đau đẻ và sổ nhau, bao gồm một số thuận lợi của việc sinh con có chuẩn bị chẳng hạn như Marlea từng làm.

Chương này dài hơn hầu hết các chương khác trong sách này, nhấn mạnh yếu tố Sinh học trong khuôn khổ Tâm sinh học xã hội. Tuy nhiên, thậm chí ở đây, tác động Sinh học không hoạt động riêng biệt mà hoạt động trong sự tương tác với các yếu tố khác trong khuôn khổ. Sự phát triển trước khi sinh ảnh hưởng đến sự kiện được lập trình về mặt Sinh học cùng với tác động môi trường đối với thai.

Sự phát triển mà chúng ta theo dõi trong chương này là phần mở đầu cho phần xây dựng trên chủ đề được hình thành còn lại của sự phát triển của con người trong phần mở đầu như chúng ta sẽ thấy trong suốt cuộc đời. Mỗi giai đoạn kế tiếp trong chương sau đề cập tuổi ẵm ngửa.



Каталог: sachviet -> Y-Hoc-Tong-Hop


Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   72




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương