Kinh tế việt nam năM 2014: TỔng quan vĩ MÔ


III. Xây dựng thể chế tổ chức



tải về 3.48 Mb.
trang38/47
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích3.48 Mb.
#1943
1   ...   34   35   36   37   38   39   40   41   ...   47

III. Xây dựng thể chế tổ chức

Chúng ta hãy tiếp tục ví dụ của Toyota tại Việt nam, TMV, để minh họa về vấn đề thể chế tổ chức, vấn đề cấp giấy phép đầu tư kinh doanh, vấn đề kiểm tra, giám sát và thu thuế doanh nghiệp.

Hãy nhìn sâu hơn vào nỗ lực nâng tỷ lệ nội địa hóa hàng xuất khẩu của Toyota tại Việt nam, TMV. Như đã nêu, có mối lợi tiềm tàng cho Toyota Việt nam trong việc tăng tỷ lệ nội địa hóa hàng xuất khẩu của nó. Đó là khả năng giảm được giá thành sản phẩm, nếu tăng được tỷ lệ nội địa hóa, thay vì phải nhập khẩu linh kiện từ các nước có tiền lương công nhân cao hơn, rồi chỉ lắp ráp ở khâu cuối cùng, mà nó tạo ra rất ít thặng dư từ xuất khẩu. Mặt khác, các nhà sản xuất linh kiện, vật tư nội địa cũng có lợi khi được tham dự vào hệ thống sản xuất – cung ứng theo đúng chuẩn mực quốc tế của tập đoàn Toyota. Tức là sản phẩm của họ vươn ra được thị trường quốc tế. Như đã gợi ý, tình huống win – win như vậy, không chỉ phụ thuộc vào quan hệ giữa Toyota Việt nam với các nhà sản xuất linh kiện, vật tư nội địa, mà còn phụ thuộc vào môi trường pháp lý, mà các hợp đồng kinh doanh như vậy được tiến hành.

Như đã nói, để có thể tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm đem ra xuất khẩu, như van tuần hoàn xả khí, Toyota tại Việt nam, TMV, cần phải làm một số đầu tư đặc biệt về máy móc, công nghệ, và đào tạo lại tay nghề cho công nhân sở tại. Nếu tính đến việc nâng cao năng suất và hiệu quả của các doanh nghiệp nội địa, thì lợi nhuận xuất khẩu sẽ đạt mức đủ cao, đủ để bù đắp cho những phí tổn đầu tư mà Toyota Việt nam cần bỏ ra. Xem ra, đây là một thỏa thuận hết sức có lợi cho tất cả các bên.

Tuy nhiên, nếu tính đến sự tham gia của chính quyền sở tại vào các khâu tổ chức và pháp lý, như cấp giấy phép kinh doanh, sản xuất, cung cấp năng lượng, và chính sách kiểm tra, giam sát và thu thuế, thì kết cục đó không phải lúc nào cũng khả thi.

Để dễ hình dung, chúng ta hãy đơn giản hóa thực tế, và xét mục tiêu chính của nhà nước là tăng cao nhất nguồn thu thuế cho ngân sách (Địa phương, Trung ương). Khi mà hợp đồng kinh doanh giữa Toyota Việt nam và các nhà sản xuất linh kiện vật tư nội địa tạo ra sự gia tăng về xuất khẩu, thì điều đó cũng có nghĩa là tăng nguồn thu thuế. Trên thực tế, bộ máy tổ chức các cấp có thể có 2 cách ứng xử chính như sau:

Thứ nhất, nó có thể thực hiện các chính sách hỗ trợ khuyến khích việc phát triển công nghiệp sản xuất linh kiện nội địa. Cụ thể là giảm các thủ tục rườm rà, dễ dàng hóa việc doanh nghiệp tiếp cận vốn vay, hoặc nguồn cung năng lượng. Việc này sẽ tạo ra một tiến trình chuẩn hóa dần về thủ tục hành chính theo các chuẩn mực tiến bộ hơn, giống như ở các nền kinh tế phát triển hơn ở Đông nam Á. Điều đó cho phép các quan hệ hợp đồng giữa các tập đoàn xuyên quốc gia và các doanh nghiệp trong nước dễ dàng được tiến hành hơn. Chính phủ cũng có thể giảm suất thuế đánh vào doanh thu hay lợi nhuận doanh nghiệp, một khi hợp tác kinh doanh làm tăng xuất khẩu, tức là làm tăng diện thu thuế. Đây là điều mà chúng ta đã nêu ở phần trên, về gợi ý chính sách. Và đó cũng là một trong các vai trò hỗ trợ thị trường cả các Chính phủ tại các nền kinh tế phát triển nhanh ở Đông Nam Á.

Thứ hai, bộ máy tổ chức các cấp có thể chèn ép (holdup) doanh nghiệp. Vấn đề là khi Toyota Việt nam đã đầu tư về máy móc thiết bị và tiến hành đào tạo tay nghề cho công nhân, thì nó khó có thể rút vốn ra khỏi địa phương mà nó đã đầu tư. Tức là nó bị phụ thuộc vào các thủ tục hành chính về quản lý đầu tư – kinh doanh tại địa phương. Nó phụ thuộc vào chính sách giá cung cấp năng lượng tại địa phương. Và nó cũng phụ thuộc vào các quy định về thanh tra, giám sát và đánh thuế của cơ quan sở tại. Nếu thủ tục hành chính quá rườm rà; hoặc doanh nghiệp dễ bị chèn ép về giá cả cung cấp năng lượng; hoặc chính sách thuế không khuyến khích, hay quá cao tới mức, doanh thu sau thuế chỉ đủ bù cho hoạt động của các cơ sở sản xuất linh kiện cho Toyota, nhưng không còn đủ để trả cho chi phí đầu tư về máy móc và huấn luyện tay nghề cho công nhân, thì Toyota sẽ ở vào tình trạng hết sức bất lợi. Nhưng nếu nhìn thấy trước như vậy, thì dĩ nhiên Toyota Việt nam sẽ không đầu tư nhằm làm tăng tỷ lệ nội địa hóa hàng xuất khẩu. Mà chỉ dừng lại ở việc nhập linh kiện và lắp ráp và bảo trì cho một thị trường nội địa còn rất nhỏ hẹp. Và vì vậy, Toyota chỉ sử dụng một số lượng giới hạn công nhân có tay nghề thấp với tiền lương rẻ mạt. Tức là không có sự phát triển hiệu quả theo quy mô (economies of scale).

Như vậy, chúng ta thấy xuất hiện 2 kết cục, hay 2 thể chế, hay thông tục (convention) khác nhau: Nếu hệ thống tổ chức hành chính – luật lệ là khuyến khích, hỗ trợ quá trình phát triển các ngành công nghiệp sản xuất linh kiện – phụ trợ nội địa, thì số lượng việc làm có tay nghề cao và thu nhập sẽ tăng, xuất khẩu sẽ tăng, thu ngoại tệ và ngân sách cũng sẽ tăng. Lý do là các tập đoàn xuyên quốc gia như Toyota tìm cách tăng đầu tư công nghệ và đào tạo tay nghề, để thay thế nhập khẩu linh kiện từ các quốc gia có chi phí tiền lương cao hơn rất nhiều so với Việt nam. Trong tiến trình này, các thể chế về tổ chức, khung pháp lý, quy tắc kế toán, kiểm toán, giám sát, và luật thuế dần được chuẩn hóa theo chuẩn mực quốc tế và khu vực, cho phép kích thích mạnh hơn nữa các dòng vốn FDI, và các dòng công nghệ, kỹ năng tổ chức mới chảy vào hay lan vào Việt nam. Và sự tăng trưởng thần kỳ ở Đông nam Á có thể được lặp lại ngay tại Việt nam.

Ngược lại, nếu rủi ro các doanh nghiệp bị chèn ép bởi thủ tục hành chính quá rườm rà và chậm chạp; dễ bị ép giá về các nguồn cung hạ tầng thiết yếu như năng lượng; hoặc dễ bị nhũng nhiễu bởi có quá nhiều đoàn kiểm tra, với các khoản phí, phạt bổ sung, thì nỗ lực đầu tư, tăng tỷ lệ nội địa hóa hàng xuất khẩu của các công ty đa quốc gia như Toyota sẽ bị bào mòn. Nhiều công ty, cả trong và ngoài nước, sẽ phải nhập linh kiện nhập khẩu nhiều hơn cho việc sử dụng nhân công trình độ thấp, tiền lương rẻ, để lắp ráp thành phẩm. Và vì phải nhập khẩu nhiều (tới 90% linh kiện trong rất nhiều ngành, kể cả may mặc), thì việc trốn thuế thông qua giá chuyển nhượng (transfer pricing) trở thành một thông lệ của các công ty. Điều đó lại khiến cho các cấp chính quyền có động cơ tăng thêm các cuộc kiểm tra, tăng thêm các thủ tục hành chính rườm rà, đặt ra các quy định ngặt nghèo, không phù hợp thực tế. Tức là làm tăng khả năng vi phạm quy định và “lệ làng”, cho phép tăng các khoản phí, phạt đối với các doanh nghiệp. Như vậy, môi trường thể chế bất lợi cho đầu tư kinh doanh bị khép trong một vòng luẩn quẩn không có lối thoát.

Môi trường kinh doanh với thể chế tổ chức tồi có xu hướng tăng nhũng nhiễu từ phía cơ quan chức năng, tăng các khoản phí, phạt, và tăng các sắc thuế. Vì vậy, nó cũng làm tăng việc trốn thuế, hoặc hối lộ để tránh nộp thuế, hay để lách luật.... Đây không chỉ là một thực tế ở Việt nam. Một nghiên cứu ở các nước đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường ở Liên xô cũ và Đông Âu vào những năm cuối của thập kỷ 90 cho thấy như sau. Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ ở Nga và Ucraina phải trả tiền bôi trơn cho dịch vụ đăng ký kinh doanh, cứu hỏa, vệ sinh an toàn, và giám sát về thuế. Ở Balan, Rumania, Slovakia, tỷ lệ các doanh nghiệp phải làm các khoản chi bôi trơn như vậy là vào khoảng 40%. Ở Tỉnh Liêu ninh, Trung quốc, vào các năm 90, phí và các khoản thu bổ trợ đánh vào các doanh nghiệp nhỏ cao tới mức, nếu phải nộp hết các khoản phí đó, thì doanh nghiệp không còn đủ lãi để hoạt động.

Có một quy luật chung là, môi trường thể chế tổ chức càng tồi, thì doanh nghiêp càng dễ chịu rủi ro vì nạn tham nhũng. Và việc phải chi cho hối lộ, tham nhũng, làm giảm ý định đầu tư của doanh nghiệp. Tham nhũng là một trong những yếu tố quan trọng nhất làm tăng chí phí sản xuất, làm giảm sức cạnh tranh của các nền kinh tế thuộc Liên xô cũ sau cải cách.

Theo những phân tích so sánh đa quốc gia, sử dụng chỉ số tham nhũng (corruption indexes), và thu nhập quốc gia (national – income) và đầu tư, các chuyên gia nhận thấy, nước nào có chỉ số tham nhũng càng tồi, thì tỷ lệ đầu tư càng giảm. Họ đo lường mức độ tham nhũng theo thang bậc từ zero đến 10, với chỉ số 10 tức là nước đó hoàn toàn không có tham nhũng. Các chuyên gia, sử dụng phương pháp đo lường kinh tế (econometrics), đã rút ra kết luận là: nếu có sự cải thiện về môi trường đầu tư – kinh doanh, cụ thể là nếu chỉ số tham nhũng cải thiện 4%, thì điều đó đẩy tốc độ tăng trưởng lên hơn 0.5%. Ví dụ, Ấn độ có chỉ số tham nhũng là 3.3, và Ý (Itali) có chỉ số tham nhũng là 7.3. Kết quả phân tích thống kê chỉ ra rằng, nếu Ấn đô cải thiện chỉ số tham nhũng lên ngang bằng với Itali, thì tăng trưởng của Ấn độ sẽ tăng trưởng với nhịp độ 6% , hơn là chỉ có 5% như thực tế của nó vào các năm của thập kỷ 1990.

Việc đưa ra các chỉ số xếp hạng, kiểu như chỉ số tham nhũng, mà các tổ chức như WB hay làm, có thể cho phép đánh giá ở một mức độ nào đó môi trường đầu tư – kinh doanh. Và vì vậy, các chỉ số hay việc xếp hạng đó dĩ nhiên ảnh hưởng đến tâm lý các nhà đầu tư và quyết định đầu tư của họ. Do đó, dù cho không thể có một thước đo hoàn toàn chính xác về môi trường đầu tư – kinh doanh, hệ thống các chỉ số đánh giá hay xếp hạng vẫn ảnh hưởng đáng kể đến số lượng và chất lượng đầu tư. Tức là ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng của tăng trưởng; cũng như khả năng duy trì tăng trưởng bền vững; tình trạng nợ công thấp, hoặc khả năng chịu các cú sốc kinh tế từ bên ngoài hay cú sốc địa chính trị, tác động đến nền kinh tế.

Có một điều rõ ràng là sau 25 năm, kể từ thập kỷ 1990, Ucraina ở một mức độ nào đó, nhiều quốc gia thuộc Liên xô cũ, vẫn không thoát khỏi môi trường đầu tư kinh doanh tồi, với nạn tham nhũng lan tràn, và sự kiểm soát nền kinh tế bởi một số ít chùm tài phiệt. Ngược lại, cũng từ cuối thập kỷ 1990, với sự trở lại của Hongkong về Trung quốc, và sự ra đời của một chuỗi các đặc khu, copy mô hình quản trị của Hongkong, Trung quốc đã có những bước nhẩy vọt thần kỳ về kinh tế: Một tiến trình công nghiệp hóa với quy mô lớn nhất và tốc độ nhanh nhất, mà chưa từng được chứng kiến trong lịch sử.

Như vậy, thể chế quản lý – tổ chức tồi có thể tồn tại khá bền vững, bất kể nó kìm hãm sự phát triển của cả một dân tốc, như ở Ucraina. Nhưng một khi có sự chuyển đổi thể chế một cách có tổ chức, có hướng đích, như cải cách tuần tự, song trùng ở Trung quốc, lấy mô hình Hongkong, Singapore, làm chuẩn mực, thì sự thay đổi thể chế, môi trường đầu tư kinh doanh, có thể diễn ra rất nhanh. Sự tăng nhanh các dòng vốn FDI, công nghệ, tổ chức, kết hợp với việc nâng cao trình độ tay nghề của người lao động, đã lý giải cho sự tăng nhanh về xuất khẩu, dự trữ ngoại hối, và tầm ảnh hưởng của nền kinh tế Trung quốc trong thập kỷ vừa qua. Và xu thế đó sẽ tiếp tục trong nhiều thập kỷ sắp tới.

Từ kinh nghiệm của các công ty xuyên quốc gia, như Toyota, cho đến việc copy và nhân rộng Hongkong hay Singapore ở Đại lục Trung hoa qua chuỗi các đặc khu, cho chúng ta thấy rõ một điều: Môi trường đầu tư – kinh doanh là một dạng hàng hóa công (public good). Và việc chuyển đổi thể chế, nhằm thúc đẩy tăng trưởng, khó có thể thực hiện được bằng nỗ lực của từng cá nhân công ty tham gia thị trường. Sự chuyển biến đó về thể chế phải có tổ chức và có định hướng của chính phủ. Tầm nhìn cùa người lãnh đạo, như Lý quang Diệu, Đặng tiểu Bình, có vai trò quyết định cho sự thay đổi thể chế theo hướng tích cực. Tầm nhìn đó đem lại sự phồn thịnh và trường tồn của quốc gia, dù đó là quốc gia lớn như Trung quốc hay nhỏ như quốc đảo Singapore.

IV. Vấn đề về hạ tầng

Việc phát triển hạ tầng ở Việt nam mang nặng tư duy cân đối kế hoạch. Tức là phân bổ nguồn vốn đầu tư dựa trên việc cân đối giữa tổng nguồn lực luôn luôn hạn chế, với tổng cầu về đầu tư hạ tầng của các địa phương và các ngành luôn luôn tăng không giới hạn. Trong cuộc chơi này, các Địa phương, các Bộ ngành và đơn vị có xu hướng nâng càng cao càng tốt đòi hỏi vốn từ Ngân sách Trung ương cấp cho xây dựng cơ bản. Logic đơn giản là, nếu mình không giành được nguồn vốn đó, thì ai đó, địa phương khác, hoặc ngành khác sẽ hưởng. Kế hoạch đầu tư hạ tầng như vậy bị dàn trải. Mỗi địa phương đều có một sân bay, có một cảng nước sâu. Và đầu tư hạ tầng cũng bị méo mó. Có những con đường cao tốc bị bỏ dở dang, các dự án hạ tầng kéo dài, không hoàn thành, với giá thành ngày càng bị đội lên cao hơn, chất lượng công trình trở nên tồi hơn. Thêm vào đó, có những đường cao tốc ở tỉnh không mấy ai qua, những cái cầu đi từ chỗ không có ai sinh sống đến chỗ cũng không có ai. Trong khi nạn ùn tắc ở một số trung tâm, Thành phố lớn là vấn nạn hàng ngày của người dân và các doanh nghiệp. Trong khi đó, ở Trung quốc, từ rất lâu, họ đã phát triển hạ tầng dựa trên tư duy quy hoạch dài hạn và quy hoạch vùng (long term and regional programming).

Để hiểu tư duy quy hoạch trong phát triển hạ tầng từ cấp độ doanh nghiệp, một lần nữa, chúng ta quay lại với sự lựa chọn đầu tư của các công ty xuyên quốc gia, như tập đoàn Toyota.

Như đã nói, khi các tập đoàn xuyên quốc gia đầu tư vào một nền kinh tế mới nổi như Việt nam, họ có hai lựa chọn chính về chiến lược phát triển:

Thứ nhất, chỉ dừng lại ở mức nhập khẩu linh kiện, và sử dụng lao động rẻ, tay nghề thấp, để lắp ráp và sửa chữa các sản phẩm bán tại thị trường nội địa; hay đem ra xuất khẩu. Việc lựa chọn thị trường nội địa hay xuất khẩu đối với sản phẩm lắp ráp tại Việt nam, là tùy thuộc vào sức mua ở thị trường nào cao hơn. Ví dụ, hãng giầy thể thao Adidas có thể thiên hơn về xuất khẩu sang Mỹ, Tây Âu; LG, Samsung, hay Toyota, có thể thiên hơn vào việc cung cấp và bảo trì sản phẩm của hãng bán ra tại thị trường nội địa. Cả hai chiến lược tiêu thụ sản phẩm này đều có cùng một hạn chế: việc nhập khẩu phần lớn linh kiện (khoảng 90%), và chỉ lắp ráp ở khâu cuối cùng đem lại giá trị thặng dư rất thấp, nếu đem xuất khẩu. Và vì vậy, nó lý giải cho việc lắp ráp chỉ sử dụng lao động tại chỗ, kém về kỹ năng, nhưng công việc lắp ráp ít đòi hỏi về đầu tư vốn, công nghệ, chi phí huấn luyện tay nghề; và chi phí tiền lương rất rẻ. Ngược lại, nếu phục vụ nhu cầu thị trường nội địa, như xe hơi, tủ lạnh, máy giặt… thì quy mô thị trường khá là nhỏ bé, so với các nền kinh tế phát triển hơn, như Thailand, Malaysia, hay Indonesia. Vì vậy, thặng dư thương mại cũng rất thấp. Và vì vậy, việc kinh doanh cũng chỉ có thể tồn tại, nếu sử dụng một số lượng giới hạn công nhân có tay nghề thấp, tiền lương rẻ mạt. Trong kinh tế học, chiến lược kinh doanh như vậy, lắp ráp, bảo trì, và xuất khẩu hàng có hàm lượng công nghệ thấp, bị giới hạn bởi cái gọi là thị trường nhỏ hẹp (thin market). Tức là, giá trị thị trường thấp, hoặc thị trường rất nhỏ về quy mô. Và do vậy, sản xuất không thể đạt đến hiệu quả theo quy mô lớn (economies of scale), theo kiểu “phân xưởng của Thế giới”, như ở Trung quốc179.

Thứ hai, các công ty xuyên quốc gia đầu tư vốn, công nghệ, và đào tạo tay nghề nhằm phát triển các ngành công nghiệp sản xuất linh kiện vật tư nội địa, đạt chuẩn mực về chất lượng quốc tế của cả Tập đoàn xuyên quốc gia. Nhưng với giá thành hạ hơn nhiều, so với các nền kinh tế phát triển hơn, có chi phí tiền lương cao hơn. Tức là chiến lược làm tăng tỷ lệ nội địa hóa hàng xuất khẩu. Do đó giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh, tăng thị phần trong thương mại toàn cầu, và do đó, tăng lợi nhuận. Vì hướng về xuất khẩu ra thị trường toàn cầu, nên chiến lược này, về bản chất của nó đã là chiến lược phát triển dựa trên quy mô sản xuất lớn, hay chiến lược tăng hiệu quả theo quy mô (economies of scale). Và nó ngược hẳn lại với chiến lược sử dụng một số giới hạn lao động rẻ, kỹ năng thấp, để hướng tới các thị trường nội địa nhỏ hẹp, hoặc các phân khúc có hàm lượng công nghệ thấp, giá trị gia tăng thấp.

Như đã nêu, vấn đề chọn chiến lược thứ nhất, gia công lắp ráp, hay thứ hai, tăng tỷ lệ nội địa hóa để vươn ra thị trường toàn cầu, là phụ thuộc vào thể chế và hạ tầng tại nước sở tại. Giả sử rằng, giới lãnh đạo có tầm nhìn xa, như Lý quang Diệu hay Đặng tiểu Bình. Những người khởi xướng cho việc cải cách thể chế theo hướng kích thích các công ty xuyên quốc gia đầu tư làm tăng tỷ lệ nội địa hóa hàng xuất khẩu. Khi đó, sẽ có một tiến trình tăng dòng vốn FDI, tăng chuyển giao công nghệ, trình độ tổ chức, và đào tạo tay nghề cho lao động sở tại. Cùng với nó là sự chuẩn hóa dần thể chế quản trị kinh doanh, luật kế toán, kiểm toán và luật thuế, cho phù hợp với thông lệ tại các nước phát triển hơn. Và sự tăng trưởng nhanh sẽ diễn ra một cách bền vững, như tại các con rồng Châu Á vào những năm 1970 của thập kỷ trước, hay Trung quốc gần đây.

Nếu chiến lược phát triển quốc gia đi theo định hướng này, cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, bằng cách tăng quy mô sản xuất linh kiện thiết bị nội địa, thì việc phát triển hạ tầng cần phải được quy hoạch dựa trên chiến lược phát triển dài hạn (long term programming).

Để hiểu rõ hơn chiến lược phát triển hạ tầng này như thế nào, thì cần phải hiều sự “chuyển mình” của nền kinh tế theo chiến lược hướng về xuất khẩu này như thế nào, trong triển vọng dài hạn.

Theo nhà kinh tế được giải thưởng Nobel về thương mại toàn cầu, Paul Krugman, có một quy luật sau trong thương mại quốc tế: Khi các công ty đa quốc gia tiến hành xây dựng hệ thống sản xuất – tiêu thụ toàn cầu, họ phải tính đến hai loại chi phí cơ bản. Thứ nhất là phí tổn sinh ra do sự tăng khoảng cách từ nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ. Bao gồm chi phí vận chuyển, phí tổn gây ra do sự chậm trễ về thời gian giao hàng, hoặc do nơi sản xuất không kịp đáp ứng với những biến động trên thị trường tiêu thụ.... Dĩ nhiên, nơi sản xuất đặt càng gần với nơi tiêu thụ thì dạng chi phí này càng giảm.

Loại phí tổn thứ hai là tiền lương (như chúng ta đã nói). Với cùng một khả năng đáp ứng về chất lượng hàng và thời hạn giao nộp, nơi nào có tiền lương lao động thấp hơn, thì càng hấp dẫn hơn với nhà đầu tư. Chính đòi hỏi về việc giảm hai loại chi phí này tạo nên động thái của các dòng vốn đầu tư trực tiếp. Chúng có tác động tới phân phối thu nhập giữa các quốc gia trao đổi thương mại với nhau; và thậm chí, giữa các khu vực phát triển khác nhau trong cùng một quốc gia.  

Như vậy, việc quy hoạch các cực phát triển phải được đặt ra trong chiến lược xây dựng hạ tầng của quốc gia. (Như Trung quốc, khởi đầu đã xây dựng 4 đặc khu đầu tiên kề sát ngay Hongkong, cửa ngõ ra thị trường Thế giới, và cũng là cửa ngõ, qua đó các dòng vốn, công nghệ, và tổ chức chảy vào đại lục). Và việc quy hoạch phát triển hạ tầng, về dài hạn, phải hướng tới việc lan tỏa quy mô sản xuất lớn tới các khu vực khác nhau của quốc gia. Từ các cực phát triển nhất đến các vùng ngoại biên của nó. Và tiếp đó, từ các vùng phát triển đến các vùng kém phát triển hơn. Khi quy hoạch dài hạn tạo ra sự phát triển lớn hơn về quy mô thị trường, thì cần có sự kết nối giữa các vùng bằng một hệ thống hạ tầng, cho phép giảm chi phí luân chuyển vốn, lao động, hàng hóa giữa các vùng với nhau và với thị trường quốc tế. Điều đó sẽ tạo ra sự phát triển có quy hoạch trên tầm quốc gia.

Logic của việc xây dựng hạ tầng có trọng điểm trong thời kỳ đầu, và hướng tới sự lan tỏa sản xuất – kinh doanh ra vùng ngoại vi và giữa các vùng với nhau là như sau:

Bước đầu tiên là tập trung phát triển hạ tầng tại một số cực phát triển hay đặc khu, gần với các thị trường đang phát triển mạnh tại khu vực. Điều đó đòi hỏi phải được đi kèm với chính sách khuyến khích việc chuyển đổi về thể chế, cho phép quy tắc quản lý tại đặc khu tiệm cận gần đến chuẩn mực quản lý tại các thị trường phát triển của khu vực. Theo Krugman, cũng như từ ví dụ của Toyota, các dòng vốn đầu tư nước ngoài bắt đầu đổ vào đặc khu; tạo nên các khu công nghiệp lắp ráp và sản xuất hàng hóa hàng loạt (mass production). Nhờ đó, một thị trường lớn nhu cầu về các vật tư – thiết bị cho lắp ráp hàng hóa được mở ra. Và vì vậy, các đặc khu kinh tế này cũng trở thành một nơi hết sức hấp dẫn cho các công ty xuyên quốc gia, như Toyota, đầu tư vào thành lập các nhà may sản xuất linh kiện, thiết bị, vật tư. Tức là xu thế làm tăng tỷ lệ nội địa hóa hàng xuất khẩu [Trong kinh tế học, quá trình phát triển như vậy được gọi là “liên kết về phía các đầu vào” (backward linkages)].

Nhưng khi càng xuất hiện nhiều các doanh nghiệp sản xuất thiết bị, vật tư trung gian tại đặc khu kinh tế, thì các nhà sản xuất hàng hóa tại đó càng có nhiều khả năng tiếp cận tới các nguồn vật tư, dịch vụ; do vậy, chi phí trung bình cho việc sản xuất, lắp ráp hàng hóa càng giảm đi. Chính vì vậy, những đặc khu này thu hút nhiều hơn các công ty đa quốc gia đến thiết lập các nhà máy lắp ráp mới tại đó. Chẳng hạn như Microsoft, IBM, Sony, hay Hewlett-Packard trong công nghiệp điện tử và tin học; hay Nike, Adidas trong công nghiệp sản xuất quần áo và giầy thể thao, vân vân. Điều này tạo nên hiệu quả theo quy mô (economies of scale), lý giải cho sự hình thành “phẩn xưởng của Thế giới” [Trong kinh tế học, điều này tương ứng với khái niệm “liên kết về phía các đầu ra” (forward linkages)].

Khi mà các khu vực công nghiệp tại đặc khu càng phát triển mạnh lên dưới tác động đồng thời của backward – forward linkages, thì nhu cầu về lao động và cung ứng – tiêu thụ linh kiện, hàng hóa tại các đặc khu này ngày càng tăng. Và do đó, có sự gia tăng về chuyển dịch lao động – hàng hóa và dịch vụ trên cả vùng, rồi đến liên vùng, và cuối cùng là với ra thị trường quốc tế. Tức là có sự đòi hỏi về hạ tầng ngày càng lớn, càng đồng bộ và hiệu quả, theo sự phát triển lên về quy mô sản xuất và cung ứng sản phẩm, xuất khẩu. Chiến lược phát triển hạ tầng như vậy phải được vạch ra trong một quy hoạch dài hạn, theo sự phát triển có tính lan tỏa từ các cực phát triển, hay các đặc khu kinh tế, nơi mà quan hệ đầu tư kinh doanh được quản trị theo phương thức tiến bộ, nhằm thu hút vốn FDI, công nghệ, kỹ năng tổ chức, và đào tạo nhân lực. Đặc khu, hiểu như vậy, rất khác với các đặc khu kinh tế, chủ yếu tận dụng lao động rẻ tại chỗ, nên thiếu sự gắn kết giữa các vùng, như hiện nay tại Việt nam. Như vậy, chiến lược phát triển hạ tầng theo quy hoạch dài hạn cũng chỉ có thể có, nếu có tư duy, cách nhìn mới về thể chế quản lý đầu tư – kinh doanh.

Như vậy, việc làm lành mạnh môi trường đầu tư – kinh doanh, nhìn từ giác độ tiếp cận nguồn lực và thị trường, đòi hỏi một tầm nhìn xa của người lãnh đạo, nhân tố quyết định về cải cách thể chế theo hướng phát triển bền vững và hiệu quả. Chiến lược phát triển hạ tầng nằm trong khung một chiến lược phát triển quốc gia lớn hơn, mà nhân tố quan trọng nhất là tư duy quản lý kinh tế mới: Khuyến khích, hỗ trợ sự phát triển dài hạn của thị trường hiện đại, mà không hướng đến sự khai thác đến kiệt cùng, ngay lập tức, các nguồn tài nguyên sơ chế và lao động rẻ, không có kỹ năng./.

CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ KINH DOANH:

GIẢI PHÁP CỤ THỂ, QUYẾT LIỆT TRONG KHÂU THỰC HIỆN

PGS.TS. Ngô Trí Long

Thời gian qua, vấn đề cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh luôn được xem là điểm “nóng” thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội, đặc biệt là sau khi Ngân hàng Thế giới công bố Báo cáo về môi trường kinh doanh năm 2013, trong đó Việt Nam đứng thứ 99/185 quốc gia, vùng lãnh thổ, tụt 1 bậc so với năm 2012. Theo Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2013 xếp thứ 70/148 nền kinh tế, tăng 5 bậc so với năm 2012. Hầu hết các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của nước ta đều ở dưới mức trung bình. Mặc dù những nỗ lực nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam sau một năm thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-CP, ngày 18/3/2014 đã có những cải thiện đáng ghi nhận. Nhưng theo nhận định của Thủ tướng Chính phủ, chỉ số môi trường đầu tư kinh doanh của nước ta còn nhiều hạn chế, cải thiện còn chậm.

Trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, các nước trong khu vực và thế giới không dừng lại chờ chúng ta thay đổi để cùng tiến. Ngược lại, họ liên tục cải tiến nên chúng ta sẽ không thể theo kịp nếu không quyết liệt hơn. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, thực hiện mô hình kinh tế thị trường ngày càng đầy đủ, việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh có ý nghĩa thu hút đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh. Do vậy, Ngày 12/3/2015 một lần nữa được Chính phủ tái khẳng định với việc ban hành Nghị quyết về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia 2 năm 2015-2016.

Theo đó, đặt mục tiêu năm 2015, phấn đấu các chỉ tiêu về môi trường kinh doanh của nước ta đạt và vượt mức trung bình của các nước ASEAN-6. Năm 2016 chỉ số môi trường kinh doanh của Việt Nam tối thiểu đạt mức trung bình của nhóm nước ASEAN-4 trên một số chỉ tiêu chủ yếu theo thông lệ quốc tế. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng khẳng định “cải thiện môi trường kinh doanh là nhiệm vụ sống còn”. Người đứng đầu Chính phủ có quyết tâm rất cao như vậy không có gì khó hiểu. Bởi vì, cải thiện môi trường kinh doanh là biện pháp có hiệu quả nhất trong những biện pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nó giúp cho các doanh nghiệp, doanh nhân tiết kiệm được rất nhiều thời gian, tiền bạc, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Nghị quyết 19/2014/NQ-CP (NQ19) của Chính phủ đã có những kết quả bước đầu và về lý thuyết, các chỉ số nộp thuế, nộp bảo hiểm xã hội, khởi sự kinh doanh, bảo vệ nhà đầu tư, tiếp cận điện... đã được cải thiện bước đầu. Song, kết quả chưa toàn diện và triệt để. Chưa toàn diện vì NQ19 đề ra 7 giải pháp tổng thể và 49 giải pháp cụ thể cho các bộ, cơ quan, địa phương. Trong số 7 giải pháp tổng thể, 4 giải pháp đã được thực hiện và bước đầu có kết quả; 1 giải pháp được thực hiện, song chưa có kết quả rõ ràng và 2 giải pháp chưa được thực hiện. Với 49 giải pháp cụ thể, mới có 8 giải pháp được thực hiện và có kết quả; 16 giải pháp đã được thực hiện, nhưng chưa có kết quả rõ ràng và 25 giải pháp chưa được thực hiện, chiếm tỷ lệ quá nửa. Có tới 5 bộ chưa thực hiện giải pháp nào trong số các giải pháp được giao. Hơn nữa, NQ19 yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải xây dựng kế hoạch hành động. Song, hầu hết các kế hoạch hành động đã xây dựng chưa nêu rõ lộ trình thời gian và cách thức triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ được giao. Điều đó chứng tỏ, tình trạng thực hiện để “đối phó” vẫn còn tồn tại. Theo thống kê của Bộ KH-ĐT, tới cuối năm 2014 có tới 5 bộ chưa thực hiện giải pháp nào trong số các giải pháp được giao tại Nghị quyết 19. Một số bộ ngành, địa phương chưa quan tâm đúng mức, chưa coi việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh là nhiệm vụ cấp thiết. Đây là nhận xét được Thủ tướng nêu tại văn bản trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội .

Nỗ lực tạo ra một môi trường đầu tư tốt của chính quyền và cơ quan quản lý là điều không cần bàn cãi. Quyết tâm của Chính phủ đã được cụ thể hóa bằng Nghị quyết về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia 2 năm 2015-2016 vừa được ban hành. Để cải thiện được thực chất và có hiệu quả môi trường đầu tư kinh doanh, theo chúng tôi cần giải pháp cụ thể, quyết liệt trong khâu thực hiện. Cụ thể :



  1. Hiện nay nhiều nội dung cải cách về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh vẫn dừng lại ở trên văn bản của Chính phủ, Bộ và cơ quan ngang Bộ. Cần có những giải pháp cụ thể tạo ra sức ép phải thực hiện đối với các cán bộ, công chức cấp thừa hành, trực tiếp làm việc với người dân và doanh nghiệp. Nếu không, đội ngũ này sẽ có thể vô hiệu hóa những tiến bộ của các cải cách được đưa ra từ lãnh đạo cấp cao. Có những quy định rõ ràng hơn, đầy đủ hơn trách nhiệm của từng vị trí công chức của các cơ quan quản lý nhà nước, những người trực tiếp làm việc với doanh nghiệp, người dân.

  2. Tạo niềm tin cho doanh nghiệp và người dân trong đầu tư kinh doanh.

Nói cải thiện môi trường kinh doanh, chúng ta thường nghĩ ngay đến các nỗ lực rút ngắn số ngày cần trải qua khi thành lập doanh nghiệp, số ngày doanh nghiệp phải tiêu tốn cho việc nộp thuế, làm thủ tục hải quan hay chuyện một cửa một dấu... Những cải cách này cũng quan trọng và đáng hoan nghênh nhưng không mang tính quyết định. Điều quan trọng hơn nhiều lần, chính là niềm tin của DN và người dân vào sự công minh của luật pháp; là cách hiểu và áp dụng luật pháp một cách nhất quán; là niềm tin vào hệ thống và chính quyền tôn trọng theo những gì đã cam kết. Thực tế, nhà đầu tư rất muốn nhìn thấy rõ ràng sự thay đổi về cơ chế, chính sách, môi trường đầu tư, công khai, minh bạch các thủ tục đầu tư. Tuy nhiên, thời gian qua sự vận hành các cơ chế này vẫn đang nằm trong giai đoạn thử nghiệm, rất cần một đánh giá cụ thể về hiệu quả của những cải cách này. Cần quy định rõ ràng, đầy đủ trách nhiệm của từng vị trí công chức của các cơ quan quản lý nhà nước, những người trực tiếp làm việc với doanh nghiệp, người dân.

Với những cải thiện từ “một cửa liên thông” đến những cuộc tiếp doanh nghiệp định kỳ hàng tháng và mở cổng thông tin điện tử giải đáp thắc mắc doanh nghiệp, được xem là những sáng kiến cải thiện môi trường đầu tư. Song mối quan tâm của DN và người dân vẫn chính là sự kết hợp như thế nào giữa các cơ quan quản lý để sự cải thiện này vận hành một cách hoàn hảo vẫn đang là vấn đề đáng để lưu tâm. DN và người dân cho rằng dù “một cửa liên thông” hay đối thoại đã mang lại nhiều sự thiện cảm từ giới đầu tư nhưng việc thiếu một chiến lược thu hút đầu tư dài hạn ở các địa phương đã làm chậm tốc độ thu hút đầu tư.

Giới doanh nghiệp cho hay một khi đến địa phương tìm cơ hội đầu tư hay tìm đến các cuộc đối thoại này có thể hiểu rằng trong nhiều trường hợp, tiếng kêu của doanh nghiệp đã không được cấp cơ sở lắng nghe đúng mức nên họ phải tìm đến cấp trên. Vì vậy điều quan trọng là những gì sẽ xảy ra sau những cuộc đối thoại như thế. Kết quả giải quyết rốt ráo những vẫn vấn đề cụ thể, thỏa mãn sẽ giúp gây dựng lòng tin nơi doanh nghiệp, người dân vốn đã quá mệt mỏi với sự thiếu trách nhiệm hay bế tắc, đồng thời cũng thể hiện rằng chính quyền không “đánh trống, bỏ dùi” hay không chỉ bằng những kết luận chung chung sau những cuộc đối thoại. Doanh nghiệp hy vọng những khó khăn bức xúc của họ sẽ được giải quyết hoặc chí ít cũng được giải thích thấu đáo theo đúng pháp luật hiện hành.

Vấn đề mấu chốt của doanh nghiệp chính là cải cách thủ tục hành chính. Việc cải thiện tình trạng lạm quyền, tùy tiện, việc này chính là công cụ hữu hiệu, giúp hạn chế những khó khăn gây tác hại của những cơ quan công quyền. Những ý phản biện trái chiều là điều hết sức cần thiết, cần phải được lắng nghe. Vì thế, thành công của sự cải thiện này nằm ở thái độ lắng nghe và chất lượng những câu trả lời có được đáp ứng đúng mức cho yêu cầu của doanh nghiệp và người dân hay không. Một môi trường đầu tư kinh doanh lập lờ sẽ không khuyến khích mà còn làm nản lòng các nhà đầu tư. Nếu điều này không thay đổi, ít khả năng thực hiện thì một cửa liên thông, đối thoại thường kỳ hay mở cổng thông tin điện tử vẫn chỉ mang tính hình thức và sẽ chẳng mang lại nhiều kết quả. Theo giới doanh nghiệp và ngay cả các cơ quan quản lý, một điều dễ thấy rằng tạo dựng được một môi trường kinh doanh đúng thông lệ quốc tế, dựa vào cán cân công lý để xây dựng niềm tin vào sự công minh của luật pháp, niềm tin kinh doanh cho các thương nhân thì việc cải thiện môi trường đầu tư, tăng chỉ số năng lực cạnh tranh của chính quyền địa phương là điều có thể thấy trong một ngày gần nhất ...

Bất kỳ một doanh nghiệp khởi nghiệp nào cũng quan tâm đến môi trường làm ăn trong đó các hợp đồng, các cam kết giữa những người kinh doanh với nhau được tôn trọng. Đây là một điều phải có và vai trò của Nhà nước là xây dựng luật hợp đồng, luật giao kết thật chặt chẽ và nghiêm minh. Sau đó mỗi khi có những vi phạm hợp đồng, giao kết phải xử phạt thật nặng những bên làm ăn gian dối, lừa đảo để hỗ trợ những bên làm ăn chân chính và xây dựng niềm tin của cả cộng đồng doanh nghiệp.


  1. Ngăn chặn các DN đi cửa sau,“ sân sau” có mối “ quan hệ với các cơ quan công quyền. Tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng, khách quan

Đối với doanh nghiệp hoạt động trên thương trường, trong môi trường cạnh tranh thiếu lành mạnh, thường lo lắng về khả năng xuất hiện rủi ro đối thủ đi cửa sau, đối thủ có “quan hệ” với các cơ quan công quyền, được hưởng nhiều ưu đãi, chạy trước cả cây số trong cuộc đua mà cơ quan công quyền không công bằng, khách quan. Bởi vậy, việc ngăn chặn các doanh nghiệp “sân sau” không chỉ là biện pháp chống tham nhũng mà còn là cách cải thiện môi trường kinh doanh hữu hiệu nữa.

  1. Cần kiểm soát các dạng độc quyền ảnh hưởng đến lợi ích của DN và người dân

Trong nền kinh tế thị trường, mối lo thường trực của cơ quan chức năng là duy trì môi trường kinh doanh lành mạnh. Tuy nhiên, trong quá trình cạnh tranh, thường xuất hiện các dạng độc quyền. Cạnh tranh và độc quyền là cặp song sinh trong nền kinh tế thị trường. Độc quyền xuất hiện thường lợi dụng vị thế độc quyền để thu lợi nhuận độc quyền cao thông qua định giá hàng hóa dịch vụ cao, gây thiệt hại cho xã hội, bóp nghẽn sáng tạo. Ở nước ta DN độc quyền vẫn còn tồn tại, tuy Nhà nước có kiểm soát. Chỉ đến khi nào giới quản lý Nhà nước cũng xem việc kiểm soát độc quyền có hiệu quả là một con đường cải cách môi trường kinh doanh thì lúc đó họ mới đạt được những cột mốc cải cách thật sự.

Hiện nay điện là ngành độc quyền, vấn đề kiểm soát giá điện hiện còn chưa tạo được sự đồng thuận trong xã hội. Những yếu kém của ngành điện như năng suất lao động còn thấp, tổn thất điện năng còn cao hơn so với nhiều nước trong khu vực, đầu tư ngoài ngành thua lỗ,…đều làm cho chi phí sản xuất kinh doanh cao. Những yếu kém này đều đẩy cho người tiêu dùng gánh chịu. Hoặc mỗi lần tăng giá điện, thường hay so sánh giá điện của chúng ta còn thấp hơn so với các nước trong khu vực. Việc so sánh này là không chuẩn xác. Bởi, cơ cấu ngành điện của chúng ta khác với nhiều nước. Thủy điện của nước ta chiếm tỷ trọng tương đối cao so trong tổng số nguồn điện cung ứng so với nhiều nước, khoảng trên 30%. Thủy điện thường có giá thành thấp, lãi cao. Điều này được thấy rõ vì sao có nhiều doanh nghiệp muốn đầu tư vào thủy điện. Về chi phí đầu vào của chúng ta thường thấp hơn so với nhiều nước, ví dụ tiền lương ngành điện của ta thấp hơn nhiều so với Malaysia, Singapor, Thái lan,….Chúng ta chưa phải tính chi phí bảo hiểm, bồi thường do sự cố kiện gây ra với khách hàng, v.v…… Nghĩa là chi phí đầu vào của ta thấp hơn của các nước trong khu vực, trong khi đó EVN lại đòi giá bán đầu ra phải tương đồng với họ, đây là điều không hợp lý. Nếu tính như vậy, vô hình dung đã tạo ra một khoản lợi nhuận vô cùng lớn đối với ngành điên, gây thiệt hại đối với các DN khác và người dân. Điều này sẽ làm cho chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm của các ngành có sử dụng điện năng sẽ cao, hạn chế năng lực cạnh tranh của các DN. Đồng thời không khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài với lợi thế có chi phí giá thành điện thấp hơn nhiều nước. Hiện chúng ta đã thực hiện theo giá thị trường đối với ngành điện. Nghĩa là giá điện đã được Nhà nước định giá trên cơ sở tính đúng, tính đủ chi phí sãn xuất kinh doanh và có mức lãi hợp lý. Đó là giá thị trường của hàng hóa dịch vụ độc quyền



  1. Muốn cải thiện xếp hạng môi trường kinh doanh, các cơ quan quản lý cần đổi mới từ nhận thức và cách tiếp cận với các giải pháp, nếu không rất khó đạt mục tiêu.

Để sớm cải thiện chỉ số cạnh tranh chính của Việt Nam ngang bằng mức trung bình của 6 nước ASEAN chúng ta phải cải thiện rất nhiều mặt. Thứ nhất, là về luật pháp, về các cơ chế chính sách hiện tại cũng như cơ chế phối hợp giữa các bộ ngành bởi vì đây là quy trình mà thuộc vệ trách nhiệm của Chính phủ. Do vậy các bộ ngành liên quan phải là đơn vị tích cực nhất thực hiện các điều này ngoài sự hỗ trợ kỹ thuật hoặc tài chính từ các cơ quan nước ngoài. Chúng ta cải thiện được các quy trình này cũng như điều phối tốt thì việc cải thiện thứ hạng của Việt Nam cũng không phải là một tương lai quá xa. Thứ hai, đòi hỏi các Bộ, ngành, địa phương phải coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, liên tục, tập trung vào cải cách thủ tục hành chính, bãi bỏ các thủ tục hành chính không cần thiết, nhất là thủ tục liên quan đến các chỉ số xếp hạng môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh; đề cao trách nhiệm thực thi công vụ của cán bộ công chức; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các ngành, lĩnh vực; đổi mới quy trình quản lý, sản xuất và dịch vụ, nâng cao chất lượng sản phẩm...

  1. Thực hiện các chính sách cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh cần có hệ thống đánh giá, theo dõi giám sát kết quả thực thi. Không chỉ nghe các cơ quan chức năng báo cáo kết quả về các chỉ số cải thiện môi trường kinh doanh, cần có cuộc điều tra cụ thể của tổ chức độc lập đối với DN và người dân để đánh giá một cách khách quan, trung thực những kết quả của cuộc cải cách.

Kinh nghiệm của thế giới cho thấy, nếu các nước đang phát triển muốn cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh để nâng cao năng lực cạnh tranh, đạt tỉ lệ tăng trưởng đúng với tiềm năng của mình, việc tự do hóa thương mại phải được bổ sung bằng một môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh. Các thể chế, chính sách và qui định quản lý của nhà nước đóng vai trò hệ trọng trong việc khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài. Nếu chính phủ quá quan liêu và tham nhũng, hoặc nếu cơ sở hạ tầng và các dịch vụ tài chính kém hiệu quả, sẽ khó thu hút và khó thuyết phục giới kinh doanh đầu tư./.

MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ KINH DOANH

TẠI VIỆT NAM THỰC TRẠNG & KHUYẾN NGHỊ

TS. Phạm Huy Hùng

Ủy viên Ủy ban kinh tế

Sau hơn một năm thực hiện Nghị quyết số 19/2014/NQ-CP ngày 14/3/2014 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lục cạnh tranh quốc gia, thì môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam đã có những cải thiện bước đầu. Những nỗ lực cải cách hành chính trong một số lĩnh vực đã có những bước chuyển rất tích cực, bước đầu được ghi nhận qua việc đánh giá mức độ hài lòng của khối doanh nghiệp. Cụ thể: với thủ tục và thời gian180 khởi sự doanh nghiệp; thời gian nộp thuế và bảo hiểm xã hội181 giảm gần một nửa; Bộ Tài chính chỉ cần chỉnh sửa một Thông tư, đã làm giảm 200 giờ thực hiện thủ tục thuế; chỉ số bảo vệ nhà đầu tư được cải thiện thông qua việc thiết lập các giải pháp cụ thể để các cổ động thiểu số có thể trực tiếp khởi kiện nhà quản trị doanh nghiệp khi cần thiết và kiểm soát chặt chẽ những giao dịch tư lợi…Với những thay đổi tích cực đó, đã tháo gỡ nhiều khó khăn cho doanh nghiệp, giúp họ nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Việc cải cách thủ tục hành chính ở lĩnh vực thuế, hải quan, khởi sự doanh nghiệp… đang được được đánh giá cao, nhưng các thủ tục về thuế, hải quan, thủ tục thành lập doanh nghiệp vẫn ở mức thấp so với nhóm nước ASEAN 6, bên cạnh đó còn nhiều rào cản do một số Bộ, ngành, địa phương đưa ra như vấn đề qui hoạch đất đai; thủ tục đầu tư; phí, lệ phí; vấn đề tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng… vẫn còn là những cản trở cho doanh nghiệp trong việc thu hút đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.



1. Thực trạng môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam

Năm 2014, Quốc hội đã thông qua Luật doanh nghiệp sửa đổi và Luật đầu tư sửa đổi182, có hiệu lực từ 1’07’2015 qui định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện, nhưng việc đưa ra các điều kiện kinh doanh đang là một thách thức lớn của hai luật này. Bởi một điều kiện kinh doanh và kinh doanh có điều kiện đưa ra thiếu những căn cứ khoa học, thiếu tính thực tiễn lại được lặp lại. Tại hội thảo “ Điều kiện kinh doanh – Kinh nghiệm quốc tế và thách thức đối với Việt nam” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và Dự án hỗ trợ tái cơ cấu và nâng cao năng lực cạnh tranh (RVC) phối hợp tổ chức vào ngày 6/4/2015, có không ít ý kiến đã chỉ ra những bất cập này. Một số giấy phép con đã bỏ từ năm 2000, nay lại được lĩnh vực giao thông vận tải, thương mại dịch vụ khôi phục. Luật Đầu tư đã xác định có 267 ngành nghề kinh doanh có điều kiện, nhưng số lượng các điều kiện kinh doanh thực tế phải “đến hàng ngàn”183. Chẳng hạn doanh nghiệp chỉ mua bản tin kinh tế của Reuters cũng phải xin phép, hoặc doanh nghiệp thành lập bộ phận bảo vệ riêng, cũng phải xin phép184… Điều kiện kinh doanh quá nhiều đang gây ra khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp nới chung, đặc biệt doanh nghiệp quy mô nhỏ, siêu nhỏ, doanh nghiệp tư nhân. Điều này đã làm thui chột các ý tưởng sáng tạo, phân bổ nguồn lực tiếp tục méo mó. Hiệu quả của chính sách thấp, thực thi không đầy đủ, đã và đang triệt tiêu cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế.

Đối với việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng: thị trường vốn chưa phát triển, tính ổn định chưa cao, hệ thống ngân hàng vẫn đóng vai trò chi phối trên thị trường vốn. Mặc dù TTCK Việt Nam vẫn được đánh giá là một trong số các nước có tốc độ tăng trưởng nhanh trên thế giới, nhưng do qui mô thị trường còn nhỏ, mức độ vốn hoá thấp (Năm 2010 giá trị vốn hóa đạt 39%/GDP, năm 2012 là 26%/GDP, năm 2014 là 31,8%/GDP185); tính thanh khoản kém, nên ít doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường này. Những bất cập này đã hạn chế việc tiếp cận vốn, đặc biệt vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp. Do thị trường vốn Việt Nam lệ thuộc lớn vào chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, khi kinh tế vĩ mô bất ổn, lạm phát tăng cao, chính sách tài chính – tiền tệ điều hành theo hướng thắt chặt để đạt mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô nên mặt bất lợi của chính sách thắt chặt đã tác động tiêu cực đến thị trường. Sự biến động thất thường của TTCK cũng như thị trường vốn tín dụng ngân hàng, những rủi ro tiềm ẩn từ nội tại các chủ thể tham gia thị trường, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp tư nhân rất khó khăn trong việc tiếp cận vốn. Kết quả điều tra về nguyen nhân gặp khó khăn khi vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp nhỏ và vừa do Viện Nghiên cứu QLKTTW thực hiện tháng 11/2014 dưới đây cho thấy rõ vấn đề này.



Nguồn: Báo cáo điều tra về nhu cầu tín dụng của Viện NCQLKTTW

Bên cạnh các nguyên nhân khó khăn khi tiếp cận vốn tín dụng, kết quả khảo sát này cũng cho thấy: có tới 15% số doanh nghiệp được khảo sát không nộp hồ sơ vay vốn do lãi suất cao; 10% DN cho rằng hoàn thiện hồ sơ nộp quá khó, nhưng cũng có đến 50% DN không nộp hồ sơ vay, vì không có nhu cầu, bên cạnh đó còn có những lý do như đang có nợ xấu, không có tài sản bảo đảm khoản vay…Vì thế hạn chế trong tiếp cận tài chính là một trong những nguyên nhân cơ bản làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.



2. Một số giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh ở Việt Nam

Thứ nhất, rà soát, sửa đổi và bổ sung các cơ chế chính sách theo hướng ổn định, minh bạch. Xem xét toàn diện các quy định về điều kiện kinh doanh, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế, Hải quan, thủ tục khởi sự doanh nghiệp, rút ngắn qui trình xử lý, giảm thời gian và chi phí thực hiện thủ tục hành chính về đất đai, xây dựng, thủ tục đầu tư. Tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, bảo đảm một cách đầy đủ quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Chấm dứt tình trạng “ vừa đá bóng, vừa thổi còi” khi ban hành luật pháp, cơ chế chính sách.

Thứ hai, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, tập trung đầu tư hệ thống giao thông nông thôn, nơi sản xuất nông nghiệp lâm, ngư nghiệp mang tính hàng hóa; tiếp tục phát triển và hạ tầng đô thị, khu công nghiệp, khu du lịch theo nhiều hình thức đầu tư. Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi hợp lý để huy động tối đa các nguồn lực trong xã hội (gồm VND, ngoại tệ và vàng, kim khí quí trong dân) để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Cải thiện các yếu tố về thể chế, hạ tầng cơ sở là vấn đề trọng yếu để khuyến khích doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh. Đây cũng là các yếu tố nền tảng cơ bản giúp các doanh nghiệp và hộ gia đình giảm gánh nặng chi phí, nâng cao năng suất lao động, tăng cơ hội kinh doanh.

Thứ ba, đẩy nhanh có hiệu quả tái cơ cấu ngân hàng, sắp xếp các ngân hàng yếu kém gắn với xử lý nợ xấu và sở hữu chéo. Điều chỉnh dòng vốn tín dụng ngân hàng vào khu vực sử dụng vốn hiệu quả cao, đó là khu vực kinh tế tư nhân. Tập trung xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính trong hoạt động ngân hàng. Hiện nay, để lành mạnh hoạt động ngân hàng, cần tập trung giải quyết nhanh nợ xấu. Nợ xấu chỉ có thể giải quyết rốt ráo, khi các con số về nợ xấu của ngân hàng được thống kê chính xác, đầy đủ. Thực tế xử lý nợ xấu hơn hai năm qua cho thấy: một khi chưa minh bạch về số nợ xấu186, thì hiệu quả mang lại sẽ rất thấp, cho dù NHNN có đưa ra nhiều chính sách và biện pháp. Chính phủ cho phép tăng vốn điều lệ cho VAMC lên 2000 tỷ đồng, phát hành khối lượng lớn TPĐB, việc xây dựng cơ chế mua bán nợ theo cơ chế thị trường… là rất cần thiết để VAMC nhanh chóng chuyển được khối lượng nợ xấu lớn ra tiền để quay vòng vốn. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tham gia mua nợ xấu, tài sản bảo đảm; nâng cao năng lực định giá, đánh giá tài sản, tổ chức bán đấu giá nợ, tài sản bảo đảm của khoản nợ đã mua. Song song với biện pháp thoái vốn đầu tư trong lĩnh vực ngân hàng, cần xây dựng lộ trình trong ngắn hạn để giảm sở hữu chéo lẫn nhau. Xử lý được vấn đề này cũng là làm cho môi trường đầu tư kinh doanh của ngân hàng, doanh nghiệp minh bạch và ổn định hơn.

Thứ tư, tăng cường truyền thông& thực hiện có hiệu quả chính sách chăm sóc khách hàng. Coi trọng các hoạt động truyền thông, chuyển tải thông tin tới khách hàng, nhằm giúp khách hàng có được các thông tin chuẩn xác về lãi suất/phí và các điều kiện cần thiết khi tiếp cần dịch vụ ngân hàng. Cải tiến qui trình, đơn giản hóa thủ tục vay, bào lãnh, thanh toán, giảm thời gian chờ đợi làm ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp và người dân hiểu được lợi ích của từng sản phẩm dịch vụ và những lưu ý khi sử dụng từng loại dịch vụ, để doanh nghiệp lường trước được rủi ro tiềm ẩn. Việc PR năng lực thực của ngân hàng quá sự thật… đã và đang làm giảm sự tin tưởng của doanh nghiệp vào ngân hàng.

Rà soát các kênh phân phối truyền thống (chi nhánh, phòng giao dịch) đi đôi với phát triển kênh hiện đại gắn với phát triển công nghệ ngân hàng, coi đây là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng.



Thứ năm, đẩy mạnh tái cấu trúc thị trường vốn gắn với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế. Từng bước nâng cao vai trò của vốn trong huy động vốn cho đầu tư phát triển. Phát triển hoạt động của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, hoàn thiện phương thức phát hành, xây dựng cơ chế khuyến khích các DN thuộc các thành phần kinh tế huy động vốn qua vốn. Xây dựng cơ chế công bố thông tin, áp dụng các chuẩn mực quản trị công ty, quản trị rủi ro, chuẩn hóa các quy định về giao dịch, mua bán, đăng ký, thanh toán theo thông lệ quốc tế. Đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa DNNN gắn với quá trình tái cấu trúc lại doanh nghiệp, nhằm tăng số lượng và chất lượng hàng hóa cho thị trường.

Đối với thị trường vốn tín dụng ngân hàng, cần rà soát các cơ chế chính sách, tạo môi trường cho các tổ chức tín dụng hoạt động. Rà soát vốn thực có của các ngân hàng thương mại để giám sát tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, thực hiện quản trị rủi ro theo Basel II. Thông qua vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết, khắc phục những khuyết tật của thị trường theo hướng tạo môi trường lành mạnh cho các ngân hàng hoạt động theo luật, không bao cấp cho ngân hàng bằng cơ chế, chính sách, nhưng cũng không nên tạo ra những rủi ro bằng các mệnh lệnh hành chính; nâng cao hiệu quả giám sát theo rủi ro. Có như vậy mới nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực của xã hội./.



TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 về những nhiệm vụ giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh đầu tư, nâng cao hiệu quả kinh doanh quốc gia.

  2. Tài liệu Hội thảo “ Điều kiện kinh doanh – Kinh nghiệm quốc tế và thách thức đối với Việt nam” của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh Trung ương,ngày 6/4/2015

  3. Bài : An ninh tài chính trong hoạt động ngân hàng: Thực trạng & những khuyến nghị, Nguyễn Thị Mùi, tháng 4/2015.

  4. Bài: “ Cải thiện môi trường kinh doanh”, Hải Nam. Thông tin tài chính số 7, tháng 4 năm 2015.



NHẬN DIỆN NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ BẤT CẬP

TRONG CẢI CÁCH MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM

TS.Nguyễn Minh Phong

Báo Nhân Dân

Nguyễn Trần Minh Trí

Viện Kinh tế &chính trị thế giới

I/. Những lợi thế và thành công trong cải cách môi trường đầu tư

Lợi thế về môi trường đầu tư Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục vẫn được nhấn mạnh vào đội ngũ lao động trẻ, dễ đào tạo, đông đảo và ngày càng năng động thích ứng với cơ chế thị trường. Ngoài ra, còn là sự ổn định chính trị và những ưu thế khác về độ an toàn trước các thiên tai như động đất, sóng thần và nạn khủng bố…

Những thành công nổi bật về môi trường đầu tư được thể hiện tập trung và đậm nét ở sự ngày càng phát triển đồng bộ và hiện đại cơ sở hạ tầng giao thông vận tải và sự nhất quán một luật đầu tư áp dụng chung cho các loại hình doanh nghiệp và những ưu đãi đầu tư không phân biệt theo thành phần kinh tế.

Nhiều căn cứ thực tế cho thấy, các doanh nghiệp (DN) Việt Nam đã, đang và sẽ có điều kiện sản xuất kinh doanh ngày càng tốt hơn, cả về nhu cầu thị trường trong nước, nhu cầu thị trường quốc tế, cơ hội tiếp cận vốn vay, lao động, thông tin thị trường và công nghệ, điều kiện hạ tầng giao thông và mặt bằng kinh doanh. Môi trường kinh doanh cho các DN ngày càng được cải thiện nhờ các cơ quan quản lý nhà nước tăng cường trách nhiệm và sự phối hợp với nhau trong xây dựng, triển khai và hoàn thiện chính sách, lắng nghe thông tin phản hồi và kịp thời điều chỉnh những quyết định quản lý; rút ngắn thời gian cho DN nhờ cải cách số lần và thủ tục khai nộp thuế, thông quan; giảm mức thuế, lãi suất và nới lỏng hạn mức, điều kiện tín dụng, cùng với sự giảm nhẹ áp lực nợ xấu và gia tăng ổn định hệ thống ngân hàng theo hướng từng bước tiếp cận các chuẩn mực chung thế giới; tăng cường thông tin định hướng, cải cách hành chính và cải thiện chất lượng dịch vụ công; thúc đẩy cổ phần hóa DN nhà nước, nới “room” và tăng tự do hóa, sự bình đẳng thị trường cho các nhà đầu tư nước ngoài và tư nhân; phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật - xã hội; duy trì thành công các quan hệ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các khu vực DN.



Đặc biệt, những hỗ trợ giảm thiểu cùng lúc cả 3 gánh nặng tài chính – tín dụng và thể chế cho doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Chính phủ ngày càng chủ động và quyết liệt chỉ đạo các cơ quan quản lý nhà nước tăng cường phối hợp với nhau, cả trong xây dựng, triển khai thực hiện và tiếp tục quá trình hoàn thiện chính sách; đồng thời, đây cũng là năm trong hoạt động quản lý của mình, nhiều cơ quan Bộ, ngành đã tích cực và chủ động trong việc “Lắng nghe thông tin phản hồi và hành động”, tiếp thu phản ánh, kiến nghị và chỉnh sửa, tháo gỡ kịp thời những vướng mắc và bất cập chính sách, gây khó khăn cho doanh nghiệp (DN) và người dân (ND). Tiêu biểu như: Bộ Tài chính quyết liệt cải cách hành chính, sửa đổi các chính sách thuế, hải quan (Nghị định 91/2014/NQ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều tại 4 Nghị định về thuế; Thông tư 119/2014/TT-BTC sửa 7 Thông tư để cải cách, đơn giản các thủ tục về thuế; một số Dự thảo Thông tư hướng dẫn Luật Hải quan sửa đổi…). Các bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, Công Thương, Kế hoạch và Đầu tư nỗ lực trong việc rà soát, rút ngắn danh mục “giấy phép con” để tạo môi trường pháp lý, kinh doanh lành mạnh, thông thoáng cho ND, DN. Bộ Giao thông vận tải có hàng loạt các chỉ đạo quyết liệt cải cách ngành đường sắt, đường bộ, hàng không đã đem lại sự hưởng ứng, đồng thuận của xã hội. Bộ Khoa học và Công nghệ tạm dừng thực hiện Thông tư 20 về điều kiện nhập khẩu máy móc, thiết bị đã qua sử dụng nhận được sự đánh giá cao của DN…Tỉnh Quảng Ninh đã thường kỳ tổ chức Hội nghị gặp gỡ, đối thoại với các DN, với sự tham gia của các đồng chí lãnh đạoTỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh và đại diện các sở, ngành, địa phương trực tiếp lắng nghe và giải đáp ý kiến của hàng trăm DN đang hoạt động kinh doanh trên địa bàn tỉnh. Năm 2014 đã có trên 200 đề xuất, kiến nghị của doanh nghiệp được các ngành, đơn vị của tỉnh tiếp nhận và giải quyết thông qua tại những hội nghị này. Tại thành phố Hồ Chí Minh, tuần lễ “Lắng nghe ý kiến người nộp thuế” năm 2014 được lãnh đạo Cục Thuế TPHCM tổ chức trực tiếp tại cơ quan thuế, mà còn mở rộng qua các kênh giao lưu trực tuyến với bạn đọc báo đài. Kết thúc tuần lễ tiếp nhận hàng ngàn ý kiến người nộp thuế, ông Nguyễn Trọng Hạnh, Phó Cục trưởng Cục thuế TP cho rằng: cứ hễ dân ít hỏi là chúng tôi mừng, vì điều đó cho thấy ngành thuế ngày một tiến bộ... Ngoài ra, hầu hết các tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập và các cấp chính quyền từ TW đến địa phương đều đã và đang duy trì hiệu quả các đường dây nóng, tăng cường liên lạc trực tiếp giữa các chủ thể và đối tượng quản lý, giữa nhà nước với người dân và doanh nghiệp, để có sự điều chỉnh chính sách hay có thông tin định hướng phù hợp, kịp thời trong các lĩnh vực phụ trách của mình. Tinh thần đối thoại, cầu thị, sẵn sàng lắng nghe và đồng hành cùng DN cũng được thiết lập, khẳng định và tô đậm hơn khi ở cấp cao nhất qua kênh đối thoại chính thức giữa Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp tại Việt Nam, nhằm xây dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi, thu hút đầu tư và kích thích tăng trưởng kinh tế. Tới dự và phát biểu tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam thường niên (VBF) 2014 cuối kỳ sáng 2-12-2014, với chủ đề “Doanh nghiệp hướng tới các hiệp định thương mại mới”, ghi nhận những ý kiến đóng góp thẳng thắn, xây dựng, thiết thực của các đại biểu, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bày tỏ mong muốn thường xuyên nhận được góp ý của các tập đoàn, DN, tổ chức quốc tế về những vấn đề Việt Nam cần tập trung cải cách. Đây là cơ sở để nhà nước chủ động tiếp thu hợp lý, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách sát với thực tế hơn, tạo mọi thuận lợi để cộng đồng doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển hiệu quả, bền vững hơn.

CPI thấp và những nhân tố trên góp phần cải thiện môi trường đầu tư và mức tín nhiệm của Việt Nam thời gian gần đây, được thể hiện qua sự cải thiện xếp hạng các chỉ số BCI - Chỉ số niềm tin kinh doanh của Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam (Eurocham); Chỉ số tín nhiệm quốc gia của tổ chức Moody’s (từ B2 lên B1, mức triển vọng và “tích cực); và Chỉ số niềm tin người tiêu dùng Việt Nam của Ngân hàng ANZ ở Việt Nam và Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch...

Bên cạnh đó, căn cứ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, ngày 10 tháng 7 năm 2014, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 49/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới. Trên cơ sở đó, ngày 22 tháng 8 năm 2014, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1962/QĐ-BTP về Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 49/NQ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2014 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, trong đó xác định rõ việc xây dựng “Quy trình tham vấn các doanh nghiệp theo nguyên tắc công khai, minh bạch của WTO trong việc xây dựng chính sách, pháp luật” trong thời gian tới (dự kiến năm 2016 trình Thủ tướng Chính phủ ban hành).

Đây là những việc làm đúng đắn và là tín hiệu đáng mừng cho các DN và ND. Chúng cho thấy cách nghĩ, cách làm mới có trách nhiệm và hiệu quả hơn của các cơ quan công quyền, tăng khả năng phản ứng thị trường và cả phản ứng chính sách, sự điều hành tích cực, quyết liệt của Chính phủ, góp phần nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước. Tinh thần đổi mới trong nhận thức, cách nghĩ, cách làm, đặc biệt là tăng cường phối hợp với nhau, cũng như chuẩn hóa, công khai và minh bạch quy định và quy trình lấy và phản hồi, tiếp thu và không tiếp thu ý kiến đóng góp của DN và ND trong xây dựng và thực thi chính sách và hoạt động của cơ quan công quyền; thái độ và hành động thực sự cầu thị, lắng nghe, thấu hiểu, tích cực phản hồi kịp thời vì cộng đồng DN và ND, sẽ tạo động lực mới góp phần bảo đảm Việt Nam hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của Chính phủ Việt Nam trong năm 2015 và tiếp theo... Tất cả đang tạo lập và củng cố động lực niềm tin đầu tư, niềm tin tiêu dùng cho cả DN và ND. Niềm tin kinh doanh, niềm tin tiêu dùng, niềm tin thị trường và tín nhiệm quốc gia chính là lòng tin vào tương lai, vào năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước. Chúng không thể xuất hiện bất ngờ và càng không thể mua được bằng tiền. Lòng tin cộng đồng là kết quả tổng hợp, tích tụ những nỗ lực lâu dài của nhà nước trong đề cao trách nhiệm, khả năng lắng nghe, tiếp thu, hành động tích cực, cải thiện các quan hệ và chủ động hội nhập quốc tế, khát khao hòa bình, cùng cố quan hệ đối thoại cả đối nội và đối ngoại…

Lòng tin sẽ được tiếp tục củng cố trong thời gian tới cùng với sự thúc đẩy công cuộc đổi mới toàn diện, thực hiện nhiều đột phá thể chế, đẩy mạnh tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình phát triển; nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước pháp quyền trên cơ sở trọng dụng người hiền tài “đúng người, đúng việc” và đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, phát huy dân chủ; phát triển công nghiệp phụ trợ và nâng cao tỉ lệ nội địa hóa nguồn cung cấp nguyên liệu; kiểm soát tốt an toàn tài chính vĩ mô, nợ công, nợ xấu, sở hữu chéo và điều tiết dòng tín dụng vào đúng chỗ, đúng lúc; xây dựng và duy trì hệ thống quản lý chất lượng, nâng cao năng lực cạnh tranh và minh bạch thông tin của DN…

Lòng tin góp phần vào sự thành công của chính sách quốc gia. Ngược lại, chính sách quốc gia tạo lập và củng cố lòng tin. Lòng tin gia tăng đồng nghĩa với động lực phát triển sẽ được cải thiện. Tăng cường trách nhiệm công vụ, giữ vững, củng cố và khai thác động lực lòng tin ngày càng trở thành định hướng và nhiệm vụ thường xuyên, nhất quán, mạnh mẽ, là mục tiêu và động lực cho quá trình cải cách và phát triển đất nước và DN. Tinh thần trách nhiệm mới tạo niềm tin mới, lực đẩy mới, hy vọng mới và thành công mới…



II/. Những nút thắt và giải pháp tháo gỡ để cải thiện môi trường đầu tư

Việt Nam đang và sẽ tiếp tục đứng trước nhu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật để cải thiện môi trường đầu tư và tuân thủ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Dù có những bước cải thiện mạnh mẽ trong những năm gần đây, nhưng chất lượng hoạt động xây dựng pháp luật vẫn chưa đạt yêu cầu của xã hội nói chung và của DN nói riêng. Tình trạng nợ đọng văn bản hướng dẫn các luật còn nặng nề. Nhiều quy định pháp luật, nhất là các Thông tư do các Bộ, ngành ban hành có tính khả thi thấp, chưa dựa trên các cơ sở thực tiễn pháp lý vững chắc. Thậm chí một số quy định được ban hành, nhưng không đồng bộ và còn chồng chéo, mâu thuẫn, triệt tiêu hiệu lực của nhau. Không ít quy định mới chỉ dừng ở việc phản ánh lợi ích cục bộ của ngành, của nhóm lợi ích. Tính ổn định, tính minh bạch, rõ ràng, dễ tiên liệu của một số quy định pháp luật còn hạn chế. Quyền tiếp cận thông tin, trách nhiệm giải trình và việc áp dụng luật còn khó khăn, chưa mang lại lợi ích tốt nhất cho ND và DN. Năm 2014, ngành tư pháp và các bộ, ngành, địa phương toàn quốc đã tích cực rà soát trên 100.000 văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), bước đầu kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới 282 văn bản, hoàn thành việc đơn giản hóa thêm 358 thủ tục hành chính đã được Chính phủ phê duyệt, đạt tỷ lệ 92,8%; một số đề xuất, sáng kiến cải cách thủ tục hành chính bước đầu phát huy hiệu quả tích cực, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và dân sinh. Song việc triển khai thi hành Hiến pháp vẫn còn không ít hạn chế, bất cập cả về sự đồng bộ, tiến độ, chất lượng VBQPPL. Theo Báo cáo của Bộ Tư pháp tại hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và triển khai nhiệm vụ năm 2015 vừa qua, trong 10 tháng đầu năm 2014, các bộ, cơ quan, địa phương đã kiểm tra và phát hiện 9.017 VBQPPL có dấu hiệu vi phạm các điều kiện về tính hợp hiến, hợp pháp (chiếm tỷ lệ 22%). Trong số đó có hơn 1.500 VBQPPL có dấu hiệu vi phạm về thẩm quyền ban hành, nội dung văn bản. Riêng Bộ Tư pháp cũng đã phát hiện 885 văn bản có dấu hiệu vi phạm các điều kiện về tính hợp hiến, hợp pháp. Một số văn bản có dấu hiệu trái pháp luật chưa được cơ quan chức năng phát hiện kịp thời, mà nhờ được các cơ quan báo chí phát hiện, nêu vấn đề trước… Trong số các nguyên nhân, theo lãnh đạo Bộ Tư pháp, có việc tự kiểm tra của tổ chức pháp chế còn chưa thực sự hiệu quả. Việc rà soát, hệ thống hoá, hợp nhất VBQPPL còn mang tính hình thức, còn có sự dè dặt, nể nang trong kiểm tra, xử lý; Đặc biệt, nhiều quy định của Hiến Pháp trong luật chưa được hiểu một cách thống nhất, có nguy cơ để lại hậu quả lâu dài trong hệ thống pháp luật.



Trong cơ chế quản lý nhà nước pháp quyền, năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước trước hết dựa trên và được đo lường bằng chất lượng hệ thống VBQPPL có liên quan. Nếu các VBQPPL xây dựng kém chất lượng, ban hành sai thẩm quyền và quy trình, nợ đọng các văn bản hướng dẫn và có nhiều sai phạm trong thực hiện, lại chậm được phát hiện và chỉnh sửa, chắc chắn sẽ không chỉ làm giảm vai trò, hiệu quả, uy tín thể chế và quản lý nhà nước, mà còn làm phát sinh tác động mặt trái kéo dài, gây lạm dụng, tham nhũng và thất thoát, lãng phí các nguồn lực, cũng như làm tăng những nghi ngại, sự xuyên tạc và hiểu lầm vào bản chất chế độ sự quản lý nhà nước. Đặc biệt, sự kiện gần đây nhất diễn ra cuộc đình công của hàng chục ngàn công nhân phía Nam liên quan đến sự chưa thấu đáo trong xử lý quyền hưởng bảo hiểm xã hội một lần của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội theo luật BHXH mới sẽ có hiệu lực từ 1/2016 cho thấy, khi quy trình và chất lượng làm luật chưa tốt thì hậu quả sẽ khó lường, vì không chỉ gây thiệt hại cho DN, mà còn còn khiến các nhà đầu tư e ngại; đồng thời, làm giảm sút sức hấp dẫn môi trường đầu tư, thậm chí giảm uy tín, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước ở cấp cao nhất. Thậm chí, có thể tạo cơ hội cho sự lợi dụng phá hoại sự ổn định chính trị -xã hội nói chung như một thành tựu lớn và quan trọng nhất của Việt Nam hiện nay. Vì vậy, các cơ quan chức năng, trước hết là Bộ Tư pháp với vai trò là “người gác cổng”, cần coi trọng nâng cao năng lực và trách nhiệm xây dựng và rà soát hệ thống VBQPPL; tăng cường kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc xây dựng, ban hành VBQPPL, cũng như hướng dẫn thi hành và tiếp tục hoàn thiện VBQPPL sau ban hành; kịp thời đề xuất sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới văn bản cho phù hợp với Hiến pháp mới.

Каталог: Uploads -> Articles04
Uploads -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
Uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
Uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
Uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
Uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
Uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
Uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
Articles04 -> MỤc lục phầN 1: ĐÁnh giá KẾt quả thực hiệN
Articles04 -> BÁo cáo hsbc kết nối giao thưƠng việt nam

tải về 3.48 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   34   35   36   37   38   39   40   41   ...   47




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương