Kinh Anan Vấn Phật Sự Cát Hung ht. Tịnh Không giảng tk. Thích Nhuận Nghi dịch Nguồn



tải về 0.72 Mb.
trang10/18
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.72 Mb.
#30100
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   18

2.- Hành nghi của thầy trò.


CHÁNH VĂN

Quán xét người đời mạt thế, những bọn người ác bất trung bất hiếu, không có nhân nghĩa, không hợp nhân đạo. 

LỜI GIẢI:

Cách sau Phật Niết bàn hai ngàn năm gọi là bước vào thời mạt thế. Mạt thế là thời kỳ thế gian vật dục phúng túng hưng thạnh, phong hóa lễ luật pháp tắc biến thái băng hoại, nhơn tâm đạo đức suy vi. Đồng thời thế gian văn hóa đồi trụy, Phật pháp biến thể hiển bày trạng thái phân hóa suy tàn, con người tâm trí gian xảo buông lung tạo nhiều tội ác.

Trong thời mạt thế, người ác dãy đầy, đại để có bốn loại: 1/- Bất trung: Quốc gia lấy dân làm gốc, lấy nguyên thủ làm tôn, lấy tận trung làm trước. Đối với quốc gia, nguyên thủ tài đức, chức vụ mình đang có mà không tận trung là đại ác. 2/- Bất hiếu: Gia đình lấy cha mẹ làm tôn, nên trước phải hiếu kính. Trong giới kinh Phật nói: Nếu có người suốt trăm năm vai phải mang cha, vai trái cõng mẹ, cha mẹ đại tiểu tiện trên thân, một lòng cung dưỡng cha mẹ đầy đủ các thức ăn ngon mặc ấm quý nhất trên đời, cũng chưa báo đền được ơn cha mẹ trong giây lát. Kinh Bồ Tát Giới nói: “Hiếu là pháp chí đạo, cũng gọi là giới”. Thế nên làm con bất hiếu cha mẹ là đại tội. Người cộng sản tự mình khinh thường hiếu nghĩa nên đấu tố cha mẹ, lại còn giáo dưỡng tuổi trẻ, xúi xử người khác đấu tố, ấy là tâm địa hùm beo lang sói, tội ác biết dường nào! Cha mẹ mà còn đem tố khổ không chút tiếc thương thì thử hỏi trên đời nầy họ còn biết kính thương ai nữa? Bảo sao họ trị dân không thống khổ, trị nước không đổ nát đói nghèo lạc hậu! 3/- Không nhân nghĩa: Đối với mọi người trong xã hội không nhân không nghĩa, trái ngược với luân thường đạo lý, thiếu mất nhân tánh lương tâm, tiêu hủy tình người. Nhân là từ bi đối với tất cả. Nghĩa là xử sự hợp tình hợp lý. Nếu xử sự bất nhân bất nghĩa là đại ác. Như người cộng sản đấu tố cha mẹ, giết người như phác cỏ cây. Đấy là hiện thân của quỷ Dọa Xoa La Sát. 4/- Chẳng thuận nhân đạo: Đạo Nho dạy ngũ luân thập nghĩa: Phụ từ, tử hiếu, huynh lương, đệ để, phu nghĩa, phụ thích, trưởng huệ, ấu thuận, quân nhân, thần trung. Đạo Phật dạy ngũ giới, thập thiện đều là những phương thức thực tế xây dựng đạo làm người, là đạo lý xây dựng con người lương tri thánh thiện để thực hiện xã hội tiến bộ an lành hạnh phúc. Sách Tả Truyện nói: “Người mà bỏ cái đạo làm người thì yêu quái hưng thạnh”. Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Phá căn bản giới thì tà ma yêu quỷ hưng thạnh trong đời”. Thế nên, lìa bỏ ngũ thường: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, và phá căn bổn giới, tức là phá bỏ nhân đạo, hủy hoại nhân luân, thì xã hội hổn loạn băng hoại, cực kỳ đại ác vậy. Trong đời mạt pháp nầy không ít người phạm phải bốn tội đại ác nêu trên. Trong chốn thiền môn, kẻ xuất gia bê tha giới luật, tu nhảy bậc, chẳng thọ giới trì trai, mà lại còn manh tâm sửa kinh chế luật, tham vọng quyền danh lợi dưỡng, mê chấp ngã mạn cống cao tự đại, hãm hại bậc bậc chân Tăng tôn trưởng, khinh thường hòa hợp tăng, hạnh nầy cũng không ít trong cửa Phật, tội ác hơn hẳn bốn hạng trên kia. Đấy là hiện tượng bất hạnh của thời mạt pháp.

 

CHÁNH VĂN:



Các ma tỳ kheo ở trong tứ chúng chỉ nghĩ nhớ đến lỗi người, tự mình không dứt ác, đố kỵ người hiền đức lương thiện, làm cho họ bị tổn hoại, chẳng nghĩ đến làm thiện, chỉ nghĩ đến việc bạo hành đố kỵ người hiền, việc công đức tự mình đã không làm mà còn hại người khác đang làm để cho bại hoại, làm cho ý đạo tuyệt dứt không thể thực hành. 

LỜI GIẢI:

Đoạn kinh trên đây, đức Phật giảng nói cho tôn giả A-Nan biết, vào thời mạt pháp cách Phật Niết bàn lâu xa, như thời đại chúng ta đang sống đây và về sau nữa, trong hàng xuất gia có tỳ kheo do ma ngụy trang làm những hành vi ngôn ngữ vô luân thất đức trái ngược giới luật để cho Phật pháp sớm băng hoại. Về việc xấu ác nầy, đặc biệt kinh Thủ Lăng Nghiêm quyển sáu, đức Phật huyền ký rất rõ.

Khi thế đạo nhân tâm suy vi, lòng người nhiều nghi ngờ, thì hiện tượng tăng già đối với giới luật kinh điển phần nhiều yếu kém, ham thích hình thức lợi dưỡng quyền danh, tăng đoàn thiếu thanh tịnh hòa hợp, làm cho chư thiện thần xa lánh, chính là lúc chúng tà ma nhân cơ hội xâm nhập ngụy trang làm tăng đoàn, hoặc cư sĩ hộ đạo dùng xảo thuật mưu thần chước quỷ khiến cho người chân chất thật thà bị mê hoặc tưởng họ làm việc Phật pháp nên tin theo. Những ma tỳ kheo nầy, nếu tự thấy mình yếu kém thì họ liên kết với kẻ lợi danh hoặc luồn cúi làm tay sai cho quan quyền hầu dựa vào đấy để tạo thế lực, đồng thời ý đồ để cho người tâm đạo trí đức thức giả nghi ngờ khó phân định, sanh tâm khinh chê xa lánh các bậc tỳ kheo đạo hạnh chân tu, từ đó Phật pháp thiếu người hộ đạo hoằng pháp, dần dần nhân gian lu mờ đạo pháp.

Chúng ma tỳ kheo kết giao với chúng quỷ cư sĩ suốt ngày tâm ý nghĩ đến quyền danh, kết bè dựa thế để phá hủy các chân tỳ kheo đạo hạnh. Các vị chân tỳ kheo nầy tâm tâm niệm niệm hành trì giới luật, hoằng dương Phật pháp, kiến thiết đạo tràng, đào tạo nhân tài, trừ tà hiển chánh. Trong lúc đó chúng ma tỳ kheo thường dùng đủ thủ thuật quỷ kế phá hoại nhằm mục đích để các chân tỳ kheo thối tâm nguyện hoằng truyền Phật pháp lợi lạc nhơn sanh, để rồi từ đó các thức giả có tâm đạo e ngại xa lánh không còn nhiệt tình hộ pháp. Nên kinh nói: “Việc công đức tự mình không làm mà còn cố tâm phá hoại người khác đang làm để cho bại hoại, làm cho Phật pháp lu mờ, ý đạo tuyệt dứt không thể thực hành”. Lão Tử nói: “Cường lương giả, bất dắc kỳ tử”. Kẻ bá đạo cường bạo tung hoành đời nào cũng có. Theo lời Phật huyền ký thì thời mạt pháp chúng ma tỳ kheo ngụy làm tăng để làm băng hoại sự hòa hợp thanh tịnh của Tăng đoàn, dùng đạo tạo danh vọng riêng tư, làm hư hỏng giềng mối thanh cao của đạo pháp, ngày một thêm nhiều. Sự nhiễu loạn trong Phật pháp khó dập tắt, chỉ còn phương pháp là người chân chánh xuất gia phải nghiêm trì giới luật thanh tịnh để trang nghiêm Phật pháp, người tại gia phải cẩn trọng trong việc biết chọn bậc minh sư để học đạo và chánh tâm hộ pháp. Nếu có nhiều người biết tôn trọng nghiêm trì giới luật, biết chọn bậc minh sư tu học thì trong Phật pháp giảm thiểu đi tình trạng suy đồi. Người xuất gia mà tâm đắm trước chức tước quyền danh lợi dưỡng thường kết thân với chánh quyền thì gọi là ác thế tỳ kheo, cũng gọi là ma tỳ kheo tức là hình thức tỳ kheo, mà tâm chất ma. Trái lại tỳ kheo có đời sống khác hẳn hạng ma tỳ kheo trên kia thì gọi là thiện thế tỳ kheo. Chân tỳ kheo tức là tỳ kheo tâm chất Phật. Chúng ta đang sống trong thời mạt pháp hiện tượng trên đây hiển bày thật rõ mười mươi. Người có tâm đạo nên hết sức cẩn trọng khi phát tâm tu học. 

CHÁNH VĂN:



Tỳ kheo tham dục vụ tục, nhiều mưu cầu lợi dưỡng, gồm chứa tiền của tự hủy hại mình, trọng tiền của, xem thường đạo nghiệp, chết đọa đường ác địa ngục vô gián, ngạ quỷ súc sanh. 

LỜI GIẢI:

Đoạn kinh trên đây đức Phật cho thấy hạng ác thế tỳ kheo trọng tiền của hơn là đạo nghiệp, tất phải chiêu cảm quả báo trong ba đường ác. Hạng này tâm thức ngập đầy chất độc lợi dưỡng quyền danh, sống vì hơn thua, mưu đồ tiền của danh vọng, chứ không vì sự nghiệp giác ngộ giải thoát, hoằng pháp lợi sanh.

Riêng về xuất gia, trong Phật pháp có ba ý nghĩa: 1/- Xuất thế tục gia: Ra khỏi nhà thế tục của cha mẹ bà con quyến thuộc. 2/- Tại gia xuất gia: Hạng người nầy thân tuy tại gia mà đời sống thanh tịnh, tâm thường hằng để nơi đạo pháp, như các vị đại Bồ Tát có lúc hiện thân trưởng giả, cư sĩ dùng phương tiện thiện xảo hóa độ chúng sanh. 3- Xuất gia tại gia: Hạng người nầy thân tuy xuất gia mà tâm dày đặc ích kỷ, tham vọng quyền danh lợi dưỡng, luồn cúi người quyền thế, chuyên tâm chiều lòn tín chủ để thủ lợi, xem chùa như tư gia của mình, lấy việc cúng bái làm kế kinh nhai, hài lòng với tiền thu được, chẳng nghĩ đến lục hòa tăng đoàn, hoằng truyền Phật pháp, mặc cho đời đau khổ, mặc cho đạo suy vi, họ chẳng lưu tâm để ý. Hạng người này tuy hình thức xuất gia, nhưng tâm chất là thế tục, không phải đệ tử Phật. 4/- Xuất gia xuất gia: Hạng người nầy đầu tròn áo vuông, xuất gia thọ giới chuyên tâm hành đạo, bất nhiễm dục trần, chuyên trì tam vô lậu học, quyết chí nhất tâm kiến tánh, tâm nguyện thiết tha hoằng pháp lợi sanh, xa lánh quyền danh thanh thế, tinh tấn trao dồi đạo hạnh không ngừng.

“Gom chứa tiền của tự hủy hại mình, trọng tiền của, xem thường đạo nghiệp”. Câu kinh nầy cho ta thấy đức Phật thường cảnh giác giáo huấn các tỳ kheo đời mạt pháp thật là thống thiết. Ai gom chứa xem trọng tiền của thì người đó tự hủy hại mình. Xưa nay người đời thường nói: “Một nhà no ấm, ngàn nhà oán trách”. Với tinh thần này thì người thế gian còn nên thí xả cứu giúp, huống nữa là người xuất gia đệ tử Phật lại không thấu hiểu đạo lý nhân quả báo ứng hay sao mà lại tham tâm gom chứa tiền của? Đáng thương hại hơn nữa, biết khuyên người bố thí, trì giới tu hành mà mình lại không bố thí buông xả, kẻ xuất gia mà lại tự hào hảnh diện có chùa to Phật lớn, tiền nhiều, bổn đạo đông, rồi bằng vào đó, sanh tâm tự cao tự đắc, để cho cỏ gai danh lợi sanh trưởng phủ lập đài tâm giác ngộ hồi nào không hay. Trọng tiền tài, ái danh vọng, tự đắc tự hào, khinh thường đạo nghiệp, bất kính tôn trưởng chân tăng, khinh nghèo trọng giàu ba hiện tượng gốc Bồ đề tâm đã bị mối mục bật rễ rồi! Cho dù nay thân xuất gia nhưng tâm đã chìm đắm nhiễm ô trong bụi trần danh lợi chức quyền. Chùa to tiền nhiều mà không biết chuyên tâm trì trai giữ giới tu hành, lo cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, thì đó là điều kiện thuận nhanh để vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Như kinh nói: “Gom chứa tiền của tự tán hại thân, trọng tiền của khinh thường đạo nghiệp, chết đọa đường ác địa ngục vô gián, ngạ quỷ, súc sanh”. Đức Phật và liệt vị tổ sư cổ đức đã từng cảnh giác: Tham vọng một đời với thân bất tịnh tạm bợ, phải chịu quả báo kiếp kiếp triền miên khổ đau trong ba đường ác, rõ như thế há không tỉnh ngộ hồi tâm ư? Sao không biết thức thời:

Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa

Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên

Thoát trần một gót thiên nhiên

Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.

 

CHÁNH VĂN:



Chưa bỏ nghiệp ác trên đây, thì làm đời xuất gia để cầu cái gì? Phải nên nghĩ đến việc báo ơn Phật. Phải nên trì kinh giữ giới, đoạn ác để đắc đạo. Đạo không thể không học, kinh không thể không đọc, thiện không thể không làm. Hành thiện, bồi đức là giúp tâm đức lìa khổ, siêu xuất sanh tử. 

LỜI GIẢI:

Đoạn kinh nầy Phật giảng rõ mục đích của người xuất gia phải làm gì và bỏ điều gì. Không thể mang danh xuất gia xưng là thầy mà thói phàm tục còn đầy ấp nơi tâm, ngày ngày chạy dựa quyền thế, hay tìm cách chiều lòn tín chủ để được lợi dưỡng hoặc lại mưu tính kinh doanh thế sự. Kinh nói: “Chưa bỏ nghiệp ác thì đời nầy xuất gia để cầu cái gì? “. Còn nặng phàm phu nghĩ đến thế sự, tụng kinh niệm Phật chỉ nhằm mục đích làm thỏa mãn nhu cầu người tín chủ mà chính mình không tự giác phản tỉnh trau dồi đạo hạnh thì phước đức từ đâu tăng trưởng? Phước đức yếu kém thì làm sao có thể đền trả bốn ơn sâu nặng? Như Kinh nói: “Phải nghĩ đến việc báo ơn Phật”. Hễ biết nghĩ đến ơn Phật đã dày công giáo hóa thì đương nhiên nghĩ đến ơn cha mẹ sanh dưỡng, ơn sư trưởng giáo dục, ơn thí chủ cúng dường, ơn những người đã hy sinh tạo dựng đất nước, giữ gìn lãnh thổ lãnh đạo quốc gia. Không tinh tấn sáng chiều tụng niệm, không chuyên tâm nghiêm trì giới luật, không nghĩ đến việc hoằng dương lợi ích chúng sanh, để ngày luống qua ngày nhàn không luận bàn thị phi thế sự, thì tâm tánh hành nghi không từ đâu mà huân tập đạo hạnh, kinh điển không để tâm tụng đọc thì không thể nào giáo lý nhập tâm. Như kinh nói: “Phải trì kinh giữ giới, đoạn ác để đắc đạo. Đạo không thể không học, kinh không thể không đọc, việc thiện không thể không làm”. Không chuyên tâm trì giới tham thiền niệm Phật tụng kinh thì đạo hạnh không từ đâu tăng trưởng. Không nhất chí nghiền đọc kinh điển thì giáo lý không thể nào nhập tâm thì không thể nào “thâm nhập kinh tạng trí huệ như hải”. Trí huệ yếu kém thì trí phàm che lấp. Như vậy không còn tâm lực trên đền bốn ơn nặng, dưối cứu giúp ba đường khổ”. Phật Bồ Tát nghĩ đến chúng sanh khổ, nên lấy chúng sanh làm tâm. Người tu theo hạnh Phật lấy việc báo ân Phật làm tâm hạnh tự độ, độ tha, tức là thuận hợp tâm Phật. Với ý nghĩa nầy, nên nghĩ đến ơn Phật là bao hàm ý nghĩa chuyên tâm giới hạnh, đền đáp ơn cha mẹ sư trưởng quốc gia đàn na thí chủ và tất cả chúng sanh. Muốn thành Phật đạo thì trước phải nghĩ đến báo đáp thâm ơn. Muốn ơn trọn trả, đạo quả được thành thì chỉ có cách là tự hành hóa tha, trì trai giới hành thiện, nghiên đọc kinh điển, thuyết giảng Phật pháp đó là phương pháp báo ơn cứu khổ. Nên kinh nói: “Hành thiện, rải đức là giúp tâm thức lìa khổ, siêu xuất sanh tử”.

Người xuất gia nếu giữ vững sơ tâm nhập đạo, y theo lời Phật dạy mà hành trì thì công đức dư sức để thành chánh quả. Nên cổ đức nói: “Sơ tâm xuất gia là tâm thành trinh nguyên nhiệt tình buổi ban đầu đến với đạo. Lúc nhiệt tình tâm học đạo là lúc tâm hồn trong trắng Phật hiện diện nơi tâm, và lúc nào cũng thấy sống an lành thanh tịnh trong không khí đạo. Nên thời điểm đó niệm Phật, Phật hiện tận mắt, hình ảnh Phật trang nghiêm hiển hiện ngập tràn trong tim óc. Nhưng cảnh giới an lành thanh thoát nầy khó còn mãi, thường xảy khỏi tâm trí và mờ lần trong tư tưởng để rồi sau đó biến mất với những người tham trước dục lạc lợi danh. Nên cuối cùng chỉ còn lại hình tướng xuất gia mà tâm đầy phàm tục. Miệng họ vẫn niệm Phật tụng kinh mà lòng không còn tha thiết, tim óc không còn hiển hiện hình ảnh Phật như thuở mới phát tâm. Miệng niệm mà thực tình tâm óc không niệm nên không thấy Phật, do đó mất đi tâm cảnh an lành thanh thoát của buổi ban đầu mới đến với đạo. Đây là điểm mấu chốt cốt tủy mà hành giả đạo Phật thường mắc phải nhưng không dễ gì nhận ra. Chính vì không nhận rõ nguyên nhân sâu thẳm của tâm thức biến thái, nên hành giả tự dần dần đào thải mình khỏi lý đạo lúc nào không hay, để tâm tánh thánh thiện buổi sơ tâm đến với đạo lại chìm sâu vào lớp khói mù đạo tục. Như kẻ đi trong đêm sương thấm ướt áo lúc nào chẳng biết. Một khi đã dính mắc sâu nặng danh lợi ngũ dục là tự buông bỏ mục đích cầu giác ngộ giải thoát, hậu quả khó thoát khỏi quả báo luân hồi. Muốn tránh khỏi tình trạng bất hạnh nầy, hành giả phải luôn luôn ghi khắc sâu chắc nơi lòng là: Giữ vững sơ tâm cầu đạo, giờ giờ khắc khắc phải quán chiếu nội tâm, kiểm soát hành nghi, kịp thời sửa sai, nghe lại tiếng lòng. 

CHÁNH VĂN:

 Thấy người hiền đức chớ nên khinh mạn, thầy người lành thiện chớ nên nhạo báng, không nên nhân lỗi nhỏ mà làm cho lớn tội, xử sự trái pháp vô lý thì mắc phải tội, tội phước đều có chứng cứ, vậy mà không cẩn thận ư? 

LỜI GIẢI:

Đoạn kinh đây Phật dạy chúng ta sửa đổi tập khí cổ hủ, cải thiện tánh tình để cho tâm lý tiến bộ, cẩn thận không để thân tâm tạp nhiễm.

Thói thường kẻ phàm phu thấy người hiền đức được đời kính trọng tin tưởng nể vì, mình không được bằng thì lại sanh tâm đố kỵ thị phi mỉa mai chê bai hủy báng, nhiều lúc còn xem như thù địch, đây là bệnh thái tâm lý ích kỷ, tinh thần không được lành mạnh chánh thường. Phật dạy người Phật tử nên sưa đổi tâm lý để cho ngày một thêm tân tiến chân thiện mỹ. Nghĩa là thấy người hiền dức, bậc thầy đạo hạnh nên thành tâm cung kính, cúng dường, hộ trợ để giúp đời, hoằng pháp lợi sanh.

Đời nhà Đường ở Trung Hoa có ngài Ấn Tông pháp sư vốn là một vị cao tăng chủ trì chùa Pháp Tánh, tăng chúng đông số trăm. Lục Tổ Huệ Năng sau khi được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền y bát, theo lời căn dặn của thầy, Huệ Năng phải rời khỏi tòng lâm Hoàng Mai ngay đêm đó để lánh về phương Nam đến huyện Tứ Hội, nhưng vẫn bị kẻ ác theo dõi muốn hại, để tránh nạn, Hụê Năng phải giả dạng nhập bọn thợ săn ẩn tích suốt mười năm. Một ngày nọ quán biết cơ duyên hoằng pháp đã đến lúc thuần thục, Huệ Năng tìm đến chùa Pháp Tánh trong lúc pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Đại Bát Niết Bàn cho đại chúng. Huệ Năng thấy hai nhà sư đang nhìn lá phướn bay, một vị cho phướn động, một vị cho là gió động. Hai nhà sư đang hồi hăng say viện dẫn lý lẽ “phướn động, gió động” tranh luận sôi nổi, khiến cho tăng chúng vây quanh hào hứng theo dõi cuộc tranh luận của hai sư. Huệ Năng với thân hình chất phác, tóc tai hờm sờm, bước vào lên tiếng: “A! Chẳng phải gió động, mà cũng chẳng phải phướn động. Chính tâm hai nhân giả động đấy!” Mọi người kinh ngạc tỉnh ngộ trố mắt nhìn Huệ Năng. Riêng Ấn Tông đảnh lễ Huệ Năng rồi hỏi: “Hành giả nhất định không phải là người thường”. Tuy Huệ Năng còn là hình thức một cư sĩ, hình dáng thô lậu, nhưng qua câu nói khiến cho Ấn Tông đảnh lễ tôn làm thầy, cầu hỏi yếu nghĩa huyền diệu đạo lý. Huệ Năng nói: “Hoàng Mai không giáo truyền, chỉ luận kiến tánh, không luận thiền định giải thoát”. Ấn Tông hỏi: Tại sao không luận thiền định giải thoát?”. Huệ Năng nói: “Thiền định giải thoát là nhị pháp, không phải là Phật pháp. Phật pháp là pháp không hai”. Ở đây ta nên chú ý, Huệ Năng sở tu sở truyền là nhứt thừa thượng pháp, trực chỉ chân tâm, minh tâm kiến tánh, nên nói “chỉ luận kiến tánh, Phật pháp là pháp không hai”. Người học đạo phải suy ngẫm kỹ ý nghĩa nầy để dẹp tâm phân biệt, diệt tâm nhơn ngã, hạ cờ kiêu mạn, đoạn sạch gai gốc tự ái ích kỷ danh lợi đang tiềm phục nơi tâm thức. Huệ Năng nói tiếp: “Phàm phu thấy hai, trí giả đạt đạo thấy tánh không hai, tánh không hai tức là Phật tánh”. Ấn Tông nghe xong hoan hỷ lãnh thọ, xuống tóc cho Huệ Năng, nguyện phụng thờ như bậc thầy. Lục Tổ Huệ Năng được Ấn Tông hộ trì giúp đỡ nên thuận duyên khai Đông Sơn pháp môn hoằng dương thiền pháp rộng độ nhân gian, khởi đi từ đấy.

Ta thấy pháp sư Ấn Tông đường đường là bậc danh tăng, viện chủ ngôi chùa Pháp Tánh danh tiếng vang lừng, tăng chúng đông đảo, nhưng khi thấy Tổ Huệ Năng là bậc thông bác đạo hạnh ẩn tàng dưới hình thức thô lậu, lại do chính tay mình xuống tóc làm tăng, rồi cũng chính mình xin được tôn thờ người ấy làm thầy. Điều nầy cho chúng ta thấy đúng là tinh thần “tôn hiền trọng đạo, xả kỷ vị nhơn”, làm được như vậy phải là người phi thường, lòng đã sạch ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái mới lập nổi đại công đức, đại thiện nghiệp, lưu danh thơm gương sáng đến hậu thế.

“Thấy người lành thiện không nên nhạo báng”. Phật dạy chúng ta chớ nên làm trở ngại người biết làm thiện. Bảy đời đức Phật đều dạy: “Các điều ác đừng làm, nên làm các điều lành, phải thanh tịnh tâm ý, đó là ý nghĩa chân thật lời dạy của các đức Phật”. Người làm việc thiện dù người đó là thân hay thù, làm thiện nhiều hay ít, ta nên tùy hỷ khen ngợi để cho họ phấn khởi phát tâm hành thiện hơn nữa, tùy hỷ khuyến khích là cơ duyên để cho họ quay về đường thiện, đồng thời tự vấn tự kích phát chính bản thân ta tại sao sa sút tâm lành không hành thiện như họ. Trái lại thấy người làm việc lành thiện ta biếm nhẻ chế nhạo dèm pha làm cho họ đâm ra thối tâm nhụt chí hành thiện, tức là ta đem nước sôi tưới vào cội tâm Bồ đề của người, đồng thời bới gốc Bồ đề tâm của ta cho khô héo. Người tu học Phật phải biết tùy hỷ khuyến hóa hỗ trợ người làm việc lành thiện, phải khéo khuyến hóa người trở thành người chân thiện mỹ, đó mới gọi là lành thiện lợi tha đệ nhứt trong nhân gian. Trái lại, có cử chỉ lời nói làm trở ngại, làm hoài nghi, làm thối tâm người hành thiện, nhất là trở ngại kẻ ác đang hướng về thiện, ấy là người đệ nhất ác trong thế gian.

Thế nào gọi là trở ngại người lành thiện? Như thấy có người bố thí giúp đỡ người nghèo khó hoạn nạn, cúng dường chư tăng, xây chùa đúc tượng, đi chùa nghe thuyết pháp quy y công quả, đã không khuyến khích lại biếm nhẻ, nhạo báng cười cười khinh ngăn cản, đó là tội ác đệ nhất. Kẻ tà tâm ác ý gây trở ngại người làm việc lành thiện, dù cho họ thuộc giàu sang quan chức học thức, hay đến cả kẻ làm cha mẹ đi nữa, mà đối với đạo đức Phật pháp không có tâm tán trợ cũng gọi đó là kẻ vô minh, tâm chất yêu ma, chướng ngại phá hại người lương thiện có tâm chí tiến thân trên đường chân thiện mỹ.

“Không nên nhân lỗi nhỏ mà lmà cho lớn tội”. Phàm là sư trưởng đối với đệ tử nên có lòng thương như con nhỏ, cứ giới pháp như chánh lý đem hết tâm trí khả năng mà dạy dỗ để bồi dưỡng nhân tài cho quốc gia đạo pháp. Dùng ân đức để giáo hóa học trò, nếu chúng có lầm lỗi nên từ hòa thống thiết khuyên dạy, chớ nên khuấy động tội nhỏ thành to, hình phạt nặng nề, trách mắng thậm tệ, như thế chẳng những tránh được đệ tử ôm giữ lòng oán hận, mà còn cảm hóa đồ đệ cải ác theo thiện, trở thành người hiền lương quân tử, nên nói “ân đức sư trưởng vượt hơn cha mẹ” là ý nghĩa nầy vậy.

“Xử sự trái pháp vô lý thì mắc phải đại tội, tội phước đều có chứng cứ, vậy mà không cẩn thận ư?” Câu kinh nầy, đức Phật khuyên chúng ta phải để tâm lưu ý đến nhân quả. Đặc biệt, bậc sư trưởng có bổn phận giáo dưỡng đệ tử, hướng đạo môn đồ và thể hiện mô phạm cho người trần thế kính ngưỡng. Nên sư trưởng tâm lượng ích kỷ danh lợi công cao, đạo hạnh yếu kém thì không tránh khỏi xử sự pháp vô lý, ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái ngự trị nơi tâm thức và hành vi làm di lụy tạo thành đồ đệ bất hạnh bất tri như kinh luật nói: “Chẳng còn biết kính các bậc thượng trung hạ tọa, nào có khác đám Bà la môn ồn ào tụ tập ăn nói hồ đồ. Bất kính thượng trung hạ tọa, Bà la môn tụ hội vô thù”. Như thế thanh danh tông môn bị tổn thương, niềm tin đạo pháp dần dần bị phá sản, quốc gia xã hội phải gánh thêm đám người khuyển mã thất hạnh, đạo pháp phải chịu thêm nạn ký sinh trùng. Trách nhiệm của bậc thầy quan trọng như vậy, nên Phật pháp gọi Hòa thượng là thân giáo sư, là Sư trưởng. Thân giáo sư hay sư trưởng là người mang trọng trách bồi dưỡng tri thức nhơn cách huệ mạng cho đệ tử thành người trượng phu làm rồng voi chuyên chở đạo pháp, đồng thời cũng là trượng phu quân tử ở đời, là kẻ sĩ của quốc gia dân tộc. Do đó nên Hòa thượng, Sư trưởng phải đủ cả khẩu giáo, ý giáo và thân giáo là khuôn thước mô phạm hướng đạo đệ tử.

Cổ đức nói: “Nuôi con mà không dạy dỗ như nuôi heo. Nuôi đệ tử mà không dạy dỗ như nuôi beo. Làm điều bất thiện người biết được thì bị trừng phạt. Làm điều bất thiện người không biết được thì quỷ thần trách phạt. Dùng thuốc giết người bị đọa mười tám tầng địa ngục. Dạy đệ tử nhầm lẫn bị đọa mười chín tầng địa ngục”. Huống nữa là chủ trì ngôi già lam Tam Bảo, lãnh đạo tăng đoàn, mô phạm thiên hạ mà không chánh tâm tịnh ý chuyên trì giới luật, bồi dưỡng phước đức, như pháp y lý hành đạo hóa tha, thì tội phước báo rõ ràng, tự quán biết, tự nghiêm trị chẳng phải thêm lời luận bàn. Cổ đức dạy: “Cư xử cư xử cư dị xử nan! Tri kỷ tri bỉ. Tiên trách kỷ hậu trách bỉ”. Đây là chỉ nam tu tĩnh tiến thân. 




tải về 0.72 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   18




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương